tirsdag 26. februar 2013

Chuyện Hiến Pháp Việt Cộng

 

Nhiều người đều biết rằng, các bản hiến pháp đã có dưới chế độ VNDCCH và CHXHCNVN đều có một điểm vi hiến giống nhau là chúng không hề được "toàn dân phúc quyết" như điểm c của Ðiều 70 Hiến pháp 1946 đã quy định. Cuộc vận động góp ý cho "Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992" lần này chính là một trò bịp bợm lập lờ về cái sự "toàn dân phúc quyết" vừa nói trên!

Tuy đảng CSVN ồn ào hô hào nhân dân đóng góp ý kiến sửa đổi hiến pháp, nhưng trong thâm tâm họ, chẳng coi hiến pháp ra gì. Họ đã lương lẹo và vi hiến ngay từ bản hiến pháp 1946. Chính vì thế, sửa đổi hiến pháp 1992 thật sự chỉ là một "trò khỉ" chẳng còn lừa gạt được ai.

Vì sao đảng cầm quyền phải viện đến kế sách đó vào lúc này? Vì cái gọi là "Ðảng Cộng Sản Việt Nam" ngày nay, thực tế nó đã biến thành một băng đảng mafia mất hết uy tín trước nhân dân. Nhiều nhân vật chính trong băng đảng cầm quyền ngày nay đã hiện nguyên hình là những tội đồ bán nước, những tay sai ngoại bang, những quan tham côn đồ, những cường hào ác bá cướp ngày trắng trợn.
  
Ðể bám được quyền lực thì về mặt đối ngoại, băng đảng này đang hèn hạ dựa dẫm và khuất phục "thiên triều" Trung Cộng bất chấp sự phản đối của nhân dân yêu nước, về mặt đối nội, chúng điên cuồng đàn áp khốc liệt và dã man mọi phong trào yêu nước, mọi dấu hiệu đối lập, mọi cuộc vận động đòi tự do, dân chủ và nhân quyền, đồng thời trắng trợn vơ vét, cướp đoạt đất đai, nhà cửa, tài sản của người dân nhằm chuẩn bị cho những ngày tàn của chúng. 

Tất cả những hành động này chỉ tăng thêm lòng căm ghét và uất hận của đại chúng, càng tích lũy thêm những thùng thuốc súng sẵn sàng nổ tung khi gặp mồi lửa. Chính vì thế, đám đầu đảng đang ra sức bày ra những trò bịp bợm để lừa gạt nhân dân. Một trong những trò đó chính là việc tổ chức góp ý dân để sửa đổi hiến pháp, hòng vớt vát một chút "tính chính thống" nào đó cho việc tiếp tục bám chặt quyền thống trị nhân dân.

Khi bàn đến "tính chính thống" của chế độ, chúng tôi thấy cần lưu ý bạn đọc đến sự kiện lịch sử này: Ðúng là bản Hiến pháp 1946 đã được Quốc Hội miền Bắc thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946, nhưng nó không hề được Hồ Chí Minh ra sắc lệnh ban bố để được thi hành. Như vậy, thực tế là Hiến pháp 1946 đã không được khai sinh, mà bị "bỏ xó", có thể nói là nó đã bị khai tử! Vì thế, Hiến pháp 1946 không hợp hiến, không có giá trị về mặt pháp lý. Ðó là một sự thật không thể chối cãi!

Cố nhiên, đảng cầm quyền không thể thừa nhận thực tế đó, dù nó là một sự thật. Vì nếu thừa nhận thì quy luật khách quan sẽ dẫn đến kết luận này: Vì dựa trên Hiến pháp 1946 không có giá trị về mặt pháp lý mà sửa đổi thì những "hiến pháp" 1959, 1980, 1992, và rồi đây cả 2013 nữa cũng đều không có giá trị về mặt pháp lý. Từ đó, sẽ dẫn đến một kết luận vô cùng nghiêm trọng nữa là: Các chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sinh ra từ những "hiến pháp" vừa nói đó đều không có tính chính thống, không có chính danh! Do đó, các thể chế, các tổ chức chính quyền, các tổ chức chính trị, kể cả đảng Cộng Sản Việt Nam từ năm 1945 về sau đều là phi pháp, đều là những tổ chức tiếm quyền của dân chúng! Tiếc rằng, ở nước ta không có một tòa án bảo hiến độc lập và thực sự có uy quyền để phán xét điều này!

Cũng có thể có người phản bác lại, bảo rằng: Trong Hiến pháp 1946 không có điều khoản nào quy định là chủ tịch nước phải ra sắc lệnh ban bố hiến pháp cả. Ðúng là trong Hiến pháp 1946, người ta đã lờ đi, không ghi điều khoản riêng quy định việc ban bố hiến pháp thật. Ở điểm đ Ðiều 49 Hiến pháp 1946 chỉ nói "các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị" thì phải được chủ tịch nước ban bố mới có giá trị pháp lý để toàn dân thi hành.

Nhưng, ta hãy bình tĩnh mà xét, về mặt pháp lý, hiến pháp cũng là một đạo luật, đạo luật cao nhất, bao trùm nhất, người ta gọi nó là "đạo luật cơ bản", "đạo luật của tất cả các luật". Lẽ nào một "đạo luật" như thế lại không đòi hỏi một sắc lệnh do chủ tịch nước ban bố hay sao? Không có sắc lệnh của chủ tịch nước ban bố hiến pháp, thì hiến pháp cũng như bất kỳ đạo luật nào khác cũng đều không có tính pháp lý!

Phải nói thẳng rằng, trong chuyện này, ta thấy rõ một thủ đoạn rất thâm của Hồ Chí Minh: Là ông cố tình không ghi điều này trong hiến pháp để tạo nên một sự mập mờ cho phép ông và phe cánh ông "tùy cơ ứng biến" sử dụng Hiến pháp 1946 như thế nào tùy theo ý muốn của họ. Hồ Chí Minh và những người cộng sản cũng đã đề phòng trước mọi tình huống phức tạp nên trong Hiến pháp 1946, họ cũng cố tình lờ đi không lập ra Tòa án bảo hiến (còn gọi là Tòa án hiến pháp). Thực ra, việc chủ tịch nước ra sắc lệnh ban bố hiến pháp và việc lập Tòa án bảo hiến là những kiến thức rất sơ đẳng về hiến pháp không thể nào họ không biết! Họ biết, nhưng cố tình lờ đi! Ðây là ý đồ, là âm mưu có tính toán của họ!

Cho nên, sau này khi nảy sinh những vấn đề rắc rối về pháp lý, nhất là về hiến pháp, không có một cơ quan nào như Tòa án bảo hiến đứng ra phán xét cả. Thế là bên hành pháp (chủ tịch nước và chính phủ) tha hồ "nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong", cứ thế suốt đời "cả vú lấp miệng em" để vi phạm hiến pháp. Phải nói thẳng thắn đó là hành vi của những tên bợm "cáo già" làm chính trị, chứ không phải của người làm chính trị trung thực!

Nguyễn Minh Cần.

 

DỰ THẢO HIẾN PHÁP VIỆT NAM

 
DỰ THẢO HIẾN PHÁP VIỆT NAM
Trên Quan Điểm Dân Chủ Hiến Định, Pháp Trị và Đa Nguyên.
 
CSVN đang rầm rộ đưa ra kế hoạch tham khảo ý kiến toàn dân trước khi tu chính hiến pháp 1992. Giai đoạn dân chúng góp ý từ ngày 2 tháng 1 năm 2013 đến 30 tháng 3 năm 2013.
 
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một trò lường gạt dư luận trơ trẽn vì Bộ Chính Trị đã chỉ thị cho Quốc Hội bù nhìn cũng như Ủy Ban Dự Thảo Sửa Đổi Hiến Pháp bằng mọi giá phải duy trì điều 4 hiến pháp và định hướng xã hội chủ nghĩa.
 
Toàn dân Việt không thể kỳ vọng gì nơi một bản tân hiến pháp dân chủ thực sự bao lâu mà người CS còn độc quyền toàn trị trên đất nước.
Nếu người CS thực sự muốn gia nhập tiến trình dân chủ hoá đất nước thì họ phải tiến hành các giải pháp sau đây:
1. Phóng thích tất cả các tù nhân chính trị và lương tâm
2. Ra lệnh cho quốc hội bù nhìn hủy bỏ điều 4 hiến pháp
3. Tu chính Luật Bầu Cử Đại Biểu Quốc Hội 1997, nhất là hủy bỏ các điều 28 và 30 đến 49, cũng như giải tán Mặt Trận Tổ Quốc
4. Thành lập Ủy Ban Bầu Cử độc lập với sự tham dự của các đảng phái chính trị không cộng sản và chấp nhận sự giám sát của Liên Hiệp Quốc
5. Tiến hành bầu cử Quốc Hội Lập Hiến trong đó mọi cá nhân và đảng phái quốc gia có quyền tham dự
6. Quốc Hội Lập Hiến sẽ thành lập Ủy Ban Soạn Thảo Hiến Pháp với sự tham dự của các chuyên gia luật học, nhất là luật hiến pháp, và sự đóng góp của mọi thành phần xã hội dân sự, cũng như các chuyên gia đến từ các nước dân chủ tân tiến khác
7. Quốc Hội Lập Hiến sẽ thảo luận dự thảo hiến pháp và thông qua tân hiến pháp
8. Tiến hành bầu cử tân Quốc Hội Lập Pháp cũng như tân Hành Pháp từ trung ương đến địa phương theo đúng tinh thần tân hiến pháp
9. Hành Pháp và Lập Pháp sẽ xúc tiến bổ nhiệm và thành lập các cơ chế Tư Pháp độc lập (như Tối Cao Pháp Viện)
10. Chiếu theo tân hiến pháp, tất cả các chức vụ lãnh đạo của Hành Pháp, Lập Pháp, Tư Pháp, Quân Đội và Cảnh Sát Công An sẽ tuyên thệ trung thành với tổ quốc và bảo vệ hiến pháp.
Bao lâu mà CSVN chưa thực tâm dân chủ hoá đất nước thì ngày đó, toàn dân còn phải đấu tranh.
 
Đầu năm 2013 khởi đầu một giai đoạn đấu tranh mới khi 72 nhà trí thức trong lòng chế độ đã công bố Bản Dự Thảo Hiến Pháp 2013, trong đó điều 4 hiến pháp và định hướng xã hội chủ nghĩa đã bị hủy bỏ. Dĩ nhiên chúng ta có thể đồng ý hay không đồng ý với điều khoản này hoặc điều khoản kia trong bản dự thảo 2013.
 
Tuy nhiên không ai có thể chối bỏ ý niệm dân chủ trọn vẹn của văn kiện. Đây là một sự đóng góp trí tuệ cần thiết vào tiến trình tranh luận và trao đổi quan điểm cởi mở về một bản hiến pháp dân chủ chân chính cho một nước Việt Nam hậu CS.
 
Mong rằng trong tương lai gần, đất nước chúng ta sẽ có một nền dân chủ chân chính và toàn dân sẽ đạt được sự đồng thuận về một bản hiến pháp mới cho đất nước thời hậu cộng sản.
 
Trân trọng
Hoa Kỳ, ngày 22 tháng 2 năm 2013
Nguyễn Thanh Trang
 

søndag 17. februar 2013

Những Chuyện Ðau Lòng


Mọi người Việt Nam chúng ta luôn ghi nhớ đất nước Việt Nam liền một dải từ mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cái, phía đông giáp biển, phía tây giáp Lào và Campuchia qua dải Trường Sơn hùng vĩ. Ngày nay, những địa danh nói trên vẫn còn nhưng thân thể đất nước Việt Nam chúng ta đã không còn toàn vẹn kể từ khi chế độ cộng sản được thiết lập trên đất nước. Rất nhiều lãnh thổ, lãnh hải, trong đó có nhiều vị trí hiểm yếu về quân sự, quan trọng về kinh tế và an ninh quốc gia đã bị rơi vào tay Trung Cộng.

Mở đầu cho sự mất lãnh thổ của Việt Nam vào tay Trung Cộng là ngày 14/09/1958 CS Bắc Việt đã gửi một công hàm cho Trung Cộng công nhận lãnh hải của Trung Cộng gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Sự công nhận ngầm định Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng vào năm 1958 thực chất là một sự nhượng bán một phần chủ quyền quốc gia Việt Nam nhằm đổi lấy vũ khí và các quân nhu, trợ giúp của Trung Cộng để CS Bắc Việt  tiến hành cuộc chiến tranh với chính thể Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam.

Công hàm 1958 của CS Bắc Việt cũng đã tự vạch trần sự dối trá của Hồ Chí Minh trong tuyên bố: "Dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó vẫn không bao giờ thay đổi."

Năm 1974, CS Bắc Việt đã im lặng, để mặc cho Trung Cộng tấn chiếm Hoàng Sa, bất chấp sự hy sinh của 74 binh sỹ thuộc quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Không những thế lãnh đạo của cộng sản miền Bắc còn giải thích trong nội bộ rằng Hoàng Sa nằm trong tay nước xã hội chủ nghĩa anh em còn tốt hơn thuộc chế độ "nguỵ".

Năm 1988, Trung Cộng tấn công và chiếm giữ một số đảo trong quần đảo Trường Sa, giết chết 88 bộ đội thuộc Quân đội Việt Cộng.

Các hiệp ước biên giới và lãnh hải giữa Việt Cộng - Trung Cộng ký vào những năm 1999 và 2000 lại tiếp tục hợp pháp hóa và gây cho Việt Nam mất thêm hàng trăm cây số vuông lãnh thổ, lãnh hải trong đó có cả ải Nam Quan, một phần của thác Bản Giốc và bãi Tục Lâm chiến lược gần địa đầu Móng Cái.

Ngoài ra, hiện nay Trung Cộng còn khống chế được cả vùng Tây Nguyên – một địa điểm xung yếu về quân sự - qua cái gọi là dự án khai thác Bô-Xít. Trung Cộng cũng đang sử dụng và khống chế hàng ngàn cây số vuông rừng đầu nguồn qua những hợp đồng thuê lên tới 50 năm.

Rất nhiều hợp đồng kinh tế, xây dựng khổng lồ đang rơi vào tay các chủ thầu Trung Cộng. Các hàng hóa giả mạo, độc hại của Trung Cộng đang tràn ngập thị trường Việt Nam. Người lao động Trung Cộng đã có mặt gần như ở khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam.

Tuy nhiên, chế độ cộng sản hiện nay luôn luôn nói rằng phải giữ hòa hiếu, tránh chiến tranh với một nước Trung Quốc khổng lồ.

Nhưng đó chỉ là sự biện bạch dối trá hòng che giấu những hành động tội lỗi tiếp tay, đồng lõa với giặc Tàu của chính thể cộng sản.

Suốt mấy ngàn năm qua ông cha chúng ta cũng luôn phải đối đầu với các âm mưu thôn tính, xâm lấn từ phương Bắc. Nhưng, ngoại trừ một vài kẻ nhu nhược, tuyệt đại đa số các triều vua trước đây của Việt Nam chưa bao giờ chịu khuất phục và không bao giờ lấy lãnh thổ đất nước để đổi lấy cái hòa hiếu với ngoại bang.
Hơn 500 năm trước, khi Việt Nam còn là một đất nước nhỏ bé, cô thế ở phương Nam, vua Lê Thánh Tông đã chỉ dụ các cận thần rằng: "Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di."

Hơn 200 năm trước Hoàng đế Quang Trung đã hành binh thần tốc đúng vào dịp Tết nguyên đán đánh bại 20 vạn quân Thanh, khiến Sầm Nghi Đống tướng lĩnh của nhà Thanh không kịp tháo lui phải thắt cổ tự vẫn tại gò Đống Đa.

Trừ vài kẻ bán nước, cầu vinh, người Việt chúng ta đã luôn luôn bất khuất, kiên cường chống lại kẻ xâm lược to lớn từ phương Bắc. Đúng như Hoàng đế Quang Trung đã nói, ông cha chúng ta luôn luôn kiên cường "đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ."  Nghĩa là phải đánh cho giặc phương Bắc biết rõ rằng nước Việt Nam anh hùng luôn có chủ.

Kính thưa quý vị, vào dịp năm mới chúng ta phải đề cập đến những chuyện đau lòng vừa kể là một chuyện chẳng đặng đừng. Nhưng chúng ta vẫn phải nói đến, vì: Nếu nước mất thì nhà tan!

Các anh em công an và quân đội là người hiểu rõ hơn hết chức trách, nhiệm vụ tối quan trọng của lực lượng vũ trang của một quốc gia trước hết là phải bảo vệ chủ quyền đất nước được toàn vẹn, phải sẵn sàng chiến đấu chống lại bất cứ âm mưu, toan tính xâm phạm nào từ bên ngoài đối với đất nước. Nhưng bạo quyền cộng sản hiện nay lại muốn anh em công an, bộ đội hướng mũi súng vào nhân dân, vào chính ông bà, người thân, đồng bào của mình.

Vì sao? Vì như chúng ta đã thấy bạo quyền cộng sản Việt Nam từ lâu đã bắt tay, qui phục và nhượng bộ chủ quyền cho Trung Cộng để đổi lấy sự đảm bảo về quyền lực độc tài cho họ. Đối với những kẻ cầm quyền hiện nay thì không có sự ủng hộ của Trung Cộng cũng đồng nghĩa với không có quyền, không thể tham nhũng.

Họ muốn thành phần công an, bộ đội sẽ là lực lượng xung kích đi đầu làm lá chắn cho chúng và gia đình chúng. Bởi chúng biết sẽ có một ngày lòng dân sẽ nổi dậy.

Tiến Văn.

lørdag 16. februar 2013

Giải Nobel Hòa Bình 2013

Ðề Cử Giải Nobel Hòa Bình 2013 
Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ 
Linh mục Nguyễn Văn Lý

Hai nghị sĩ Hoa Kỳ Chris Smith và Zone Lofgre gửi  thư đến Ủy Ban Nobel Hòa Bình tại Na Uy nói về hai nhà lãnh đạo tôn giáo, nhà hoạt động dân chủ, và cũng là tù nhân lương tâm nổi tiếng của Việt Nam này tuy phải chịu sự đàn áp thường xuyên từ nhà cầm quyền, nhưng vẫn kiên định tiếp tục cổ xúy nhân quyền cho người dân Việt Nam bằng những cái giá mà bản thân họ phải trả.



Linh mục Lý trong 37 năm qua không ngừng đấu tranh cho tự do tôn giáo và nhiều lần bị  bỏ tù trong những điều kiện giam giữ nghiệt ngã. Vị linh mục 66 tuổi này đã bị tuyên án 4 lần với tổng cộng 53 năm tù đày và 10 năm quản chế.
​​Linh mục Lý hiện đang thi hành bản án 8 năm tù về tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” dù tình trạng sức khỏe đang rất suy yếu.

Phiên xử ông cuối tháng 3 năm 2007 bị công luận quốc tế chỉ trích mạnh mẽ, đặc biệt sau khi bức hình chụp cảnh ông bị một nhân viên an ninh bịt miệng ngay trước vành móng ngựa được phổ biến ra thế giới.
 
 
Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ năm nay 84 tuổi là nhà hoạt động lâu năm và là một học giả tôn giáo được kính trọng. Ngài lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một tổ chức tôn giáo độc lập không được nhà nước cộng sản Việt Nam công nhận trong hơn 37 năm qua. Ngài đã trải qua nhiều chục năm bị giam cầm vì hoạt động dân chủ ôn hòa, kêu gọi nhân quyền và đa đảng tại Việt Nam.  
 
Năm 2001, Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ đưa ra lời Kêu gọi cho Dân chủ Việt Nam với một chương trình 8 điểm thực hiện tiến trình dân chủ hoá Việt Nam một cách ôn hòa. Vì lời kêu gọi này, Ngài bị nhà cầm quyền ra lệnh quản thúc 2 năm mà không qua xét xử. Kể từ năm 2003 tới nay, Ngài bị đưa về quản thúc tại Thanh Minh thiền viện dù không có án lệnh.
 
Thư của hai nghị sĩ Mỹ đề cử Giải Nobel Hòa Bình cho Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ và Linh mục Nguyễn Văn Lý để trao giải thưởng cao quý cho hai nhân vật này là một sự ghi nhận quan trọng rằng các nhân quyền căn bản có giá trị toàn cầu mà tất cả các chính phủ buộc phải tôn trọng.
 
Tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế có trụ sở tại Mỹ, Freedom Now, lên tiếng hoan nghênh sự đề cử này, nói rằng các hoạt động chính đáng của hai nhân vật bất đồng chính kiến vừa kể nên được vinh danh thay vì bị trừng trị. Freedom Now đồng thời kêu gọi Hà Nội trả tự do ngay lập tức cho hai vị lãnh đạo tinh thần.

Cùng lúc đó, Tổ chức Đoàn Kết Thiên Chúa giáo Toàn cầu nói họ hy vọng đề cử này sẽ khiến thế giới chú ý hơn tới tình trạng đàn áp tôn giáo đối với giới bất đồng chính kiến tại Việt Nam ngày nay.

Kết quả Giải Nobel Hòa Bình 2013 sẽ chính thức được công bố vào tháng 10 năm nay.
 
Tin từ Ðài VOV. 

 

torsdag 14. februar 2013

Chân Lý Và Hoà Giải Cho Việt Nam


Thế kỷ 21 chứng kiến sự kiện lịch sử sang trang ở các nước độc tài còn sót lại trên thế giới, trong đó có CSVN. Tình hình thế giới lẫn những biến chuyển tại quốc nội cho thấy, đã đến lúc người Việt đấu tranh cho dân chủ cần nghiên cứu những giải pháp chuyển tiếp chính trị, hầu bảo đảm cho việc ổn định xã hội trong giai đoạn chuyển tiếp từ độc tài sang dân chủ. Chúng ta cũng có nhu cầu đánh tan âm mưu hù dọa hàng ngũ cán bộ, quân đội, và công an CSVN, về khả năng trả thù của một chính quyền dân chủ hậu CS.

Lịch sử chứng minh cho thấy, nếu như một chính quyền mới có đủ trí tuệ và sự khoan dung trong chính sách, họ sẽ ổn định được trật tự xã hội và quốc gia đó có nền dân chủ phồn vinh. Ngược lại, nếu một chính quyền mới thiếu khôn ngoan đeo đuổi chính sách hận thù, thì chắc chắn xã hội nơi đó sẽ bất ổn và đất nước sớm tiêu vong. Đây là một quy luật lịch sử hầu như bất di bất dịch. Trí tuệ và sự khoan dung của phe chiến thắng đã đưa Hoa Kỳ lên hàng cường quốc, đem lại ổn định cùng sự phát triển về kinh tế cho Nam Phi. Trong khi các quốc gia khác như Nga Sô, Trung Hoa, Việt Nam và Zimbabwee, chỉ vì lòng thù hận mà đem lại cái họa độc tài cho dân tộc họ.

Những bài học lịch sử rất nhiều và đa dạng. Tuy nhiên, bài học gần nhất mà dân ta phải học hỏi là từ kinh nghiệm của Ủy Ban Chân Lý & Hoà Giải tại Nam Phi (Truth and Reconciliation Commission), dưới sự chủ toạ của Tổng Giám Mục Anh Giáo, Desmond Tutu. Sau nhiều thập niên đấu tranh chống lại sự cai trị của thiểu số người da trắng, đảng African National Congress dưới sự lãnh đạo của Nelson Mandela đã chiến thắng và lên nắm quyền tại Nam Phi. Thay vì với chính sách trả thù, Nelson Mandela và các cộng sự viên đã hoá giải những hận thù truyền kiếp từ nhiều thế hệ, giữa 2 sắc dân da trắng và da đen trong một quốc gia. Một trong những phương thức được áp dụng đó là Ủy Ban Chân Lý và Hoà Giải. Ủy ban này gồm có 3 tiểu ban:
1- Tiểu Ban Vi phạm Nhân Quyền (Human Rights Violations Committee)
2- Tiểu Ban Bồi Thường và Phục Hồi (Reparation and Rehabilitation Committee)
3- Tiểu Ban Ân Xá (Amnesty Committee)
Mục đích tối thượng của Ủy Ban là quyền lợi quốc gia, qua việc truy tìm sự thật, giúp đỡ các nạn nhân, và trong phạm vi hữu lý thì ân xá cho các phạm nhân.

Lịch sử Việt Nam phức tạp hơn Nam Phi do đó Ủy Ban Chân Lý & Hoà Giải tại Việt nam sẽ gánh nhiều trách nhiệm hơn so với Nam Phi. Thật vậy, chiều dài giai đoạn lịch sử của Ủy Ban Việt Nam chịu trách nhiệm sẽ bắt đầu từ hiện tại, đi ngược lại lịch sử vào thời kỳ Pháp thuộc. Kể từ khi cuộc chiến chống Pháp giành độc lập, lịch sử Việt Nam có quá nhiều công án đẫm máu còn chưa giải quyết đã làm tổn thương tâm thức dân tộc. Các sự thật liên hệ cần phải được điều tra tường tận bởi những chuyên gia vô tư và công bằng. Sau đó, lịch sử phải được nghiêm chỉnh viết lại trên căn bản phi ý thức hệ, hầu lưu lại cho các thế hệ mai sau. 

Chẳng hạn các công án về:
- Sự kiện các đảng phái quốc gia bị người CS tiêu diệt trong giai đoạn kháng Pháp.
- Sự kiện nhà ái quốc Phan Bội Châu bị bắt.
- Cuộc đấu tố cải cách ruộng đất vào thời Trường Chinh làm tổng bí thư, và vai trò của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này.
- Cái chết của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ.
- Biến cố Tết Mậu Thân tại Huế.
- Sự thật về các trại cải tạo sau 30/4/1975, và những biến cố đau thương khác của lịch sử.
- Công hàm của Phạm Văn Đồng liên hệ đến Hoàng Sa và Trường Sa.
- Sự kiện phía sau các hiệp ước về đất và biển giữa CSVN và CSTQ.

Ngoài các tiểu ban như Nhân Quyền, để điều tra sự thật về các vi phạm nhân quyền, ban Bồi Thường & Phục Hồi (hoặc chức năng hoặc danh dự) cho các nạn nhân, và các ban cần thiết khác. Nhưng quan trọng hơn hết chúng ta cần có thêm một ban về Điều Tra Sự Thật Lịch Sử Việt Nam (Historical Truths Rectifications Committee), nhằm trả lại sự thật cho dân tộc sau gần 200 năm lầm than bởi ngoại xâm và chiến tranh ý thức hệ tương tàn. Ban này cần có sự giúp đỡ của các chuyên gia quốc tế về khảo sử, để truy lùng sự thật lịch sử bằng những kỹ thuật khoa học tân tiến nhất. Chúng ta chỉ thật sự tôn trọng nhân dân Việt Nam khi chúng ta tôn trọng sự thật lịch sử.

Tiểu ban Ân Xá giữ một vai trò quan trọng, một khi sự thật được phơi bày thì tác động ân xá có thể được xét đến. Một phạm nhân có thể được ân xá trong phạm vi hữu lý, nhưng mục tiêu tối hậu là quyền lợi lâu dài của tố quốc được bảo vệ. Dĩ nhiên các tội danh như phản quốc, cố sát, hay diệt chủng sẽ nằm ngoài phạm vi quyền hạn của ban Ân Xá. Với các tội danh này ngoài việc toàn dân không chấp nhận ân xá, còn có những hiệp ước quốc tế mà chính quyền Việt Nam một khi ký kết phải tuân thủ như là một quốc gia thành viên của cộng đồng quốc tế. Các cá nhân vi phạm không những phải chịu sự chế tài của Việt Nam, mà còn bị chế tài bởi các toà án quốc tế như Toà Hình Sự Quốc Tế (Inter-national Court of Criminal Justice) tại thủ đô Hoà Lan, The Hague. Lúc đó, trách nhiệm của Ủy Ban Chân Lý và Hoà Giải là sẽ trao toàn bộ hồ sơ và chứng cớ đến các cơ quan chính quyền hay quốc tế liên hệ, để truy tố và xét xử. Các phiên xử này sẽ công khai và công bằng, các bị cáo dĩ nhiên có đầy đủ nhân quyền và dân quyền để tự biện minh cho mình. Sự hiện hữu của một Desmond Tutu của Việt Nam là chủ toạ Ủy Ban, sẽ làm việc cho đất nước trong tinh thần công minh, liêm chính và quy tụ được lòng người, để cùng nhau xây dựng lại một nền dân chủ chân chính cho VN tương lai.

Trong chiều hướng một Ủy Ban Chân Lý và Hoà Giải tôn trọng sự ổn định xã hội và quyền lợi tối thượng của tổ quốc, chắc chắn đại khối cán bộ, bộ đội và công an CSVN sẽ không bị trả thù cá nhân. Họ sẽ trở về với đại khối dân tộc, trong một nước Việt Nam dân chủ thời hậu cộng sản.

Đà Giang.

Triệu Chứng Ðau Ðầu


Đau đầu là một loại nhức đầu có nguyên nhân từ hiện tượng rối loạn vận mạch của hệ thống mạch máu não.
Khởi đầu là cơn đau  đầu nhẹ, có thể một năm bị đau đầu vài ba lần, sau đó chu kỳ đau đầu sẽ xuất hiện nhiều hơn, vài tháng một lần hay vài tuần một lần hoặc xuất hiện hàng tuần. 

Cơn đau thường được khởi phát bởi một số yếu tố sau: khi bệnh nhân bị stress, chịu những biến cố đột ngột xảy đến. Đau đầu cũng có liên quan đến nội tiết, chính vì vậy cơn đau thường xảy ra trong chu kỳ kinh nguyệt, ở tuổi dậy thì, thời kỳ tiền mãn kinh.

Người bị đau đầu thường có các triệu chứng báo hiệu trước. Nhờ những triệu chứng này, bệnh nhân có thể ước lượng được khi nào cơn nhức đầu sẽ đến để tích cực dùng thuốc phòng ngừa, nhờ vậy trong nhiều trường hợp cơn đau nửa đầu không xảy ra hoặc xảy ra một cách nhẹ nhàng. Những triệu chứng báo trước cơn đau  đầu rất đa dạng, bao gồm các triệu chứng rối loạn tiêu hóa như chướng bụng, đầy hơi, chán ăn, thay đổi tính tình đột ngột như rơi vào trạng thái trầm cảm, lo âu, hoặc ngược lại, thể hiện một trạng thái hưng phấn như vui vẻ thái quá, hăng hái làm việc, nói nhiều.

Đến giai đoạn toàn phát sẽ xuất hiện cơn đau đầu kịch phát với cường độ dữ dội. Vị trí đau thường ở một bên đầu, vùng trán, hố mắt hay thái dương, đôi khi cơn đau lan ra vùng chẩm. Cơn đau đầu có thể luân phiên khi đau bên phải, khi đau bên trái, tuy nhiên đến giai đoạn cuối, cơn đau lại trở về khu trú ở một bên đầu. Lúc này cơn đau rất dữ dội, đau từng cơn, đau như xoắn vặn, siết chặt, đau theo nhịp tim, cơn đau cũng tăng lên khi vận động, khi gặp ánh sáng, tiếng động, khi hít phải một số mùi khó chịu như mùi thuốc chữa bệnh, một số mùi của thức ăn.

Tuy nhiên, để có thể giảm tần suất tái phát cũng như giảm cường độ của cơn đau  đầu, bệnh nhân cần thay đổi lối sống, giảm áp lực công việc, tránh những căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày, cố gắng giữ cho mình có một tinh thần lạc quan yêu đời.  

Ngoài ra, bệnh nhân cần uống thêm một số thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm, các loại vitamin, các chất khoáng. Bệnh nhân có thể áp dụng những phương pháp y học cổ truyền như châm cứu, xoa bóp, day bấm huyệt, chỉnh nắn cột sống hay điều trị bằng dược thảo cũng đem lại những kết quả tốt và không có phản ứng độc hại. 

Cách tốt nhất là bạn hãy tìm cách loại bỏ các tác nhân gây nên chứng đau đầu dưới đây:

Công việc:
Công việc là một trong những nguyên nhân lớn khiến bạn đau đầu. Bất kỳ điều gì làm tăng mức độ stress đều có thể gây ra chứng đau đầu do căng thẳng hoặc đau nửa đầu. Đối với chứng đau đầu do căng thẳng, bệnh xảy ra khi các đường truyền dẫn thần kinh trong não trở nên nhạy cảm hơn. Còn chứng đau đầu lại xuất hiện do những thay đổi bên trong não.

Thời tiết nóng:
Khi nhiệt độ lên cao, chứng đau đầu hoặc các chứng đau đầu khác cũng sẽ phát triển theo. Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, nguy cơ đau đầu sẽ tăng thêm 7% nếu nhiệt độ tăng thêm 90F.

Cà phê:
Cà phê làm co thắt các mạch máu và gây ra hiện tượng đau đầu. Vậy nếu bạn là một “tín đồ” của cà phê nhưng lại hay bị đau đầu thì cách duy nhất là phải tiết chế nhu cầu, giảm cả về chất và lượng cà phê bạn uống mỗi ngày.

Mùi hương đậm đặc:
Những mùi đậm đặc, thậm chí là mùi dễ chịu, cũng có thể là nguyên nhân gây ra chứng đau đầu ở nhiều người, bởi mùi hương có thể gây kích thích hệ thần kinh. Những loại mùi có thể gây ra chứng đau nửa đầu gồm có sơn, nước hoa và một số loại hoa.

Phụ kiện của tóc:
Cách trang điểm cho tóc cũng có thể là nguyên nhân khiến bạn đau đầu. Buộc tóc đuôi ngựa chặt có thể làm căng các mô liên kết trong da đầu.  Nếu đây là nguyên nhân khiến bạn đau đầu thì hãy để tóc tự nhiên. Điều này có thể giúp bạn nhanh chóng giảm đau.

Thay đổi giờ ngủ:
Bị mất cân bằng nếu như giờ ngủ bị thay đổi, chẳng hạn như ngủ muộn hoặc sớm hơn so với mọi khi. Hiện tượng đau đầu thường xuất hiện vào buổi sáng sau khi ngủ dậy. Hãy duy trì giờ ngủ cố định.

Các hoạt động thể chất:
Các hoạt động thể chất thỉnh thoảng gây kích thích và dẫn tới đau đầu. Hãy tập luyện phù hợp với thể lực. Ngoài ra, dinh dưỡng kém, uống nước không đủ, cũng là những tác nhân gây đau đầu.

Khi bệnh nhân được chỉ định dùng thuốc kết hợp với những phương pháp một cách chính xác, đồng thời được hướng dẫn để thay đổi lối sống, cách thức ăn uống, kiên trì tập luyện các phương pháp thích hợp thì chứng đau nửa đầu sẽ không còn là nỗi lo.

Bs. Lê Hùng.


Thời Tiết Ðối Với Bệnh Xương Khớp


Sự thay đổi của thời tiết như nóng lạnh thất thường, lúc khô hanh, lúc lại ẩm ướt cùng tác động của các yếu tố bên trong cơ thể như độ nhớt máu, dịch khớp, sự kết tủa của muối, thay đổi nồng độ hóa chất trung gian trong cơ thể, thay đổi vận mạch chính là nguyên nhân góp phần làm xuất hiện các đợt đau xương khớp khi giao mùa.

Trời rét kèm theo độ ẩm tăng cao do mưa phùn làm cho các gân cơ bị co rút lại, dịch khớp đông hơn. Điều đó khiến khớp trở nên khô cứng, đau mỏi, khó cử động. Hơn nữa khi trời lạnh, các thói quen tập luyện hằng ngày cũng bị giảm đi, góp phần làm bệnh nặng thêm.

Ngoài ra, nguyên nhân gây đau khớp còn do sức đề kháng và khả năng tự bảo vệ của cơ thể không đủ, các yếu tố gây bệnh như phong - hàn - thấp cùng tác động xâm phạm đến kinh lạc - cơ - khớp, làm cho khí và huyết vận hành trong mạch lạc bị tắc trở. Trong đó hàn (hay lạnh) đóng một yếu tố quan trọng, vì vậy thời tiết lạnh và ẩm làm người bệnh đau tăng lên. Đặc biệt, ở người già, các chức năng hoạt động cơ thể bị suy yếu làm cho khí huyết giảm sút, không nuôi dưỡng được cân mạch, gây nên tình trạng đau và thoái hóa khớp xương.

Ngoài các biện pháp bảo vệ sức khoẻ chung như dinh dưỡng hợp lý, sinh hoạt điều độ, tuân thủ chế độ thuốc men thường xuyên của mình, người mắc bệnh khớp cần lưu ý là khi trời lạnh, nhất là lúc thời tiết kèm mưa phùn thì phải giữ ấm toàn thân, nhất là bàn tay, bàn chân, đội mũ, đeo găng tay, đi tất, quàng khăn ấm, đeo khẩu trang khi ra ngoài đường. Bệnh nhân có thể ngâm nước muối ấm bàn tay, bàn chân, sử dụng túi chườm nóng, lò sưởi, điều hoà nhiệt độ.

Người bệnh cũng nên phối hợp dùng thuốc và luyện tập, xoa bóp để khớp được vận động linh hoạt. Đi bộ, tập các bài tập giúp cải thiện vận động và giảm cứng khớp. Hoạt động này vào buổi sáng sớm có tác dụng rất lớn trong việc giảm các cơn đau khớp.

Bên cạnh việc giữ ấm cơ thể, uống các loại thuốc bổ sung sức khỏe và luyện tập, người bệnh cũng nên sử dụng các sản phẩm được chiết xuất từ dược liệu có tác dụng hỗ trợ điều trị, hạn chế các cơn đau khớp như Viên Khớp Tâm Bình của Công ty Dược phẩm Tâm Bình.


Viên Khớp Tâm Bình gồm 10 vị thuốc: đương quy, đỗ trọng, ngưu tất, thương truật, độc hoạt, cao quy bản, mã tiền chế, ba kích, tục đoạn, cẩu tích. Trong đó độc hoạt, mã tiền chế, thương truật có tác dụng khu phong trừ phong thấp, thông kinh lạc. Đỗ trọng, ba kích, tục đoạn, cẩu tích có tác dụng bồi bổ can thận, mạnh gân cường cốt, thông huyết mạch, trừ phong thấp. Riêng Tục đoạn còn có tác dụng nối liền gân cốt. Đương quy bổ huyết, bổ can thận, giảm ứ trệ. Cao quy bản bổ sung, tác dụng dưỡng huyết, bổ thận, điều hòa các vị thuốc. Ngưu tất giúp bổ can thận, mạnh gân cốt, dẫn thuốc vào thận. Các vị thuốc này phối hợp với nhau tạo nên tác dụng bổ can thận mạnh mẽ, giảm đau nhức xương khớp như: đau vai gáy, đau lưng, đau thần kinh tọa, đau thần kinh liên sườn, thoái hóa cột sống, thoái hóa khớp gối, viêm đa khớp, giảm cảm giác tê bì chân tay, mạnh gân cốt, tăng cường miễn dịch, đem lại sự dẻo dai và linh hoạt cho người bệnh.

Ngọc Bích.


Tê Nhức Chân Tay

 

Tê nhức chân tay là triệu chứng phổ biến, xuất hiện ở nhiều đối tượng, từ người già đến người trẻ và gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt hằng ngày. Bệnh thường do nhiều nguyên nhân khác nhau, có khi là biểu hiện sinh lý bình thường của cơ thể và không cần điều trị, nhưng đa phần là dấu hiệu của nhiều chứng bệnh khác nhau, từ bệnh lành tính dễ điều trị đến bệnh phức tạp, nguy hiểm đến tính mạng.

Thông thường, tê nhức chân tay khởi phát rất nhẹ nhàng như tê các đầu ngón tay, cảm giác như châm chích, kiến bò, rất khó chịu. Càng về sau, mức độ tê đau càng tăng. Các ngón tay bị tê nhức, tê buốt nhiều hơn và đau lan dọc cánh tay, cẳng tay gây khó cử động và cầm nắm. Những triệu chứng này có thể xuất hiện tương tự ở các ngón chân, bàn chân, cổ chân, cẳng chân, đùi, mông, vùng thắt lưng.

Theo Tây Y, tê nhức chân tay là hậu quả của nhiều chứng bệnh như thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm, hội chứng viêm ống cổ tay gây chèn ép và tổn thương mạch máu và dây thần kinh. Ngoài ra, những bệnh rối loạn chuyển hóa như đái tháo đường, cao mỡ máu, xơ vữa động mạch, béo phì, thiếu vitamin và khoáng chất cũng dễ gây tê nhức chân tay. 

 

Y học cổ truyền, tê nhức chân tay hay còn gọi là tê bì (ma mộc) với các triệu chứng rối loạn cảm giác ở tay, chân và chia thành 2 mức độ. Tê (ma) là hiện tượng da bị tê rần nhưng vẫn cảm nhận được kích thích và có thể sinh hoạt bình thường. Bì (mộc) là giai đoạn sau của tê, khi đó tay chân mất hết cảm giác, tê bại hoàn toàn. Người bệnh không còn cảm nhận được kích thích, khó cử động và có thể bị liệt cơ, teo cơ.

Tê nhức chân tay thường gặp khi sức khỏe giảm sút, sức đề kháng của cơ thể bị suy giảm nên dễ bị tác động bởi gió (phong), lạnh (hàn), ẩm thấp (thấp) khiến kinh mạch bị ứ trệ, khí huyết kém lưu thông, gây nên các triệu chứng tê mỏi, chân tay lạnh, tê buốt, co mỏi, các khớp đau nhức, vai gáy và lưng gối đau mỏi.

Hiện nay, phương pháp điều trị tê nhức chân tay đã có nhiều tiến bộ và lựa chọn. Điều trị tê nhức chân tay cần kết hợp Đông Y và Tây Y. Khi bị đau cấp tính, người bệnh nên ưu tiên dùng thuốc Tân Dược để giảm đau ngay nhưng cũng không nên lạm dụng thuốc giảm đau trong thời gian dài do tác dụng phụ của chúng, nhất là trên đường tiêu hóa cũng như gan, thận. Về lâu dài, người bệnh nên sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc Đông Y do tính an toàn, cũng như hiệu quả điều trị cao. Một trong những sản phẩm điển hình trong việc điều trị tê nhức chân tay là: Tê Nhức Chân Tay hiệu Bảo Nguyên.



Tê Nhức Chân Tay hiệu Bảo Nguyên được kế thừa từ các bài thuốc y học cổ truyền, giúp hỗ trợ điều trị tê nhức chân tay và đau nhức xương khớp. Được bào chế từ các thảo dược, tê nhức chân tay hiệu Bảo Nguyên giúp tăng cường lưu thông khí huyết và thông kinh mạch, trừ phong thấp, từ đó trị các triệu chứng tê mỏi, chân tay lạnh, tê bì, tê cứng, tê buốt, co mỏi, các khớp xương đau nhức, vai gáy và lưng gối đau mỏi.

Ngọc Bích.

 

mandag 11. februar 2013

Xuân Quý Tỵ - Xuân Hy Vọng


Mùa Xuân là thời điểm khởi đầu cho một chu kỳ mới, với hy vọng có những sự kiện may mắn, tốt đẹp hơn so với giai đoạn vừa qua. Đối với dân tộc Việt, Xuân Quý Tỵ sẽ đem lại những hy vọng gì

Mùa Xuân hàm chứa sự đổi thay, từ cái lạnh giá, trơ trụi của mùa Đông, chuyển qua một chu kỳ tuần hoàn mới với nắng ấm chan hoà, lá hoa tươi nở. Sự chuyển đổi này biểu hiện niềm hy vọng một vận hội mới mẻ và tốt đẹp đang đón chờ.

Đất nước Việt Nam bước vào Xuân Quý Tỵ cũng chứa chan hy vọng về một tương lai xán lạn không xa. Hy vọng vì sau những tháng ngày tăm tối, giai đoạn trước mặt đang loé lên một số tia nắng có khả năng lan tỏa, xuyên thủng màn đêm đã phủ trọn đất nước suốt thời gian nhiều thập kỷ. Và cũng hy vọng vì đó đây đã có một số mồi lửa hàm chứa tiềm lực chế ngự, đẩy lùi sự rét buốt, giá lạnh đang bao trùm đất nước bao năm qua.

Tia nắng đó chính là sự chuyển mình của giới trí thức – vốn im lìm trong một thời gian dài, tưởng chừng như đã mai một, không còn hiện hữu trong lòng dân tộc. Sự chuyển mình phát xuất từ nhiều nguyên nhân, nhưng chính yếu vẫn là nhận thức về cái thiện và cái ác. Cái ác đây chính là sự sai hỏng từ căn bản của Đảng CSVN. Mặc dù cái ác đã được cải trang, tô vẽ để che dấu bản chất thực sự, nhưng trong bối cảnh của thế kỷ 21, sự dối gạt không thể tồn tại. Và khi sự thật đã phơi bày thì chỉ trong chốc lát nó đã được loan truyền, quảng bá xâu rộng! Khi cái ác đã hiển hiện nguyên hình thì lương tâm của kẻ sĩ thôi thúc họ phải vượt lên nỗi sợ để phản đối cái ác, suy tôn điều thiện.

Và mồi lửa đó chính sự vùng dậy của tuổi trẻ Việt Nam trước thái độ và hành động "hèn với giặc, ác với dân" của tập đoàn lãnh đạo đất nước. Sự vùng dậy này được thúc đẩy bởi nhiệt tình hăng say và tâm nguyện trong sáng của tuổi trẻ, hoàn toàn không vì mưu cầu danh lợi, bổng lộc. Vì vậy nó có khả năng đánh động, thôi thúc sự vùng dậy của các thành phần khác trong xã hội. Trong bối cảnh ngày nay, với kiến thức kỹ thuật tân tiến, lực lượng thanh niên có khả năng phá vỡ mọi bức tường ngăn chận thông tin của tập đoàn thống trị khiến cơn bào lửa khi đã được khởi phát sẽ bùng cao và lan rộng nhanh chóng!

Nhưng không phải chỉ có sự trỗi dậy của tuổi trẻ và sự chuyển mình của trí thức là yếu tố duy nhất tạo nên niềm hy vọng của mùa Xuân Quý Tỵ.

Sự phẫn nộ của những nông dân bị cướp mất ruộng vườn cũng là một yếu tố quan trọng góp phần vào việc phá vỡ guồng máy thống trị. Phong trào dân oan ngày nay hiện hữu ở mọi miền đất nước. Và đã có những hành động bằng vũ lực, người dân đem mạng sống của mình để bảo vệ ruộng vườn do mồ hôi nước mắt tảo tần gầy dựng, nay bị thành phần cai trị chiếm đọat. Đã có những cuộc xuống đường tập thể để ngăn chận bè lũ tham quan sai áp nhà cửa, ruộng vườn.

Quan trọng không kém là sự thức tỉnh của thành phần đảng viên, bộ đội. Đây là những người đã xả thân cho Đảng hoặc vì họ đã sinh ra và lớn lên trong lòng chế độ nên không có sự lựa chọn nào khác hoặc vì họ đã bị dối gạt, phỉnh dụ, nhồi sọ nên tin tưởng đây là guồng máy phục vụ cho dân, cho nước. Nhưng rồi thực tế đã phơi bày rõ cái bản chất phản dân hại nước, nhất là khi Đảng đã chiếm toàn bộ đất nước, chuyển từ vai trò đấu tranh giành quyền qua vị trí thống trị và hưởng thụ. Có thể nói đây là thành phần bị phản bội một cách đau đớn nhất, vì trước đây họ đã hy sinh tính mạng và tài sản để đảng có được ví trí thống trị như hôm nay!

Thành phần này khá đông đảo và đã hay đang giữ một số chức vụ quan trọng. Sở dĩ một số đông chưa tỏ thái độ và chưa bắt tay hành động, vì hơn ai hết, họ biết rõ khả năng và thủ đoạn của tập đoàn đang nắm quyền thống trị. Họ đang mai phục, và khi ngòi nổ phát nổ, đây là chính là khối thuốc súng có khả năng giật sập toàn bộ guồng máy thống trị nhanh chóng và hữu hiệu vì biết rõ cách thức vận hành của guồng máy này.
Một lực lượng quan trọng khác là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS sinh sống khắp nơi trên thế giới. Quá trình đấu tranh của thành phần này khởi đi từ ngay sau khi Đảng CS cưỡng chiếm miền Nam bằng vũ lực gần 40 năm trước. Khác với sự tuyên truyền phỉnh gạt của CSVN, mục tiêu tranh đấu của lực lượng này hoàn toàn không phải để "trả thù, rửa hận", hoặc trở lại với quá khứ. Trái lại họ tranh đấu cho một tương lai tuơi sáng, trong đó đất nước có được tầm cao xứng đáng với chiều dài lịch sử.

Chính vì nhận thức như vậy mà công cuộc đấu tranh của cộng đồng người Việt hải ngoại ngày càng tăng cao, mở rộng, lớp lớn tuổi chậm bước thì thành phần trẻ lên thay. Và vì có điều kiện nhìn rõ, học hỏi và thu thập các kiến thức, kinh nghiệm của xã hội văn minh, tân tiến, nên lực lượng này không chỉ góp phần khôi phục tự do, dân chủ cho đất nước mà còn khả năng đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước, cũng như công cuộc bảo vệ bờ cõi trong tương lai khi chế độ độc tài toàn trị cáo chung.

Còn biết bao yếu tố khác làm tăng thêm niềm hy vọng trong mùa xuân Quý Tỵ! Có thể nói, trước thực trạng của đất nước, chỉ có thiểu số hưởng lợi lộc là còn bám víu vào Đảng, còn hầu hết các thành phần dân tộc, các tầng lớp dân chúng khác đều đã quá chán ngán với sự thống trị của Đảng CSVN. Từ các tôn giáo, công nhân, lao động, đến các sác tộc, ai cũng đều nhận thấy sự thống trị này ngày càng đưa đất nước tới bờ vực thẳm, vực thẳm của nghèo đói, của huỷ hoại văn hoá, và của hiểm hoạ bị Bắc thuộc.

Với niềm hy vọng đó, Xuân Quý Tỵ sẽ là thời điểm báo khởi đầu cho sự cáo chung nhanh chóng của chế độ độc tài CSVN, để từ đó toàn dân, trong và ngoài nước, đồng tâm hiệp lực xây dựng đất nước và bảo vệ bờ cõi./.

Hải Nguyên.

NGÀY TẾT TRONG TÂM THỨC VIỆT


 
Trong những lễ hội dân gian, người Việt xem trọng nhất là Tết. Tết là phong tục truyền thống của người Việt từ xa xưa cho đến ngày nay. Dân gian vẫn thường phân biệt là Tết ta và Tết Tây chứ không ai nói là tết Tàu vì chỉ dân tộc Việt Nam mới có chữ “TẾT” mà thôi, Hán ngữ không có chữ tết nên Tết là của Việt Nam chứ không phải của Tàu. Thật vậy, trong Kinh Lễ viết Tế-Sạ. Tết mà Khổng Tử, người thầy muôn đời của người Trung Quốc đã giải thích với học trò:"Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là "Tế-Sạ". Điều này chứng tỏ rằng người Trung Quốc không có tết và Kinh Lễ là của người Việt cổ nên tên gọi tết cổ của người Thái là chi Âu Việt trong Bách Việt cũng gọi Tết là Thê-Sa.
 
Tết là ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và sắc dân ở khắp miền Đông Nam Á. Ngày nay, các công trình nghiên cứu đã xác định cư dân Đông Nam Á cùng chung chỉ số sọ, cùng một mã di truyền DNA, nên là những chi tộc Việt trong Bách Việt. Chính vì vậy, tất cả đều ăn tết, chữ tết cùng một nguồn gốc với chữ Tết của Việt tộc. Đồng bào Nùng cũng đọc là tết (nèn tết=năm tết), đồng bào Mường cũng ăn “Thêt”= ăn tết như đồng bào Việt, đồng bào Thái thì có lễ mừng năm mới gọi là Thêts. Thêts khal là mùa tết, những ngày tết, khal text là ngày tết. Đồng bào Chàm cũng có tết mà họ gọi là “Tít” vào lễ tháng năm của lịch Chàm cổ, “băng tít” là ăn tết, kTêh là lễ hội lớn nhất trong năm của người Chàm. Người Mon cũng ăn tết mà họ gọi là Ktêk. Người Khmer cũng có lễ hội “Chêtr” là Tết mừng tháng 5 theo cổ lịch Khmer là tháng gió mùa bắt đầu thổi ngược lại, tháng của mùa gió nồm ở Đông Nam Á tùy theo nơi, từ cuối tháng tư đến cuối tháng năm. Ấn Độ cũng có chữ “Chetr” để chỉ tên tháng tư và tháng năm là 2 tháng giao mùa từ mùa nắng sang mùa mưa trong lịch Ấn Độ cổ. Đặc biệt ở Népal cũng ăn tết trong “Lễ đầu năm” cổ truyền của người Népal và người Munda cũng có lễ ăn mừng mùa mưa đến gọi là “Teej”* như các quốc gia nông nghiệp trong Bách Việt.
 
Đặc biệt, truyền thuyết dưới dạng truyện cổ tích Việt Nam về lễ Tết lưu truyền trong dân gian từ bao đời nay gắn liền với ý niệm cha Trời, mẹ Đất. Ý niệm về Đất Trời được thể hiện qua hình tượng Bánh Chưng bánh dày ngay từ thời vua Hùng thứ tám (Sách sử xưa viết là vua Hùng thứ sáu vì không kể Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân, chỉ tính từ vua Hùng thứ nhất. Thực ra phải nói là vua Hùng thứ tám mới đúng theo quốc phổ ghi trong Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư và phù hợp với niên đại lịch sử. Truyện kể rằng, vua Hùng thứ tám sau khì nhờ Phù Đổng Thiên Vương “Cậu bé nhà Trời” phá tan giặc Ân đã chọn người con thứ 9 là Lang Liêu để truyền ngôi. Tương truyền trong khi 21 người anh em đi tìm sơn hào hải vị để đến tết dâng lên vua cha cúng tiên vương cho tròn đạo hiếu thì Lang Liêu do mẹ mất sớm, gia đình nghèo nên chỉ biết dâng lên vua cha cặp bánh chưng hình vuông và bánh dầy hình tròn. Lang Liêu là người con hiếu thảo, biết thương người đang buồn rầu lo nghĩ rồi tủi thân vì mẹ mất sớm nên không ai phụ giúp nên “Thần nhân” hiện ra mách bảo Lang Liêu rằng: “Trong trời đất, không vật gì quý hơn gạo vì gạo là để nuôi dân, người ta ăn mãi không bao giờ chán. Nếu con lấy gạo nếp nấu sôi lên rồi đem quệt cho thật nhuyễn, nặn thành hình tròn để tượng trưng cho trời gọi là bánh dầy. Lấy gạo nếp trắng tinh đem vo sạch, cho nhân thịt và đậu xanh vào giữa rồi lấy lá dong xanh gói rồi đem nấu chín gọi là bánh chưng”. Vua Hùng thấy Lang Liêu là người biết tri ân Trời Đất, ông bà Tiên tổ, lại biết thương yêu đồng bào nên chọn chàng lên ngôi kế vị vua cha. Từ đó, dân gian Việt có tập tục là đến ngày lễ tết thì làm bánh dầy cúng trời đất, gói bánh chưng để cúng ông bà tiên tổ. Ý niệm vuông tròn biểu trưng cho trời đất và sự hoàn thiện, tuyệt mỹ nên dân gian thường chúc nhau “Mẹ tròn con vuông” mỗi khi sinh đẻ. Tinh hoa của minh triết Việt chỉ ra rằng cuộc sống phải hội đủ 2 yếu tố Âm dương mới đầy đủ viên mãn. Đó chính là “Đạo” vì phải có cả âm dương mới là đạo. Đạo Trời, đạo Đất và cũng chính là đạo người (nhất âm nhất dương chi vị đạo).
 
Trong văn học thường viết Tết gắn liền với chữ Nguyên Đán là Tết Nguyên Đán. Truyền thuyết xa xưa kể lại rằng Đế Chuyên Húc, ông vua Việt cổ thời cổ đại gọi tháng giêng là NGUYÊN, gọi mồng một là ĐÁN rồi ghép lại là Nguyên Đán tức mồng một tháng giêng. Tầm nguyên ngữ nghĩa của hai chữ Nguyên Đán sẽ cho ta thấy rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng của Tết Nguyên Đán. Nguyên là mới bắt đầu, Đán là một chữ tượng hình, ở bên trên là chữ nhật chỉ mặt trời, bên dưới là chữ nhất thay cho mặt bằng phẳng khiến chúng ta liên tưởng mặt trời từ từ lên cao, tượng trưng cho một ngày mới bắt đầu. Nguyên Đán là ngày đầu năm đầu tháng giêng Âm lịch. Do đó, Tết Nguyên Đán là ngày đầu tiên của tiết đầu của một năm mới.
 
Từ thời cổ đại cho tới Nhà Hạ vẫn lấy ngày mồng một tháng giêng là ngày Tết của người Việt cổ. Nhà Hạ ăn tết nhằm cung dần, dựa theo nông lịch tức tiết đầu xuân lúc khởi đầu có sấm. Khi tộc Thương (Hán tộc) đánh đuổi Nhà Hạ (Việt tộc) khỏi Hoa Bắc thì Hán tộc chọn ngày 1 tháng 12 âm lịch là Tết Nguyên Đán, đến triều Chu chọn ngày 1 tháng 11 âm lịch, triều Tần chọn ngày 1 tháng 10 âm lịch cho cả Trung Quốc. Mãi đến thời Hán Vũ Đế chịu ảnh hưởng của văn hoá Bách Việt phương Nam nên chọn lại ngày 1 tháng giêng là Tết Nguyên Đán. Ngày nay, Trung Quốc lại chọn ngày 1 tháng 1 Dương lịch tức Tết Dương lịch của Tây phương làm ngày Tết Nguyên Đán nhưng dân gian phần lớn là người gốc Việt cổ vẫn “Ăn Tết” vào ngày mồng 1 tháng giêng. Duy chỉ có dân tộc Việt Nam trước sau như một vẫn bảo lưu truyền thống “Nông lịch” của người Việt cổ lấy ngày mồng một tháng giêng Âm lịch là ngày Tết Nguyên Đán còn gọi là Tết Ta để phân biệt với Tết Dương lịch 1 tháng 1 Dương lịch là Tết Tây.
 
Đối với người Việt, cái Tết có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống. Thật vậy, ngoài cái giờ phút thiêng liêng chuyển đổi của đất trời qua “Giao thừa” sang năm mới, mọi người trong gia đình mỗi người đều mang một tâm trạng riêng, nhớ tới những người thân đã khuất còn hiển hiện quanh đây, trong không khí ấm cúng của gia đình đêm ba mươi tết. Trên bàn thờ với đĩa ngũ quả khói hương nghi ngút, đan quyện linh hồn những người đã khuất với kẻ còn sống đang tưởng nhớ tới họ. Tết nhất cũng là dịp gia đình đoàn tụ xum vầy, cháu con dù đi làm ăn xa đến đâu nếu có phương tiện vẫn trở về mái ấm gia đình, để hàn huyên tâm sự chia xẻ những khó khăn trong cuộc sống.
 
Hàng năm cứ vào những ngày cuối tháng chạp (tháng 12 ÂL), ai cũng nao nao trong lòng về ngày Tết sắp đến. Qua ngày hai mươi là Tết đến nơi rồi, không biết năm nay những người thân xa quê hương ai sẽ về đón Tết, ăn Tết với gia đình? Để chuẩn bị vui đón cái tết đúng ý nghĩa của nó, gia đình nào cũng phải trang hoàng nhà cửa, sửa soạn bàn thờ Gia Tiên với đĩa “Ngũ quả” gồm 5 loại trái cây là trái sung, trái mãng cầu, trái dừa, đu đủ, xoài nói lên ước vọng tâm tư dân dã miền Nam. Cầu (mãng cầu) trời khấn phật cho vừa (dừa) đủ (đu đủ) xài (Xoài). Người Việt miền Bắc thì trong đĩa ngũ quả phải có một chùm quả Sung ước mong sự sung túc cho gia đình.
“ Mỗi năm hoa Đào nở,
lại thấy ông Đồ già ..
Nghiên mực tàu giấy đỏ,
bên phố đông người qua…
 
Ngày xưa dân gian thường nhờ ông Đồ viết đôi câu đối để chúc tụng, cầu mong tài lộc hạnh phúc theo ý của mỗi người: “Hoa tay thảo những nét, Như Phượng múa Rồng bay”. Năm nay “Đào lại nở” nhưng ít thấy ông Đồ xưa nên chúng ta phải nhờ mấy “ông Thư pháp trẻ” viết vài chữ, vài câu gọi là mừng xuân. Giới trẻ thì trước tết đã rủ nhau đến hiệu sách chọn mua thiệp Xuân để gửi chúc tết đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp với những lời chúc mừng nhân dịp Xuân về.
 
Ngày 23 tháng chạp là ngày ông Táo lên trời. Đêm giao thừa 30 tháng chạp, ông Táo lại trở về trần gian với gia đình vào thời điểm “năm cùng tháng tận” mang lại hy vọng cho gia chủ sang năm làm ăn may mắn phát tài phát lộc. Vào dịp cuối năm, gia đình nào cũng lo sơn quét nhà của đón Tết nhưng cũng không quên ra thăm viếng sửa sang sơn quét những ngôi mộ của người thân, đó chính là lúc tâm hồn người ta chùng xuống chạnh nhớ ông bà cha mẹ, nhớ những ngày tháng đã qua trong cuộc đời trong tâm thức mỗi con người. Lễ Tết còn thể hiện tình bà con nghĩa làng nước, gia đình này bàn với gia đình kia mổ chung một con heo, nấu chung nồi bánh chưng, bánh tét để được ngồi bên nhau canh nồi bánh kể chuyện râm ran cả một quá khứ tuổi thơ hiện về ngập tràn tâm tưởng.
 
Trước Tết nhà nào cũng lo đi sắm Tết, mua cho con trẻ bộ áo mới để mặc tết. Đúng giờ Giao thừa, gia đình đứng trước bàn thờ gia tiên để khấn vái ông bà Tiên Tổ phù hộ cho mọi người. Trong không khí trang trọng đặc biệt của ngày Tết, trên bàn thờ khói hương nghi ngút, con cháu lần lượt chúc tuổi các bậc trưởng thượng ông bà cha mẹ được sống lâu trăm tuổi, rồi ông bà cha mẹ lại mừng tuổi cho con cháu mau khôn lớn, học hành thành đạt … Sau đó, gia đình anh chị em rủ nhau đến chùa lễ Phật hoặc đến nhà thờ nhưng không quên tập tục dân gian xưa là bẻ một cành cây có lá non gọi là “Hái lộc” mới đem về nhà cho sang năm gia đình được nhiều may mắn, tài lộc.
 
Truyền thống dân gian Việt là “Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy” đã nói lên đạo hiếu của bổn phận làm con và truyền thống “Tôn sư trọng đạo” của người Việt. Ngày mồng một tết, sau khi chúc tuổi thọ cha mẹ, dân gian còn phải đến chúc tết các bậc trưởng thượng trong dòng họ rồi chúc tết bà con cô bác, hàng xóm láng giềng. Đi đến đâu, vào nhà nào cũng được tiếp đón linh đình nồng hậu hơn mọi ngày với nay đủ món ngon vật lạ ngày tết.
 
Ngoài ý nghĩa tâm linh của ngày tết, dân gian Việt thiên về cuộc sống tình cảm nên xem ngày tết như là một dịp để quên đi những vất vả gian truân của cuộc sống, quên đi những buồn phiền hiềm khích năm cũ đẻ vui vẻ đón tết, ăn tết. Không một ai trong chúng ta lại không nhớ đến nỗi vui mừng khi nhận những bao tiền “Mừng Tuổi” “lì xì” màu đỏ rực thời còn nhỏ dại của người thân mừng tuổi cho những đồng tiền mới tinh. Người Việt Nam chúng ta không ai có thể quên được không khí tưng bừng nao nức của ngày tết với câu đối đỏ, những bức tranh tết đỏ rực, những câu đối chúc tụng, những tràng pháo đỏ treo trên cây nêu hoặc trên cao để đúng giờ giao thừa nổ liên hồi để xua đuổi tà ma nên đêm ba mươi dân gian còn gọi là “đêm trừ tịch”. Tiếng pháo nổ dòn giã vang rền, có nơi còn múa lân để chúc mừng gia chủ khiến lòng người ai ai cũng hoan mừng chờ đón giây phút thiêng liêng trọng đại đó để “Tống cựu nghinh tân”, đạp cái xấu xa xui xẻo năm cũ để đón mừng một năm mới tràn đầy hy vọng. Làm sao có thể quên được những đôi môi mọng đỏ của các cô gái khi cắn hạt dưa. Cái thú ngồi cắn hạt dưa đến rát cả lưỡi mà vẫn cắn không biết chán, những tiếng cười ròn rã, những câu truyện râm ran suốt cả đêm. Tết nhất với đủ mọi món ăn nào là thịt mỡ dưa hành, giò chả rồi bánh chưng, bánh tét tha hồ mà ăn đến ngán ngẫm ê hề.
 
Nói đến Tết không ai không nhớ đến bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên vào những ngày cuối năm với cái tết dân gian thấm đậm truyền thống Việt: “Nêu cao, pháo đỏ bánh chưng xanh, thịt mỡ dưa hành …” của không khí ngày tết ở làng quê: “Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột. Loẹt loè trên vách bức tranh gà ..! Bên cạnh những tấm lòng chân thật còn có những lời chúc “Đầu môi-chót lưỡi” của những phường giả dối nên thi sĩ Tú Xương đã mỉa mai cay đắng:
 
“ Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu …!!!”
 
Mỗi lứa tuổi đón tết một cách khác, trẻ em thì vui mừng mong đợi ngày tết với những ước mơ đơn giản đời thường với bao tiền lì xì mừng tuổi, bộ quần áo mới và bánh thịt phủ phê năm ba ngày tết. Tuổi thanh xuân thì ngao du đây đó xa nhà, có người lo làm ăn sinh kế nên phải xa nhà tha hương nơi đất khách quê người, chợt một lúc nào đó cảm thấy hụt hẫng thiếu vắng một cái gì khiến tâm tư lắng đọng nhất là những chiều cuối năm nắng hanh vàng vọt bên thềm khiến lòng ta xao xuyến:
Chiều cuối năm gợi nhớ,
Trở về mái nhà xưa …
Ngập tràn bao kỷ niệm,
Thương biết mấy cho vừa ..!
Chiều cuối năm gợi nhớ,
Một thoáng buồn xa đưa …
Những người thân thương cũ,
Chờ ai đón Giao thừa ..?!
(Phạm Trần Anh)
 
Thi sĩ Thế Lữ cũng đã trải qua những ngày tết xa nhà nơi gác trọ mới cảm thấy một nỗi buồn thấm thía:
Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ ran ...
Rũ áo phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang ..!
 
Với tuổi già thì những ngày cuối năm biết bao nhiêu buồn vui cuộc sống đủ để trầm ngâm về thế thái nhân tình, về cõi nhân sinh riêng mình chứng nghiệm! Nhìn bàn thờ khói hương nghi ngút, nhớ những người thân đã qua đời, những bạn bè không còn nữa, chậm rãi vuốt chòm râu bạc nhấp một hớp rượu rồi khề khà ngâm vịnh:
 
“ Nén hương khói toả thờ Tiên Tổ,
Chén rượu ngâm nga chúc bạn bè ...!”
 
Vào tuổi “Thất thập cổ lai hi”, với cái nhìn thấu suốt toàn diện cuộc đời sau bao năm thể nghiệm cuộc sống để cuối đời nhận chân được qui luật muôn đời của con tạo xoay vần, của sinh lão bệnh tử nên bình thản chấp nhận tuổi già xồng xộc đến, chờ đón cái chết một cách ung dung tự tại như bài kệ “Cáo tật Thị chúng” của thiền sư Mãn Giác:
 
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai ..
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai ..
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai ..!
Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa tươi ..
Việc đời qua trước mắt,
Trên đầu già đến rồi …
Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng mãi,
Đêm qua sân trước một cành mai ..!
 
PHẠM TRẦN QUỐC VIỆT