Đến giờ phút này, giới lương tâm ở Việt 
Nam hầu như có thể khẳng định về một khả năng “chìm xuồng” rất lớn đối 
với các tội ác xã hội do các nhóm lợi ích vô đạo đức gây ra.
Ít nhất, những tội ác đó gắn bó không thể
 bền vững hơn với vụ chôn thuốc trừ sâu ở Thanh Hóa và cơn đại hồng thủy
 xả lũ ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên – được hiện thực hóa không hề 
thiếu sinh động và tàn nhẫn bởi các nhà máy thủy điện.
Nicotex Thanh Thái đã trở thành một cái 
tên đáng được ghi vào sách giáo khoa lịch sử Việt Nam.Cái quái thai có 
cái tên thanh lịch trên đã gây ra vài chục người chết vì ung thư và hàng
 trăm trẻ dị tật ở những làng mạc xung quanh.
Cũng chưa bao giờ trong lịch sử chế độ 
cầm quyền ở Việt Nam, cơn bạo bệnh quái thai lại được nhân danh hành 
động xả lũ thủy điện đến thế. Gần năm chục mạng dân nghèo đã bị giết 
trong cơn lũ cực kỳ vô trách nhiệm và vô liêm sỉ.
Hai hành động trên lại chỉ xảy ra không 
bao lâu trước một hành động khác mang tính “đồng thuận” rất cao: Quốc 
hội Việt Nam thông qua bản Hiến pháp năm 2013 với 98% đại biểu cúi đầu 
bấm nút.
Hiến pháp 2013 lại là một đặc trưng lịch 
sử cho quan điểm “cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp” và nhóm 
người “còn đảng còn mình”.
Không có và cũng đã chẳng có bất kỳ nội 
dung quan trọng nào trong Hiến pháp năm 2013 được điều chỉnh so với Hiến
 pháp năm 1992, bất chấp rất nhiều ý kiến và kiến nghị từ các nhân sĩ, 
trí thức và người dân Việt Nam. Trong một hành động vinh danh sau đó, 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn nêu ra một kết luận mang tính mặc định 
“bản Hiến pháp mới đã nói lên tiếng nói của 90 triệu đồng bào”. Dù rằng 
trước đó, kết quả cuộc khảo sát chỉ số công lý 2012 do Chương trình Phát
 triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại Việt Nam cho thấy có đến 42,4% dân 
chúng Việt Nam không biết gì về hiến pháp, hoặc chưa bao giờ nghe nói 
đến hiến pháp!
Vô tình hay hữu ý, từ sau khi bản Hiến 
pháp mới được thông qua, tiến trình điều tra vụ chôn thuốc trừ sâu vào 
lòng đất của Công ty Nicotex Thanh Thái cũng lẩn nhanh vào bóng tối. 
Thậm chí Trung tá Trần Văn Thực – Chánh Văn phòng Công an tỉnh Thanh Hóa
 – còn tuyên bố rằng cơ quan này đã đánh giá lại quá trình xử lý vụ việc
 và xác nhận “chưa thể xử lý gì đối với họ cả”.
Như thường lệ và điều được coi là lề thói
 nội bộ, không thiếu lý do và nguyên nhân chậm trễ được “họ” nại ra. Một
 quan chức được xem là chịu trách nhiệm gián tiếp về nhiều cái chết của 
dân chúng do hành động xả lũ “đúng quy trình” là ông Vũ Huy Hoàng – Bộ 
trưởng Công thương, đã “đi công tác nước ngoài” ngay trong thời gian 
những cái chết bi thiết như thế xảy ra. Nhưng kết quả của cuộc họp với 
ngành thủy điện do vị bộ trưởng này chủ trì đã không làm sáng tỏ được 
bất cứ nguyên nhân trực tiếp nào dẫn đến thảm họa của người dân, trừ 
điều được báo chí mỉa mai “dân chết… đúng quy trình”.
Trách nhiệm của những kẻ thủ ác như Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng vì thế đã được vinh tôn hơn bao giờ hết.
Một trì độn lớn phải dẫn đến những tệ nạn
 nhỏ. Nói cách khác, thói vô cảm và vô trách nhiệm của giới quan chức đã
 kết tinh trong mọi hành động từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao và ngược 
lại. Tất cả đều cho thấy đang và sẽ khó có một đột biến nào về não trạng
 và hành vi đạo đức trong giới này.
“Dắt tay nhau dưới tấm biển chỉ đường của
 ý thức hệ” – như một bức tranh mà ẩn sĩ Hà Sỹ Phu đã phác thảo về tâm 
can giới đảng viên trước đây hai chục năm, nay đã minh họa một cách 
không thể hiện thực hơn về vệt tương lai tất cả cùng kéo nhau xuống hố.
Trong tình cảnh đẫm lệ trên xác người như
 thế, với những người dân vùng rốn lũ và những đứa trẻ còn đeo khăn tang
 cha mẹ, sẽ chẳng còn hy vọng mỏng manh nào để trông mong vào mảnh ghép 
công tâm còn lại của một chính quyền luôn tuyên xưng cho “một xã hội 
công bằng và văn minh”.
Trái lại, xã hội Việt Nam đang bước vào 
thời kỳ mà hầu hết những kẻ giàu có đều có thể mua vé qua cổng thiên 
đường, còn công bằng là một giá trị quá xa xỉ. Giờ đây, thứ công bằng ít
 ỏi còn lại chỉ phụ thuộc duy nhất vào dân chúng, vào chính sự quyết 
đoán của những người dân nghèo khổ và các nạn nhân. Nếu không có người 
vợ mười năm đằng đẵng tìm mọi cách minh oan cho chồng, ông Nguyễn Thanh 
Chấn hẳn đã còn phải chịu cảnh oan sai không chỉ một thập kỷ tù đày.
Hiện tình, đáng lẽ những tội ác tày đình 
của Nicotex Thanh Thái và các nhà máy thủy điện xả lũ giết dân ít ra 
phải bị các nạn nhân đưa ra trước vành móng ngựa. Và tối thiểu, một tòa 
án dân sự phải được thiết lập để phán quyết về chuyện các hung thủ phải 
đền bù cho người dân chịu nạn.
Song điều cay đắng bất nhẫn là cho tới 
nay đã không có bất cứ hứa hẹn nào về khả năng bồi thường, dù chỉ tượng 
trưng, của Nicotex Thanh Thái và các nhà máy thủy điện cho nạn nhân. Một
 sự thật cay đắng không kém trong xã hội đóng kín là cũng chưa có bất kỳ
 tín hiệu nào, dù chỉ manh nha, về một lá đơn khiếu nại của nạn nhân đối
 với những kẻ thủ ác, đối với những vụ việc cần bị xem là trọng án nhưng
 đang nhanh chóng được cho “chìm xuồng”.
Mọi thứ đã vượt quá mọi giới hạn. Tỷ lệ 
phiếu thuận tuyệt đối cho Hiến pháp 2013 cũng là giới hạn tốt nhất từ 
trước tới nay mà giới nghị sĩ dân bầu có thể phủ quyết những quyền lợi 
chính đáng như cơ chế không thu hồi đất đối với nhân dân.
T
hế nhưng dường như sức chịu đựng của 
người dân Việt Nam vẫn nằm trong một hệ thống tiêu chí cam chịu bất 
thành văn. Cũng như thói quen im lặng mãn tính đã di căn diện rộng trong
 giới đảng viên, tâm lý sợ hãi cái hệ thống đó vẫn ngấm ngầm lan tỏa và 
phát huy tác dụng. Đến lượt mình, cái tác dụng này lại khiến cho những 
nạn nhân của nó không đủ sức gắn bó với nhau để chung sức phá tan hệ 
thống tâm lý đáng sợ đó.
Nếu những tội ác dã man nhất cũng không 
còn đọng lại nơi vùng đáy lương tâm của hệ thống tư pháp, hiển nhiên cái
 hố phân hóa giai cấp sẽ ngoác rộng trong một tương lai hoàn toàn thiếu 
thiện chí. Đó là sự đối đầu không thể tránh khỏi, không thể cứu vãn giữa
 khối dân chúng với nhà nước.
Ở một chiều kích lệch pha ngày càng lớn 
với chính thể, số đông dân chúng và giới trí thức có lương tâm càng nhận
 ra rằng xã hội dân sự là cần thiết biết bao vào lúc này. Đơn giản là 
nếu có, dù chỉ là một phong trào dân sự về bảo vệ dân sinh và môi trường
 ở Việt Nam, tiếng nói của phong trào này sẽ lập tức gắn quyện với những
 người chịu rủi ro và sẽ khiến các cấp chính quyền phải miễn cưỡng dịu 
bớt sắc diện vô cảm cùng vô liêm sỉ của họ.
Trong thế cùng đường của ngày càng nhiều 
người dân, có lẽ một hoặc vài ba phong trào như thế sẽ tự nhiên xuất 
hiện trong vài ba năm nữa. Chỉ có điều, nếu một vài xung khắc xã hội và 
giai cấp được giải quyết, ý nghĩa về kết quả của nó sẽ thuộc về những 
người của xã hội dân sự chứ không thể mang tính tô hồng trong các báo 
cáo của chính quyền địa phương.
Phạm Chí Dũng.


Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar