onsdag 19. mai 2010

Tưởng Nhớ Biến Cố 30.04.75

Tưởng Nhớ Biến Cố 30.04.75

Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói:
“Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”.
Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.
Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.
Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau:
- “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau:
- “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”
Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi:
- “Quân không Tướng chỉ huy thì sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai:
- “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.
Lời phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lãnh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.
Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi:
- “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?”
Lại có người nghiêm khắc trách tôi:
- “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?”
Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì… những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?
Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quý vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.
Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sàigòn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính là lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất.”
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định:
- “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.
Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.
Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật khóc khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định không chịu đầu hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và oai hùng thế đấy.
Trong khi Sàigòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.
Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.
Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.
Tìm kiếm Đại Tá an ninh, người đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi:
- “Có đồng ý đem con lánh nạn không?”
Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi:
- “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?”
Tôi đáp:
- “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.
Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. 4g45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn, gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu:
- “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường…”.
Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời:
- “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”.
Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi:
- “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”.
Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp:
- “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”.
6g45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đã cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.
7g30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:
- “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ”.
Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng:
- “Em phải sống ở lại nuôi con”.
Tôi hoảng hốt:
- “Kìa mình, sao mình đổi ý?”
- “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”
- “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”.
- “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta”.
- “Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?”
Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc:
- “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”
Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:
- “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”.
Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh:
- “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”.
Tôi phát run lên hỏi:
- “Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc này?”
Nắm chặt tay tôi, Hưng nói:
- “Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”.
Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:
- “Vâng, em xin nghe lời mình”.
Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục:
- “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”.
- “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?”
Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi:
- “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”.
Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói:
- “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó”.
Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi:
- “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”.
Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống.
Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói:
- “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.
Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm:
- “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”.
Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin:
- “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”.
Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa:
- “Nghĩa trở lại với tôi”.
Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi:
- “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?”
Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở:
- “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!”
Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc:
- “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”
Tôi bảo Giêng:
- “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng”.
Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.
Nghĩa điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vã mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang:
- “Alô, Alô, ai đây?”
- “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”.
Tôi bàng hoàng:
- “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?”
Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi:
- “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”.
Tôi lúng túng vài giây:
- “Ông đang điều động quân ngoài kia”.
- “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?”
- “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”.
Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa tôi hỏi:
- “Đại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?”
Nghĩa lúng túng:
- “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”.
- “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.
Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt:
- “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”
- “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng còn giữ y lịnh không?”
- “Cẩn vui lòng chờ chút”.
Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định:
- “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”
Cẩn đáp thật nhanh:
- “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!”
- “Tốt lắm, vậy thì y lịnh”.
- “Dạ, cám ơn chị”.
Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ:
- “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”
“Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những dòng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?
Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.
11 giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:
- “Alô, chị Hưng!”
Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng:
- “Thưa Thiếu Tướng…”
Giọng Tướng Nam buồn bã u uất:
- “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”.
Tôi vẫn nức nở:
- “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?”
- “Hưng đã nói với chị hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”.
Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:
- “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”
- “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”
- “Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì… Đàng chị thế nào?”
- “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”.
- “Còn mấy chú đâu hết?”
- “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng”
- “Chị tẩm liệm Hưng chưa?”
- “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong thì Thiếu Tướng gọi tới”.
- “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên”.
- “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?”
Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên:
- “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”.
Người chép miệng thở dài:
- “Thôi chị Hưng ơi”.
Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi:
- “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”.
Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi:
- “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”.
- “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.
Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế.
Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam.
7 giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện:
- Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.
Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.
Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin quý vị hiểu rõ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.
Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, đạp chà nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản?
Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống?
Họ đã nằm xuống không phải là vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn sáu chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho tổ quốc.

Bà Lê Văn Hưng
nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng

VNCH Giờ Thứ 25

VNCH Giờ Thứ 25.

Kính gởi đến hương hồn trên 300.000 chiến sĩ, và các Tướng Lãnh QLVNCH vị quốc vong thân trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng.

"Dương Văn Minh áp lực TT Trần Văn Huơng từ chức 28-4-1975 là vi hiến Luật Pháp, nhận TT 48 giờ phù du, rồi đầu hàng, và cuối đời nguỵ biện vì không muốn dân chết".

Thật ra Quốc hội không có quyền ép TT Hương từ chức để đưa ông Minh là tướng về hưu lên TT. Ðây là sự vi hiến trắng trợn luật pháp Quốc Gia. Chính tướng Ðôn đệ nhất phó thủ tướng mắc bẩy: Dương Văn Minh-Thích trí Quang khi ra điều trần Quốc Hội 28-4-1975. Ông phó thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc Phòng hù doạ Quốc Hội: Chỉ có duy nhất tướng Minh làm TT, là có thể thương thuyết với CS, bảo vệ từ Biên Hoà đến Vùng 4. Tướng Ðôn còn vẽ ra hình ảnh tuyệt vọng: Trên 10 sư đoàn cộng quân tấn công thủ đô Sài gòn. Chính vì vậy Quốc Hội ép TT Hương từ chức, giao quyền cho tương Minh, và Vũ Văn Mẫu lập nội các .

Sự thật tình hình ngày 28-4-1975 có tuyệt vọng lắm không? như tướng Ðôn hù doạ.

Khi nghe tin tướng Minh nhận chức TT. Ðại tướng Cao văn Viên từ chức Tổng TMT. Tướng Ngô Quang Trưởng tự lệnh hành quân Bộ TTM, Tướng Toàn tư lệnh vùng 3, Tướng Nguyễn Văn Minh tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia kiêm phủ đặc uỷ trung ưõng tình báo đều dọt lẹ ra hạm đội 7. Vì họ biết rõ ông Minh sẽ đầu hàng CS do Thích Trí Quang quân sư chỉ bày.

Tình hình chiến sự trong 28-4-1975 không bi thảm như tướng Ðôn hù doạ;
Tướng Lý Tòng Bá ( nguời hùng Komtum 1972) tư lệnh sư đoàn 25 phòng thủ Ðồng Dù (Củ Chi) bảo vệ phía Bắc Thủ Ðô. Tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh sư đoản 5, phòng thủ Lai Khê phía Đông Nam thủ đô.

Tại vùng 4 tướng Nguyễn Khoa Nam tư lệnh điều 2 trung đoàn của sư đoàn 9 về Long An bảo vệ nam thủ đô Sài Gòn. Mặt trận phía Bắc; Tướng Lê Minh Ðảo tư lệnh sư ðoàn 18, và liên ðoàn 81 Biệt Kích Dù đảm trách. xa hơn tại Phước Tuy thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh tư lệnh phần còn lại sư đoàn 3, và 2 Lữ đoàn Dù, vả 1 Lữ đoàn TQLC. Tại Vũng Tàu, thiếu tướng Bùi THế Lân tư lệnh sư đoàn trừ bị TQLC gồm 2 Lữ đoàn. Riệng tại thủ đô; 1 chiến đoàn Biệt kích Dù, một chiến đoàn Lôi Hổ phỏng thủ Bộ TTM. Lữ đoàn 4 Dù của Trung tá Ngọc, và 3 Liên đoản Biệt Ðộng Quân do thiếu tướng Ðỗ Kế Giai tư lệnh Biệt Ðộng Quân, điều động tổ chức thành sư đoàn 101 Biệt Ðộng Quân .

Lúc này tướng Cao Văn Viên còn ở Bộ TTM. Tướng Ngô Quang Trưởng tư lệnh hành quân Bộ TTM. Tướng Nguyễn Khắc Bình điều động Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ thủ đô.

Tướng Trần Văn Văn Ðôn đã mắc một lỗi lầm lịch sử VN không bao giò tha thứ là hù doạ Quốc Hội.

Kết quả tướng Minh nhận chức TT. Kêu gọi Mỹ di tản trong 24 tiếng! Tướng Viên, Trưởng, Bình, Toàn dọt lẹ 29-4-1975. Kết quả đầu hàng nhục nhã.

Nên nhớ khi TT Minh đầu hàng bàn giao 9:am. 30-4-1975, mãi gần 3 tiếng sau CS mới tiến vào Sài gòn. Dinh Độc Lập. Tướng Vỹ bất lực nhìn quân đoàn 3 CS tiến qua Lai Khê về Sài gòn. và trung tâm huấn luyến Quang Trung trên 10,000 tân binh uất hận buông súng. Chưa kể Tướng Viên, Trửởng dọt lẹ. Làm danh tướng Lý Tòng Bá làm người hùng đơn độc giờ thứ 25 sa vào tay giặc.

Nhưng hồi ký tướng Viên, tướng Trưởng không bao giờ nói đến điều này vì họ cãm thấy có lỗi với Tướng Bá, và các tướng tuẫn tiết.
Ðó là sự thật phũ phàng Dương Vãn Minh đi ðêm với CS. Nói QLVNCH không còn đạn dược tử thủ, để đàm phán sao?
Năm 1977 Lê Duẫn đã bán tất cả quân trang, võ khí, đạn dược của VNCH cho các nước Châu Phi trên 5 tỉ Mỹ kim .

Thật ra QLVNCH còn đủ sức cầm cự trên 6 tháng đó là thực tế.
Hồi Ký tướng Viên, Tướng Trưởng dù rất có giá trị, nhưng không hẳn đúng 100%. Từ ngày qua Mỹ cả 2 tướng này đều giận nhau, không bao giờ nói chuyện, đây là bí ẩn lịch sử.

Tôi xin bổ sung một sộ dữ kiện về cặp bài trùng: Dưõng Vãn Minh-Thích Trí Quang trong ngày Oan Nghiệt 30-4-1975, và sự thiếu lương thiện Trí Quang trong tiểu truyện tự ghi xuất bản tại VN. Và tôi nhờ các bạn kiểm tra các dữ kiện sau đây có đúng không. Quan điểm của tôi tại sao 2 Tướng Viên- Trưởng giận nhau suốt 33 năm cho đến khi về cõi Vĩnh Hằng. Tôi cũng cần các bạn đóng góp .

Trong những ngày cuối tháng 4-1975. Ngày 26-4-1975 là ngày quan trọng nhất. Đó là định mệnh lịch sử VN.

Sáng 26-4

7:am Tướng Nguyễn Khoa Nam tư lệnh vùng 4 báo về Tổng tham mưu, và Dinh Ðộc Lập cho TT Hương và Tướng Viên, văn phòng Bộ TTM tại Cần Thơ đã hoàn thành. Có nghĩa Tướng Viên, Tướng Trưởng sẽ dời Bộ TTM về Cần Thơ, Khi Sài gòn nguy ngập .

9:am TT Hương xuống Long An gắn lon đại tá cho Trung đoàn trưởng bộ binh của sư đoàn 9 ðả tiến về Long an đánh tan 2 tiểu đồan CS. Lập tuyến phòng thủ Long an bảo vệ Sài gòn hướng tây gồm 1 trung đoàn Bộ binh, 1 Liên đoàn Biệt Ðộng Quân, 1 chi đoàn Thiết Giáp, Yểm trợ mặt trận Đồng Dù của Tướng Bá, ngăn chặn CS tiến quân tiếp viện.

Lúc này các tuyến phòng thủ Lai Khê, Biên Hoà, Phước Tuy, Vũng Tàu toàn dũng tướng: Lê Minh Ðảo, Lê Nguyên Vĩ, Nguyễn Duy Hinh, Bùi Thế Lân và Trần Quang Khôi phòng thủ.

Ðại tướng Cao Văn Viên TTMT, Trung tướng Ngô Quang Trường tư lệnh hành quân Bộ TTM.

10:25 tại Paris Ðại sứ CS Hà nội Võ Văn Sung gặp con trai tướng Minh: Dương Minh Ðức đang du hoc, nhờ báo tướng Minh rằng nếu tướng Minh làm TT, sẽ đàm phán. (Hiện nay anh ta đang sống tại Sài gòn, cách đây 2 năm báo Sài gòn giải phóng có phỏng vấn. Anh ta vẫn ca tụng thân phụ là người yêu nước, đã quyết định sáng suốt khi hợp tác với Chính phủ VNDCH miền Bắc từ 1960.

11:00 Dương Vãn Minh họp Thích Trí Quang lập chính phủ thành phần thứ 3.Tướng Minh điện thoại đại sứ Pháp thông báo Võ văn Sung xác nhận Hà Nội ủng hộ ông ta. Ðại sứ Pháp xác nhận lại từ Võ Văn Sung. Trí Quang hiến kế: tướng Minh gặp tướng Trần Văn Ðôn thuyết phục. Tướng Ðôn đến toà đại sứ Pháp xác nhận, sau đó vào Dinh Ðộc Lập thuyết phục TT Hương trao quyền cho tướng Minh. TT Hưõng trả lời: "Minh là học trò ông, ông biết khả năng Minh, không thể làm TT được nhất trong giai đoạn hiện nay".

Tướng Ðôn báo tướng Minh, Trí Quang hiến kế: tướng Minh gặp Nguyễn văn Huyền chủ tịch thượng viện bàn bạc. Ông ta nói với ông Huyền: Tướng Ðôn, Trí Quang ủng hộ ông ta, nêu ông làm TT, Huyền sẽ là phó TT. ông Huyền đồng ý. Thông báo cho TT Hương quốc hội họp 28-4 khuyên TT Hương từ chức trao quyền cho Minh vì đất nước. TT Hương trả lời tuỳ Quốc Hội.
TT Hương cũng thông báo cho Cựu TT Thiệu, tướng Khiêm, đại tướng Viên.

Tối 26-4 Cựu TT Thiệu, tướng Khiêm rời VN tới Ðài Loan theo công lệnh đại diện VNCH, dự tang lễ TT Tưởng Giói Thạch do TT Hưõng ký. cũng chiều này đại tướng Viên thỉnh cầu TT Hương nếu giao quyền cho Minh. Ông sẽ xin từ chức.

28-4 Quốc Hội bàn họp:Tướng Ðôn trình bày láo, hù doạ tình hình nguy ngập. Quốc hội đồng ý giao chức vụ TT cho Minh. Phó TT Nguyễn văn Huyền.


Chiều 28-4 tướng Nguyễn Văn Minh tư lệnh BKTÐ, tướng Nguyễn Khắc Bình di tản. Tướng Viên di tản, lệnh chấp thuận từ chức ký 26-4 do TT Hương ký. (Tôi nghĩ tướng Bình nắm rõ hồ sõ Trí Quang)

Tối 28 Phó Ðô Ðốc Chung Tấn Cang cho Hải quân rút ra Phú Quốc. Tướng Ðồng Văn Khuyên thay tướng Viên do lời yêu cầu Tướng Viên, đây có lẽ là lý do tướng Trưởng giận bao nhiêu năm nay. Nguyên tắc giao lại cho tướng Lê Nguyên Khang, hay tướng Trưởng. Tướng Khuyên là ông tướng văn phòng tổng cục trưởng tiếp vận. Nhưng có lẽ tướng Viên thấy ván cờ đã xong.

Theo tôi nghĩ tướng Trưởng muốn tử chiến. Ông là Dũng Tướng, dù muốn dù không ông đã có trách nhiệm làm mất vùng 1, do TT Thiệu. Ông không muốn bỏ chạy một lần nửa.

Trước khi tướng Trưởng mất ông có tâm sự nếu được làm lại ông sẽ không bao giò rút lui, chấp nhận hy sinh.

Ngày 29-4 Vũ văn Mẫu yêu cầu Mỹ di tản trong vòng 24 giò, tướng Toàn tư lệnh vùng 3... tướng Hinh( SÐ3), Lân TQLC, Tướng Lưỡng (Dù) di tản.
Lúc này tướng Ðôn biết sụp bẫy CS, nên cũng di tản, tướng Khuyên cũng vậy.
Tướng Trưởng tại Bộ TTM, thấy tình hình không xong ông cũng nuốt nước mắt ra đi...''

Nguyễn Hùng Kiệt.

OAN NGHIỆT ĐỜI LÍNH

OAN NGHIỆT ĐỜI LÍNH.

Vào mỗi sáng như thường lệ. Tôi đang viết công điện không số (SVD) báo cáo về tình hình chiến sự trong đêm thuộc phạm vi lãnh thổ phân chi khu (PCK) thì có khách sư đoàn 18. Anh giới thiệu là phụ tá ban 3, trung đoàn 52. Sớm nay trên đường về đơn vị, gián đoạn lưu thông từ Bầu Cá – Long Khánh, ngỏ ý được dùng máy truyền tin PCK để liên lạc với đơn vị. Tôi trình bày lên chi khu nhờ giúp nhưng không thành công. Hệ thống truyền tin PCK không liên lạc trực tiếp được với sư đoàn 18. Anh lo lắng chia xẽ là đang có phóng đồ hành quân của đơn vị chỉ dùng khi hữu sự mà bộ tư lệnh sư đoàn tiên liệu hoạch định và hỏi cho mượn xe Honda làm phương tiện di chuyển, xong việc trả lại. Tôi hiểu sự lo lắng là tinh thần trách nhiệm, là sự an nguy đến với đồng đội của anh khi không có phóng đồ hành quân theo kế hoạch Z ngày N… Và lúc này, chiến sự Long Khánh đang bùng nổ mãnh liệt, đã là ngày N + 1… Tôi muốn giúp nhưng không thỏa mãn nhu cầu cho anh. Làm sao biết anh có thể lái Honda an toàn đến đơn vị mà không muốn nói là phơi xác dọc đường. Tôi đến gặp đại uý Phạm Văn Tuyến, PCK trưởng với hy vọng giúp được. Ông có nhiều kinh nghiệm về tham mưu và tác chiến, nhập ngũ 1949, năm mà chúng tôi chưa chào đời. Nghe xong, ông đi vào hầm truyền tin và ít phút sau trở ra gọi anh vào liên lạc với đơn vị và nói tôi làm giấy phép: xác nhận ông thiếu úy này trên đường đến vị, quốc lộ bị cô lập trở về hậu cứ. Tôi không nhớ tên nhưng tôi nhớ mãi cái âu lo của anh khi chưa trực tiếp nói chuyện đuợc với thượng cấp vào ngày 9 tháng 4 năm 1975 sáng hôm ấy.

Những tin tức chiến sự dồn dập bất lợi cho VNCH: quân đoàn II và I triệt thoái, quân đoàn III bỏ rơi Phước Long và hôm qua ngày 8 tháng 4, Nguyễn Thành Trung ném bom Dinh Độc Lập rồi tẩu thoát qua Trảng Bom. Đơn vị được báo động là máy bay Việt cộng. Chúng tôi chưa kip chạy tới vị trí phòng thủ đã nghe tiếng động cơ ầm ầm bay qua thị xã với cao độ khoảng 100 mét thẳng hướng Bố Đức. Trảng Bom là địa danh thuộc tỉnh Biên Hòa, giáp ranh với Long Khánh, cách ngã ba Dầu Giây 12 cây số. Người dân sống quây quần theo đơn vị ấp và hai trại Quảng Biên, Quảng Đà nằm rải rác dọc theo hai bên quốc lộ 1. Lực lượng an ninh lãnh thổ gồm có Yếu Điểm Trảng Bom, trung đội pháo binh diện địa Hoàng Hà, cuộc cảnh sát quốc gia và PCK có 5 trung đội nghĩa quân và một tiểu đội biệt kích. Tình hình an ninh không mấy tốt đẹp. Việt cộng thường đắp mô, gài mìn quốc lộ và phục kích đoàn quân xa tiếp vận. Gia tăng áp lực lên Trảng Bom từ tháng 2 năm 75. Khởi sự là ngày 29 tết (âm lịch) 6 giờ tối, bắn B40 vào chiếc xe nhà chở chuối của anh chị Cao Văn Ba tại Bàu Xéo. Giết hại vợ chồng anh Cao Văn Ba và một người lính ĐĐ4/TĐ92/BĐQ. Chị Ba bị miểng kiếng xe bể văng trúng ngực và tạ thế trên đường di chuyển tới bịnh viện. Anh Cao Văn Ba làm việc tại bộ công chánh, tôi nhớ không lầm nhà số 86 Chi Lăng – Gia Định. Có 14 người con, cháu lớn nhất 17 và cháu thứ 14 mới vừa đầy tháng. Bước vào trong báo tin cho gia đình, nhìn thấy người anh cả gục mặt vào hai đầu gối ngồi bên cạnh chiếc võng của đứa em út dưới sàn nhà làm tôi xúc động phải bám vào thành ghế mới đứng vững. Và đúng một tuần sau, cũng vào ngày thứ bảy, cùng giờ giấc tại tọa độ đó. Đại đội 137 trinh sát (TS) của đại úy Thăng đụng độ với tiểu đoàn cơ động tỉnh cộng quân, súng đạn đủ loại nổ vang rền làm kinh hoàng người dân thị xã. Sau trận đọ sức, ĐĐ/TS: tử thương 1, tịch thu 1 B40. VC: 2 bỏ xác tại trận, một trong hai là trung đội trưởng, khám xét tìm thấy lệnh hành quân trên đường di chuyển đến Rừng Sát. Tôi không nhớ ngày tháng nhưng khoảng thời gian 7 tới 10 ngày, VC đắp mô tại Bàu Xéo. Khác với những lần trước, lần này chúng làm trên dưới 100 mô, mỗi mô 3 đến 4 xẻng đất, gài xen kẽ mìn, lựu đạn và trái đạn pháo binh lép. Phe ta phải tích cực tháo gỡ vất vả dưới sự nguy hiểm hầu sớm cho xe cộ di chuyển qua lại. Trung đội quyết tử (QT), Tr.Đ 123/NQ và TĐ/BK thay phiên nhau dùng lưỡi lê cẩn thận rà soát từ mô này đến mô khác. Khi phát hiện đồ chơi của địch, bò ngược lại khoảng cách an toàn dùng súng bắn phá hủy. Những tiếng nổ đinh tai tạo thành đám khói đen kịt ghê rợn bay lên. Lợi dụng cơ hội này địch pháo kích,phe ta phản pháo. Thương cho trung tá Lâm Quang Thới, tiểu khu phó đứng trơ trọi giữa lộ trong thời gian lãnh pháo. Kết cuộc: Tr.Đ QT hy sinh 1 trung sĩ. Sau đó ít ngày ĐĐ 137/TS phối hợp với Tr.Đ QT hành quân chạm trán đơn vị VC tại Bàu Xéo. Kết quả: VC 5 bỏ xác tại trân. phe ta vô sự. Tiếp theo là đơn vị D 210 Việt cộng tấn công đồn Bàu Xéo do Tr.Đ 123/NQ trấn giữ. Ta: tử thương 1; VC để lại nhiều quân trang,quân phục băng cứu thương bê bết máu rải rác quanh hảng rào kẽm gai. Song song với hoạt động của địch, về phía ta có LM Thanh và dân biểu Tuấn Anh hay Anh Tuấn gì đó đứng ra tổ chức biểu tình. Lấy điểm xuất phát tại Quảng Biên- Trà Cổ của TB rồi đi dọc theo quốc lộ 1 qua Hố Nai với ước tính tới ngã ba Sặt- Tam Hiệp quy tụ được hàng trăm ngàn người lấy khí thế "Tiến về Saigon". Trảng Bom chịu trách nhiệm bão hòa địa điểm làm lễ xuất phát, nhưng người trong ban tổ chức biểu tình họ cứ thản nhiên dựng khán đài, nói lễ phép khan cổ cũng là thế. Chắc họ phải biết khi tổ chức biểu tình từ vùng bất an ninh đi về thành phố là việc làm liều lĩnh nguy hiểm, Đó là chưa nói đến sự di chuyển qua lại từ Saigon ra các tỉnh cao nguyên và miền trung bằng đường bộ. Kết quả là nhờ vào đồng bào TB và Hố Nai ý thức được sự lợi hại về vấn đề an ninh mà không ủng hộ. Hai ngài tổ chức đành ra về với hai bàn tay trắng.

Ngày 9 tháng 4, quân đoàn 4 VC tấn công Long Khánh. Chúng tôi nhận lệnh giữ an ninh phi trường đồn điền cao su Trảng Bom, đựơc chuẩn bị là trạm chuyển tiếp thương bệnh binh từ chiến trương LK. 8 giờ tối ngày 9 tháng 4, tiểu đoàn 363/ĐPQ tiểu khu Phước Long tăng viện cho LK đến TB đường bộ trở ngại rồi sát nhập vào tiểu khu Biên Hòa. Thiếu Tá Nguyễn Hồng Tú đang giữ chức vụ Yếu Điểm trưởng TB kiêm thêm chức vụ tiểu đoàn trưởng TĐ 363 (quân số chưa được 2 đại đội). Ngày 10 tháng 4, ĐĐ4/TĐ 92/BĐQ hoạt động phía sau vườn cam ông Đào, gần mật khu cây Gáo rút khỏi TB ngược hướng về Biên Hòa. Sau đó, LĐ1/ND đến TB và tiếp theo là một tiểu đoàn (-) thuộc trung đoàn 7 hay 8 của SĐ 5 đến thay thế vùng hoạt động của ĐĐ4/TĐ 92/BĐQ và đơn vị cuối cùng là toán QB/P2/TTM do một trung úy chỉ huy đến TB làm nhiệm vụ chuyên môn. Ngày 14 tháng 4, LĐ1/ND được không vận vào Long Khánh.

Ngày 15 tháng 4, dân di tản từ Lâm Đồng, Long Khánh băng rừng vựơt suối về đến TB cả hàng ngàn người , họ mệt mỏi và đói khát, những người có lòng từ tâm tại TB gom góp tiền bạc mua bánh mì và nước tiếp tế. Vào 3 giờ chiều ngày 16 tháng 4, VC pháo kích vào điểm tập trung của dân di tản, quân đội hướng dẫn đồng bào thoát ra vùng nguy hiểm làm bị thương trung đội trưởng 123/NQ, một binh sĩ và những ngày sau đó, VC pháo quấy rối dọc hai bên quốc lộ gây tử vong cho dân chúng. 10 giờ sáng ngày 19 tháng 4, toán QB/P/TTM cho biết, một tiểu đoàn VC đang di chuyển từ sông Buông BH ngược về LK nằm trong tầm đạn PB/Hoàng Hạ và chiều hôm đó, VC tấn công PCK Hưng Lộc tiếp giáp với TB. Vì phải chiến đấu đơn độc, đại úy PCK trưởng và đơn vị của ông cố thủ được hai ngày. Theo lời kể của một binh sĩ thoát về đến TB, ông ĐU/PCK trưởng tử trận.

Sau khi Long Khánh triệt thoái, PCK được trang bị đạn M 79 CBU chống chiến xa, với cấp số 6 trái đạn cho một cây M 79. Sáng ngày 24 tháng 4, đơn vị của SĐ 5 rút khỏi TB. 11 giờ 30, toán QB/TTM rời TB và cho biết 2 sư đoàn VC
có mặt tại Nam và Bắc TB. Cùng ngày SĐ 18 đến hoạt động phía Nam TB. Trưa ngày 27 tháng 4, VC pháo vào Trà Cổ và Quảng Biên. Vào khoảng 3 giờ chiều,
PCK nhận công điện không số (SVD) cho hai trái CBU, một hướng Bắc và một hướng Nam có bán kính sát hại 3 km 5, bán kính nguy hiểm 4 km và vùng ảnh hưởng là 4 km 5. Chúng tôi xin trái hướng Bắc, hướng Nam có ấp Vườn Ngô nằm trong tầm sát hại và là vùng hoạt động của SĐ 18 thì được trả lời: xin cả hai,một không cho, chúng tôi quyết định không xin. 10 giờ đêm ngày 27 tháng 4, VC pháo kích PCK và yếu điểm TB, đồng thời tấn công hai Tr /NQ 013 An Bình, 122 Bàu Cá và một ĐĐ/TĐ 363/ĐPQ tại ấp Trung Tâm (thị xã TB). 3 giờ sáng ngày 28 tháng 4, mắt liên lạc với hai Tr.Đ 013 và 122, 5 giờ sáng, nghe được những loạt đạn cuối cùng của ĐĐ/TĐ 363 còn sót lại trong suốt một đêm cận chiến. Chiếm được ấp Trung Tâm. VC tấn công PCK. 6 giờ sáng, tấn công Tr D 130 Trà Cổ và 139 Bàu Xéo (139 thay thế cho 123 về phòng thủ PCK). 7 giờ sáng ngày 28 tháng 4, không còn liên lạc được với bất cứ thẩm quyền nào. Như rắn mất đầu, chúng tôi không biết là tiếp tục cố thủ hay rút lui trong lúc chỉ còn Tr Đ 123 và TD/BK đã có 2 chết, 4 bị thương. Tôi đang phân vân về số phận hai đồng đội giải quyết ra sao chợt nhìn thấy anh bộ đội ôm cây đại liên chạy trước hàng tuyến té xuống rồi cố gắng đưa tay níu kéo lại cây súng mà kiệt sức không làm đươc. 8 giờ sáng, chiến xa VC tiến vào TB. 8 giờ 30 hai chiếc xả tốc độ vượt qua giữa hàng tuyến PCK và yếu điểm chạy về Biên Hòa. Sau đó, chúng tôi mở đường máu vào hàng tuyến không có chiến xa quân VC với hy vọng rút lui về Hố Nai. Vất vả lắm mới qua được đoạn đường gần 300 mét. Vào lô cao su, gặp khoảng 20 anh em SĐ 18 không còn đạn và nhập với chúng tôi. Đi gần tới đầu lô cao su để băng qua ấp Trà Cổ thì hết đạn. VC tấn công trở lại, chúng tôi chạy vào rừng. Cứ đi được khoảng 15 phút lại gặp những toán phục kích VC bắn giết. Sau nhiều lần bị phục kích, người chết, người bị thương và tan hàng. Trưa ngày 29 tháng 4, còn 9 người. Thiếu Tá Nguyễn Hồng Tú chia thành 2 toán: toán tôi 6 và toán ông 3. Cầm cây viết màu xanh lá cây, viết địa chỉ của ông đưa cho tôi và viết của tôi. Toán tôi đi trước và hẹn gặp tại ngã ba Sặt, đợi hai tiếng không thấy là có chuyện chẳng lành, đến báo tin cho gia đình. Tôi biết anh tư Tú từ ngày chân ướt chân ráo trình diện đơn vị. Ông là TT/TĐP/TĐ 347, là một trong những SQ cấp tá trẻ nhất của Biên Hòa. Và thời cuộc đưa đẩy, gặp lại ông vào những ngày tàn cuộc chiến. Tạm biệt anh tư Tú, khoảng 2 giờ 30 ngày 29 tháng 4, 6 người chúng tôi thành tù binh của VC. Trên đường áp giải, chúng tôi ngạc nhiên khi nhìn thắy một đứa bé khoảng 1 tuổi , châu mặt vào ngực người mẹ đang khóc tìm nguồn sữa. Ba anh bộ đội áp giải chúng tôi với vẻ mặt lạnh lùng và nói: các anh thấy chưa, các anh cầm súng bắn vào nhân dân đấy rồi bình thản đi như không thấy gì.....Tới nơi giam giữ, nhìn thấy Thiếu Tá Nguyễn Khắc Tung, TĐT/TĐ 1/43/SĐ18, ĐU Đấu TĐP, ĐU Cương và nhiều anh em SĐ 18. Ngày 30 tháng 4, VC áp giải về Gia Kiệm. Trên đường đi, họ dùng chữ khẩn trương và không khẩn trương là "Khử". May mắn cho anh em, TT Tung nghĩ ra khẩn trương là đi lẹ lên, nhanh lên, bám sát.... nói chuyền xuống phía sau. Đến bìa ấp Gia Kiệm, một anh 30 tháng 4 mang khăn đỏ cánh tay, cầm loa a lô a lô Dương Văn Minh đã đầu hàng vào lúc 10 giờ sáng. Nhốt chúng tôi trong trường học Gia Kiệm một đêm, ngày 1 tháng 5, áp giải về lại Trảng Bom, đi cẳng không lên đường nhựa giữa tiết trời nóng bức oi ả gần 30 cây số là một nhục hình man rợ. Mới nghiệm được: cái trời nắng hạ đốt cháy quê hương. Đến TB, giam giữ chúng tôi tại nhà mủ cao su và qua ông Sáu Lành, giám đốc đồn điền cao su TB, tôi được biết Thiếu Tá Nguyễn Hồng Tú bị bắn tại sân bay TB.

Là quân nhân phục vụ trong một đơn vị hạ tầng của QLVNCH. Đã nhiều lần tôi muốn viết về những sinh hoạt mà dân quân TB phải chịu đựng với sự hiểu biết hạn hẹp của tôi vào thời điểm hấp hối VNCH nhưng khi nhìn về quá khứ Tết Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa lại thôi vì nhận thấy nó không đúng với khả năng tự vệ thật sự của QLVNCH. Sau 35 năm, tôi viết những dòng này thay nén hương lòng kính dâng hương hồn những đồng bào di tản, người dân Trảng Bom, chiến sĩ : Sư Đoàn 18, TĐ 363/ĐPQ, Yếu Điểm Trảng Bom, Trung đội PB Hoàng Hà, cuộc CSQG/TB, PCK/TB và đoàn viên NDTV ấp Trung Tâm đã hy sinh tại Trảng Bom.

Nguyễn Sơn Đảo

Chữa Bệnh Bằng Măng Tây

Chữa Bệnh Bằng Măng Tây.

Nhiều năm trước đây, tôi có gặp một người đang đi tìm măng tây cho người bạn bị bệnh ung thư. Anh ta đưa tôi một bản sao bài báo tựa đề “Măng tây cho bệnh ung thư”, được đăng trên tờ Cancer News Journal, tháng 12 năm 1979. Tôi chia sẻ cùng các bạn ngay bây giờ như anh ta đã làm với tôi : tôi là một nhà hóa sinh và chuyên về liên quan giữa chế độ ăn kiêng và sức khỏe trên 50 năm rồi. Nhiều năm trước, tôi có biết về sự khám phá của ông Richard R. Vensal, D.D.S, rằng măng tây có thể chữa khỏi bệnh ung thư. Từ đó đến giờ, tôi đã hợp tác với ông ta cho dự án của ông ta. Chúng tôi đã thu thập được rất nhiều trường hợp rất triển vọng.

Sau đây là vài thí dụ :
Trường hợp thứ 1 : Một người đàn ông gần như là không còn hy vọng gì với bệnh Hodgkin (một loại bệnh ung thư về mạch bạch huyết) đã hoàn toàn mất hết năng lực. Một năm sau khi chữa trị bằng liệu pháp măng tây, các bác sĩ của ông ta không thể tìm thấy bất cứ dấu hiệu nào của bệnh ung thư và anh ta trở lại làm việc thật hăng hái.
Trường hợp thứ 2 : Một thương gia thành đạt ở tuổi 68 đã bi bệnh ung thư bàng quang từ 16 năm rồi. Sau nhiều năm điều trị, kể cả xạ trị không kết quả, ông ta chuyển qua măng tây. Sau 3 tháng, các xét nghiệm cho thấy khối u trong bàng quang đã biến mất và thận của ông ta hoạt động bình thường
Trường hợp thứ 3 : Một người đàn ông bị ung thư phổi. Vào ngày 5 tháng 3 năm 1971, ông ta được đưa lên bàn mổ nhưng vì căn bệnh đã phát triển quá nhiều nên không thể tiến hành cuộc giải phẫu được. Các bác sĩ tuyên bố trường hợp của ông ta không còn hy vọng gì. Vào ngày 5 tháng 4, ông ta nghe nói đến liệu pháp măng tây và bắt đầu uống ngay tức thì. Đến tháng 8, các phim X quang cho thấy các dấu hiệu của bệnh ung thư đã biến mất và ông ta trở lại công việc kinh doanh của mình.
Trường hợp thứ 4 : Một phu nữ bị bệnh ung thư da từ nhiều năm. Sau đó bệnh này đã chuyển sang nhiều hình thức ung thư khác nhau mà vị bác sĩ chuyên gia cho là đã phát triển nhiều rồi. Sau 3 tháng dùng măng tây, vị bác sĩ chuyện gia cho biết da bà ta trông rất tốt và không còn các vết tổn thương nữa. Bà này còn cho biết liệu pháp măng tây còn chữa căn bệnh thận của bà, mắc phải từ năm 1949. Bà ta đã làm 10 cuộc giải phẩu lấy sỏi thận và bà cũng nhận được trợ cấp từ chính phủ về tình trạng thận không thể giải phẩu ở giai đoạn cuối. Bà quy cho liệu pháp măng tây đã chữa khỏi bệnh thận của bà.

Tôi không ngạc nhiên lắm vế các kết quả, vì theo “Các yêu tố về materia medica” được xuất bản vào năm 1854 do một ông Giáo sư của Trường Đại học Pennsylvania, nói rõ là măng tây là một phương thuốc dân gian để làm tan các sỏi thận. Hãy chú ý đến ngày tháng !
Chúng tôi còn có nhiều trường hợp khác nữa nhưng ngành y tế đã can thiệp vào việc chúng tôi thu thập các hồ sơ. Vì thế chúng tôi mới kêu gọi các độc giả hãy phổ biến các thông tin rất hữu ích này để giúp đỡ chúng tôi thu thập thật nhiều chứng cứ về các thành tích bệnh sử để áp đảo các người hoài nghi của ngành y tế cho một thứ liệp pháp rất không thể tin được, đơn giản và tự nhiên này.

Về cách chữa trị, măng tây phải được nấu chín trước khi dùng vì thế măng tây đóng hộp vừa tươi và tiện lợi. Tôi có liên hệ với 2 công ty đóng hộp măng tây , Giant và Stokely, và tôi rất hài lòng vì 2 nhãn hiệu này không có sử dụng thuốc trừ sâu hoặc hóa chất bảo quản. Bỏ các cọng măng tây vào máy xay sinh tố và đánh cho nhừ, sau đó cất vào trong tủ lạnh. Cho người bệnh uống 4 muỗng canh, 2 lần trong ngày, sáng và chiều tối. Thường thì sau 2 - 4 tuần người bệnh sẽ thấy sức khỏe được cải thiện. Người bệnh cũng có thể pha loãng trong nước nóng hoặc nước lạnh để uống. Liều lượng này được ấn định căn cứ trên các thí nghiệm thực tế nhưng dung lượng nhiều hơn cũng không có hại gì hết mà đội khi rất cần thiết trong vài trường hợp. Với tư cách là một nhà hóa sinh, tôi tin chắc rằng câu châm ngôn cổ xưa rằng “ Cái gì điều trị được thì có thể phòng ngừa được”. Căn cứ theo lý thuyết này mà vợ chồng chúng tôi thường dùng purée măng tây như là thức uống trong các bữa cơm. Chúng tôi dùng 2 muỗng canh được pha trong nước để hợp khẩu vị của chúng tôi cho các bữa ăn sáng và tối. Tôi thì thích uống nóng trong khi vợ tôi thì thích lạnh. Từ nhiều năm rồi chúng tôi thường cho xét nghiệm máu trong các lần kiểm tra sức khỏe.

Trong lần kiểm tra máu sau cùng do một ông bác sĩ chuyên về dinh dưỡng liên quang đến sức khỏe, cho thấy có nhiều cải thiện đáng kể trong các thành phần trong máu khác với lần trước đó và chúng tôi có thể khẳng định rằng các cải thiện đó không do cái gì khác hơn là măng tây. Với tư cách là một nhà hóa sinh, tôi có làm một nghiên cứu sâu rộng về các nét đặc trưng của các bệnh ung thư và các phương pháp chữa trị được đề nghị. Và với kết luận cuối cùng, tôi tin chắc rằng măng tây phú hợp nhất cho các lý thuyết về ung thư.

Măng tây có chứa một số lượng lớn protein gọi là histones mà tôi tin là rất tích cực trong kiểm soát sự phát triển của tế bào. Vì lý do đó, tôi tin là ta có thể nói măng tây có chứa một chất mà tôi tạm gọi là chất bình thường hóa cho sự phát triển tế bào. Tầm quan trọng của tác động trên bệnh ung thư cũng không khác như là nhiệm vụ của một loại thuốc bổ cho cơ thể. Không để ý đế lý thuyết, trong hoàn cảnh này, măng tây được dùng theo đề nghị của chúng tôi, là một chất vô hại. Cơ quan FDA (Cơ quan kiểm tra thực phẩm và dược phẩm của Hoa Kỳ) không có lý do gì ngăn cản bạn dùng một thứ mà chỉ có đem lại điều tốt mà thôi. Viện Nghiên Cứu Ung Thư Hoa Kỳ đã báo cáo là trong măng tây có chứa chất glutathione, được xem như là chất chống sinh ung thư và chống oxy rất hiệu nghiệm.
Xin các bạn hãy phổ biến thông tin này. Một việc làm không nghĩ đến lợi ích của bản thân là hãy phổ biến thông tin để nhận lại lòng tốt của người khác, dù cho đó là một người không xứng đáng chút nào.
(VLP dịch)

Đi Bộ Và Chà Xát Ðôi Chân

Đi Bộ Và Chà Xát Ðôi Chân.

Tục ngữ có câu: Người già đôi chân già trước, giữ đôi chân tốt chính là mấu chốt phòng bệnh để kéo dài tuổi thọ. Các chuyên gia nghiên cứu phương pháp tự chữa bệnh cho rằng: Trên đôi bàn chân có rất nhiều đầu mối thần kinh liên quan đến các tạng phủ. Cho nên dùng tay để chà xát, xoa bóp rất có lợi cho sức khoẻ.
VD: Mu ngón chân út có liên quan đến bàng quang, xát ngón chân út có thể chữa được chứng bí đái, đái sót, đái buốt ...
Mu ngón chân thứ hai có liên quan đến dạ dày, xát ngón 2 có thể chữa được chứng chướng bụng, đầy hơi, ợ chua.
Ngón chân cái có liên quan đến gan, tì, lòng bàn chân có liên quan đến thận.
Xát gan bàn chân có thể chữa được lưng đau, mỏi, ù tai, nghễnh ngãng.
Ngón thứ tư có liên quan đến gan, xát ngón này có thể chữa được táo bón, lưng vai đau mỏi ...

Thường xuyên xát gan bàn chân không những làm tăng lưu lượng máu, tăng tính đàn hồi thành mạch máu, mà còn kích thích não bộ trị được chứng nhức đầu, hoa mắt, mất ngủ, mộng mị ... Người già thường xuyên xát chân còn phòng được chứng tê bì, chân tay giá lạnh.

Phương pháp xát chân cụ thể:
Trước tiên ngâm chân vào nước nóng 15 phút, lau sạch..
Ngồi trên giường hoặc ghế, chân nọ gác lên đầu gối chân kia, một tay xoa gan bàn chân, một tay xoa mu bàn chân, xát đi, xát lại khoảng 200 lần là vừa. Đổi chân cũng làm như trên. Xát cho đến khi nóng, người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu là được. Mỗi ngày làm 2 lần vào buổi sáng và tối.

8 lợi ích của đi bộ

Đi bộ mỗi ngày 30 phút sẽ đem lại cho bạn những tác dụng không ngờ đối với sức khoẻ thể chất và tinh thần.

1. Tốt cho tim

Một nghiên cứu gần đây đưa ra kết luận, nếu đi bộ nhanh 30 phút mỗi ngày sẽ làm giảm nguy cơ phát triển hội chứng chuyển hoá (metabolic syndrome) - một nhóm các triệu chứng ban đầu dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, tiểu đường, và đột qụy. Theo thống kê tại Mỹ, có khoảng 24 triệu phụ nữ nước này mắc hội chứng chuyển hoá. Không có thời gian để đi bộ nửa giờ mỗi ngày ư ? Một nghiên cứu ở Anh cho thấy rằng, hoạt động thường xuyên (Kết hợp đi bộ và đi xe đạp) đồng nghĩa với việc giảm 11 % nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, đặc biệt là đối với phụ nữ.

2. Loại bỏ nguy cơ mắc ung thư vú

Đi bộ chỉ cần vài giờ mỗi tuần có ý nghĩa đặc biệt trong việc giảm nguy cơ mắc ung thư vú, (theo công bố trên tờ tạp chí của hội y học Mỹ). Đồng thời đi bộ làm giảm béo, tăng khả năng sản sinhestrogen. Kết quả của nghiên cứu trên 74.000 phụ nữ ở tuổi mãn kinh (50-79 tuổi) với những người có thể trạng bình thường, nguy cơ mắc ung thư vú giảm đi 30 %, còn những người thừa cân thì chỉ giảm từ 10-20 %. Nghiên cứu trên phụ nữ trẻ hơn cũng đưa đến kết quả tương tự.

3. Giúp ngủ ngon hơn

Đi bộ nhanh vào buổi chiều giúp bạn có được một giấc ngủ ngon hơn (Theo lời khuyên của tổ chức Giấc ngủ Quốc tế). Hơn nữa, nhiều ý kiến còn cho rằng, đi bộ làm tăng lượng hormone serotonin giúp cho bạn được thư giãn … Tuy nhiên bạn đừng nên đi bộ 2 giờ trước khi ngủ vì nó quá muộn để cơ thể nghỉ ngơi trở lại.

4. Làm giảm sự đau nhức cơ thể

Hãy đi bộ và bạn sẽ giảm sự đau nhức cơ thể (Đó là lời khuyên của các nhà khoa học, Đặc biệt là môn đi bộ nhanh (Chiwalking- một ý tưởng kết hợp Thái cực quyền, Yoga và Pilates - một môn thể dục mềm dẻo). Nó giống như việc đi bộ thường xuyên nhưng bởi vì bạn thư giãn có ý thức, nó làm cơ thể bạn trở nên cân bằng bao gồm việc vận động cánh tay, làm cho chân không bị stress như khi đi bộ. Kết quả làm giảm đi sự đau nhức. Môn Chiwalking hiện ngày một phổ biến ở Mỹ.

5. Nó làm cho bạn hạnh phúc

Đi bộ có thể làm cho bạn giảm bớt sự buồn chán, lo âu và stress, đó là một hiệu quả mà ít ai ngờ tới. Chỉ cần 30 phút đi bộ sẽ khiến cho tâm trạng của bạn trở nên khá hơn. theo nhà nghiên cứu thuộc trường đại học Texas - Mỹ). Bỏ ra 90 phút đi bộ 5 lần mỗi tuần là bạn sẽ có được tâm trạng tốt nhất (nghiên cứu của đại học Temple). Một giải thích được đưa ra: Đi bộ giúp cơ thể sản sinh ra endorphin, một hoá chất làm cải thiện tâm trạng tạo cho bạn cảm giác lạc quan, yêu đời hơn.

Đi bộ 30 phút mỗi ngày có thể tránh sự tăng cân ở hầu hết những người ít hoạt động tự nhiên. Mặt khác, nếu phụ nữ đi bộ một giờ mỗi ngày và năm lần trong một tuần sẽ tiêu hao 1.500 calo mỗi ngày và giảm khoảng 11 kg cân nặng bị thừa mỗi năm. Việc đi bộ có thể kiểm soát trọng lượng cơ thể của bạn.

7. Duy trì trí nhớ cho người cao tuổi

Một vài nghiên cứu trên nhóm người cao tuổi chỉ ra rằng đi bộ thậm chí chỉ cần 45 phút mỗi tuần sẽ giúp tránh được bệnh Alzheimer. Đi dạo hoặc tản bộ thông thường cũng đồng nghĩa với việc trí não được luyện tập và trở nên minh mẫn hơn ở tầng lớp người cao tuổi.

8. Bảo vệ xương của bạn

Chỉ cần 30 phút đi bộ 3 lần mỗi tuần là cách tuyệt vời để bảo vệ và rèn luyện cho xương của bạn. Giống như một bài tập, khi đi bộ sẽ đòi hỏi người phải sử dụng 95 % hệ cơ, thực tế quá trình này giúp thúc đẩy và khiến cho xương của bạn trở nên khoẻ mạnh và rắn chắc hơn.

Tham Khảo.

Xóa Bỏ Hận Thù ?

Xóa Bỏ Hận Thù ?

Một trong những điều người ta cảm nhận được trên truyền thông trong hai tuần gần đây là những bài viết kêu gọi sự hòa hợp, xóa bỏ hận thù. Dễ có đến hơn chục bài, thậm chí còn có cả những cuộc giao lưu giữa những người có tiếng tăm trong xã hội. Điều này cũng dễ hiểu vì chúng ta đang bước sang năm thứ 35 ngày chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước.

Chủ đề này đã nhiều lần được đưa lên báo, đã nhiều cuộc hội thảo, đã có nhiều phát biểu nhưng hình như nó vẫn còn nguyên vẹn, nếu không báo chí và truyền thông chẳng có hàng loạt bài “bức xúc” như vậy. Nhưng sau khi đọc những bài viết này thì những trăn trở trong tôi chẳng những không bớt mà còn nổi sóng hơn.

Cái thắc mắc trước tiên là các bài viết hầu như đều bắt đầu bằng điệp ngữ “Không có kẻ thắng người thua mà cả dân tộc Việt Nam thắng”, nhưng tất cả các bài viết đều xuất phát từ “kẻ thắng”, họa hoằn lắm thì cũng thấy ông Nguyễn Cao Kỳ, Tướng Nguyễn Hữu Có, nhưng những nhân vật này từ lâu cũng chẳng còn ở phía “kẻ thua”. Điều đó có nghĩa rằng ngay trong lúc đi tìm sự hòa hợp, chúng ta vẫn chỉ đi tìm từ phía “kẻ thắng” (tạm gọi là như thế cho dễ hiểu), nên khó mà tìm ra sự đồng thuận.

Khi đọc các bài viết, tôi thấy tât cả hình như vẫn đóng khung – cả về hình thức lẫn nội dung – và chẳng có một cái gì mới để giải quyết một vấn đề xưa cũ từ 35 năm. Tôi có thể ví chúng như một bài luận cấp 2 gồm 3 phần, nhập đề, thân bài và kết luận:

- Nhập đề : Đại thắng mùa Xuân 1975 là kết quả tổng hợp của thời cơ cách mạng, sự phát triển có tính bước ngoặt về thế và lực của cách mạng Việt Nam, sự hội tụ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa để làm nên một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc… (Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết).

- Thân bài : Tuy nhiên sự nghiệp đặt ra sau khi thống nhất giang san là thống nhất lòng người dường như vẫn chưa hoàn thành trọn vẹn. Bằng chứng là chúng ta vẫn phải nói về hòa giải, hòa hợp dân tộc. Phải chăng 35 năm là một thời gian quá dài cho hòa giải và hòa hợp dân tộc (Phỏng vấn cựu đại sứ Võ Văn Sung).

Hay:

Sự mất mát, đau khổ ở cả hai phía, trong nhiều gia đình Việt Nam. Có những vết thương lòng rất sâu nên sự hàn gắn không dễ dàng, đòi hỏi thời gian… Chúng ta đã giành được độc lập nhưng đất nước còn nghèo, còn thua kém nhiều nước xung quanh. Về mặt dân tộc, họ không có gì nổi trội hơn dân tộc Việt Nam cả nhưng họ lại hơn chúng ta về trình độ phát triển kinh tế – xã hội. (Phỏng vấn Cựu phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình).

- Kết luận : Bởi vậy, phải làm thế nào để xây dựng và phát triển một nước Việt Nam phồn vinh và vững mạnh, một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trước mắt là tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đó là mục tiêu mà với mọi người Việt Nam yêu nước ai cũng thấy day dứt. (Phỏng vấn Bà Nguyễn Thị Bình).

Thú thật, cũng là một giảng viên đại học đấy nhưng tôi không đủ can đảm đọc hết chục bài viết nhưng có cùng một nội dung sáo mòn kiểu này. Hoàn toàn không có một cái gì mới và cụ thể để giải quyết vấn đề cực kỳ cấp bách như vấn đế hòa hợp, xóa bỏ hận thù. Đó là chưa kể đến văn phong của một vài vị đi ngược lại nội dung bài viết, chẳng hạn như trong bài phỏng vấn ông Võ Văn Sung, ông đã viết :”thời điểm cuối tháng 4/1975 nếu Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ còn nắm quyền và thực hiện tử thủ như ở Xuân Lộc…”, hoặc lời phát biểu của ông Nguyễn Trọng Huấn, người đã tiếp quản miền Nam năm 1975 trong cuộc giao lưu do báo Doanh nhân Sài Gòn tổ chức:“Chúng tôi phải cải tạo các anh (…) vì rằng đó chỉ là một phần của cuộc đấu tranh giai cấp”.

Trở lại vấn đề hòa hợp, xóa bỏ hận thù, chắc chắn chúng ta không thể không đề cập đến nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Và cũng chính vì nội dung này tôi đã có dịp tham dự một buổi hội thảo tại Sài Gòn vào tháng 7/2006 do Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức, tại đây tôi đã ghi nhận được hai phát biểu khá lý thú. Phát biểu thứ nhất: Theo ông Nguyễn Trí Dũng (Việt kiều Nhật có nhiều đóng góp xuất sắc về công nghệ) thì ông đã tham dự "gần một trăm" cuộc hội thảo về chính sách thu hút việt kiều; điều đó cho thấy rằng đảng đã không tập hợp thêm được nhân tố mới và Nghị định 36 không tạo được chuyển biến. Phát biểu thứ hai từ ông Bùi Kiến Thành, một việt kiều Mỹ, đã có kinh nghiệm về tài chánh ngay từ thời chế độ VNCH và hiện đang là cố vấn tài chính cho chính phủ Việt Nam. Ông Thành nói:”Sau hơn 30 năm chấm dứt chiến tranh, hố chia rẽ giữa hai chiến tuyến chưa được dẹp bỏ. Trên báo đài, trên các phương tiện truyền thông, các diễn văn chính thức người ta vẫn hô hào xóa bỏ quá khứ, xóa bỏ hậu quả chiến tranh… nhưng tất cả chỉ là những hô hào suông”. Rõ là bài toán nan giải.

Gần đây báo chí hay trích lời Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết:”Tôi mong bà con, hãy vì quê hương đất nước, gác bỏ những khác biệt của mình, hãy đoàn kết lại, cùng nhau xây dựng Mẹ hiền Việt Nam, đất nước Việt Nam giàu mạnh, hùng cường. Đó không chỉ là lời nói và ý kiến của tôi mà là tâm nguyện của cả dân tộc Việt Nam, là ý chí của Đảng và Nhà nước Việt Nam”.

Tôi cực kỳ ngạc nhiên khi đọc những giòng này hoa mỹ này, đơn thuần là vì nó xuất phát từ một người lãnh đạo đất nước. Ông Triết được bầu ra (tạm gọi là như thế) để quản lý, vậy thì nếu đó là ý Đảng và Nhà Nước thì ông cứ làm bằng cách ban hành các biện pháp cần thiết thay vì cứ kêu gọi chung chung như thế. Nhân dân đang dài cổ trông chờ những biện pháp chứ không phải những ước mơ. Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý mà cứ “huấn dụ” bằng nghị quyết hoặc bằng những từ hoa mỹ thì người dân (vốn chỉ… làm chủ) còn biết phương nào để vái?

Trong cái tận cùng bế tắc của những “bài luận cấp 2” thì bất ngờ vớ được một bài viết của nhà văn Nguyễn Quang Thân trên Phụ Nữ ngày 30/4/2010 với tựa đề “Từ vòng tay của mẹ”. Ông Thân viết :”Có lẽ vấn đề mấu chốt ở chỗ chúng ta rất dễ thống nhất với nhau, hòa hợp với nhau trên chủ trương, lời nói, nhưng cả hai phía lại khá khó khăn và thiếu những thay đổi phù hợp trong việc làm, trong từng chi tiết nhỏ như cách tiến hành một ngày kỷ niệm, thậm chí một cách xưng hô chẳng hạn”.

Tôi xin được phép khai triển ý kiến tác giả, nếu không đúng xin nhà văn và mọi người bỏ qua:

1. Cách tiến hành một ngày kỷ niệm. Cho dù đứng về phe nào đi nữa thì ngày 30/4 đúng là một ngày kỷ niệm, ngày chấm dứt chiến tranh. Nhưng cái cung cách ăn mừng rầm rộ như vừa qua rõ ràng là không có lợi cho việc xóa bỏ hận thù. Trong suốt hai tuần cuối tháng tư, đài VTV3 trong mục thời sự liên tục phát sóng về những chiến thắng từ Buôn Ma Thuột cho đến Sài Gòn. Tôi chắc chắn là sẽ chẳng có gia đình cán bộ, công viên chức, binh sĩ Việt Nam Cộng hòa (VNCH) nào có thể xem một cách vô tư mà không công chiếu thì các binh sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) cũng sẽ bất mãn vì xương máu của họ bị lãng quên. Nhưng nếu tôi không lầm thì xương máu của các binh sĩ VNCH cũng là máu đỏ da vàng thì phải.

Thử nghĩ nếu có ngày “30/4 ngược”, nghĩa là xe tăng M-48 của VNCH húc đổ trụ sở Trung ương Đảng và bắt sống Tổng Bí thư Lê Duẩn và “bè lũ” (xin được mượn từ ngữ của nhà ngoại giao Võ Văn Sung), và trong suốt 35 năm sau đó bắt cả miền Bắc xem lại cảnh các binh sĩ của mình lũ lượt ra hàng lính miền Nam, thì chắc chắn là chúng ta sẽ lại cùng nhau ngồi tìm giải pháp cho vấn đề xóa bỏ hận thù như ngày hôm nay.

Vậy có thể nào chúng ta sẽ kỷ niệm ngày 30/4 một cách khác? Đó sẽ là ngày tưởng niệm tất cả mọi người Việt không phân biệt phe phái đã nằm xuống sau 20 năm nồi da nấu thịt? Quyết không phải là lạc quan tếu mà chỉ có ý nghĩa khơi động tình cảm cao thượng trong dân chúng nếu chúng ta cho phép một chiến sĩ QĐNDVN và một chiến binh VNCH cùng thắp hương trước bàn thờ Tổ quốc?

2. Cách xưng hô : Trong các phóng sự, mỗi khi đánh chiếm được một cơ quan, một tỉnh thành nào của Chính phủ VNCH thì bây giờ người ta dùng những từ như "đánh chiếm sào huyệt của địch", "xóa tan hang ổ của ngụy quyền". Thiết nghĩ chữ "sào huyệt, hang ổ" chỉ nên dùng cho bọn cướp, cho súc vật, không nên dùng cho người, nhất nữa lại là những người mình đang kêu gọi cùng nhau xóa bỏ hiềm khích, cùng nhau sống chung. Cũng về cách xưng hô, các binh sĩ, sĩ quan VNCH thường được gọi là tên lính ngụy, tên tướng, tá ngụy kèm theo những tính từ có tính cách mạt sát, mạ lỵ… chẳng hạn tên tướng ngụy Nguyễn Khoa Nam,tên tướng ngụy Phạm Văn Phú, tên đại tá ngụy Hồ Ngọc Cẩn… Nếu ngày “30/4 ngược” xảy ra, nhân dân miền Bắc sẽ nghĩ sao khi suốt 35 được “rót vào tai” những từ “tên cộng nô” tiếp sau đó là tên các vị như Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Đồng Sỹ Nguyên? Những từ ngữ có tính cách thóa mạ này nên bỏ.

Làm như thế có thực sự xóa bỏ hận thù? Tôi nghĩ là cần nhưng chưa đủ. Đây là một vết thương nhức nhối đã kéo dài quá lâu nên không thể một sớm một chiều có thể biến mất, nhưng nếu không bắt đầu từ bây giờ thì chu kỳ 5 năm sau, kỷ niệm 40 năm chấm dứt chiến tranh, chúng ta lại phải đọc lại những “bài luận cấp 2” mà mọi người đã thuộc lòng.

Và đã làm là làm đến nơi đến chốn. Tất cả hai điều trên phải được luật hóa chứ không phải là những lời kêu gọi suông hoặc những nghị quyết không có giá trị pháp luật.

Để kết thúc, tôi xin lấy lại lời của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào năm 2005:”ngày 30/4/75 là ngày có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn, đó là một vết thương chung của dân tộc".

PKQ

Tổng thống Nga Dmitry Medvedev

Tổng thống Nga Dmitry Medvedev vạch ra tội ác của tên đồ tể Iosif Vissarionovich Stalin trước công luận thế giới

Ngày 5 tháng 3 năm 1953 Iosif Vissarionovich Stalin qua đời và Tố Hữu vẽ ra một bộ mặt nhân hậu như một „tiên ông“ trên cõi thế như sau:

Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo ông trắng giữa mây hồng
Mắt ông hiền hậu, miệng ông mỉm cười
Trên đồng xanh mênh mông
Ông đứng với em nhỏ
Cổ em quàng khăn đỏ
Hướng tương lai

Hai ông cháu cùng nhìn
Sta-lin! Sta-lin!
Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin!
Mồm con thơm sữa xinh xinh
Như con chim của hoà bình trắng trong

Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao!
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, ông đã làm sao, mất rồi!

Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi!
Hỡi ơi Ông mất, đất trời biết không ?

Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một thương Ông thương mười

Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu...

Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày vò
Có Người mới có tự do tháng ngày
Ngày mai dân có ruộng cày
Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai?

Ơn này, nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác, một vai ơn Người
Con còn bé dại con ơi
Mai sau con nhé, trọn đời nhớ Ông

Thương Ông, mẹ nguyện trong lòng
Yêu làng yêu nước yêu chồng yêu con
Ông dù đã khuất không còn
Chân Ông còn mãi dấu son trên đường
Trên đường quê sáng tinh sương
Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
Ngàn tay trắng những băng tang
Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời.

Đã bao nhiêu năm đảng csVN cúi đầu tôn thờ Iosif Vissarionovich Stalin (1879-1953), xem ông ta là một lẽ sống, một đỉnh điểm cho dân tộc Việt đạt đến. Trong giáo dục VN các học trò của nhiều thế hệ đã tốn bao nhiêu giấy bút để ca ngợi, bình phẩm, tôn vinh Stalin và phải nghĩ đến ông như „Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời“, chưa kể đến hàng triệu diễn văn nói tốt về ông từ cửa miệng những người csVN: ông vĩ đại, ông bao trùm nhân loại và ông chính là chúa của các nước chư hầu thời ấy.

Một nhà chính trị Phương Tây đã nói: „Người ta không thể xóa hẳn quá khứ của lịch sử.“ Có lẽ đúng như thế! Sau bức màn sắt của cs Đông Âu đã che dấu thật tài tình tất cả trại tù, thủ tiêu kẻ đối kháng, khủng bố, đày đọa hành hạ dân chúng, bóp chẹt tôn giáo, người dân nghèo đói, v.v… Những đảng cs Đông Âu đã hoàn thành quá xuất sắc việc che dấu này. Nếu không có biến cố giật sập bức tường Berlin và từ đó đánh sập toàn bộ cs Đông Âu cho đến tận bờ cõi Liên Xô thì các bí mật về tội ác cs vẫn còn bị che dấu và có thể tại VN vẫn còn phải gào to lên: „Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi! Hỡi ơi Ông mất, đất trời biết không? Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một thương Ông thương mười. Yêu con yêu nước yêu nòi. Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu...“

Ngày 09/5/2010 nước Nga tổ chức cuộc diễu hành đồng loạt trên toàn quốc để kỷ niệm 65 năm chiến thắng phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới II. Vào tháng 6/1941 Hitler ra lệnh xua quân tiến vào xâm chiếm nước Nga. Hậu quả của 4 năm chiến tranh đã làm ít nhất 27 triệu người Nga thiệt mạng, trong đó có 8,67 triệu lính Hồng quân. Ngày 9/5/1945 phát xít Đức ký văn bản đầu hàng vô điều kiện trước quân đội Đồng minh. Chiến tranh chấm dứt ở Châu Âu.

Dịp mừng 65 năm chiến thắng có sự tham dự lần đầu tiên của các nhà lãnh đạo Tây Phương như nữ thủ tướng Đức Angela Merkel. Đặc biệt, cuộc diễu hành có sự tham gia của quân đội từ Anh, Pháp, Mỹ và Ba Lan tại quảng trường Đỏ ở Matxcơva và theo dự kiến có khoảng 10.500 binh lính hiện diện. Toàn nước Nga có khoảng 70 thành phố cùng tổ chức duyệt binh mừng lễ chiến thắng.

Từ Việt Nam, chủ tịch Nguyễn Minh Triết tham dự lễ kỷ niệm 65 năm chiến thắng theo lời mời của tổng thống Dmitry Medvedev.

Vạch ra tội ác của tên đồ tể Iosif Vissarionovich Stalin trước công luận thế giới

Hai ngày trước dịp kỷ niệm 65 năm mừng chiến thắng phát xít Đức Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã lên án nhà độc tài Iosif Vissarionovich Stalin một cách bất ngờ và mạnh mẽ. Theo báo "Izvestia", ông Medvedev cho biết: „Liên Xô (lúc ấy) có một cấu trúc rất phức tạp. Người ta có thể miêu tả chính quyền Stalin như là một chế độ toàn trị. Các quyền cơ bản và quyền tự do đã bị đàn áp. Stalin đã giết dân mình hàng loạt, tội ác này không tha thứ được.“

Giới báo chí thật ngạc nhiên về lời tố cáo tội ác của Stalin từ tổng thống Dmitri Medvedev, ông ta hoàn toàn không bị sức ép công luận để phải nói ra lời khó nói này, hay nói đúng hơn là TT Medvedev đang nói sự thật về đồ tể Stalin.

Nhà độc tài Joseph Stalin là một tên "tội phạm với số lượng lớn" đã gây ra cho dân tộc Nga. Mặc dù đã có những thành công dưới sự cai trị của ông, nhưng "những gì đã hành hạ trên người dân của mình, không thể tha thứ được cho ông ta."

TT Medvedev cũng chỉ trích các tổ chức cộng sản vẫn còn tôn thờ Stalin muốn treo áp phích tại các thành phố khác nhau của Nga vào dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng. „Điện Kremlin sẽ không sử dụng các biểu tượng như vậy. Sự trở lại chủ nghĩa Stalin đã hoàn toàn bị loại trừ“, TT Medvedev nói.

"Cho lời tuyên bố này, chúng tôi đã phải chờ đợi quá lâu", nhà hoạt động nhân quyền, ông Lev Ponomarev phát biểu với báo chí. "Sau khi có nhiều tín hiệu trái ngược nhau, nhưng những từ ngữ tố cáo này chuyển tải một đường hướng rõ ràng về chiến lược." Nhà khoa học chính trị, ông Alexei Makarkin nói đến điều "rất rõ ràng" về lời phát biểu của ông chủ điện Kremlin: "Điều này có nghĩa rằng chính quyền Nga không cho phép phong thánh cho một kẻ đã giết người hàng loạt."

Đây là lần đầu tiên trong 2 năm cầm quyền mà tổng thống Medvedev đã tố cáo tội trạng rõ ràng nhất về khối Liên Bang Xô Viết ngày xưa dưới triều đại của Stalin. Người tiền nhiệm của Medvedev, hiện là thủ tướng và là cựu điệp viên KGB, ông Vladimir Putin đã cho biết vào năm 2005 trong một bài phát biểu quốc gia về sự sụp đổ của Liên Xô là một "thảm họa chính trị vĩ đại nhất" của Thế kỷ 20.

Việc đánh giá cũng như tố cáo tội ác tày trời của Stalin gây ra tranh cãi trong công chúng Nga. Vì, trong khi có một số nhìn thấy công lao của Stalin chiến thắng Đức Quốc xã, thì theo các sử gia và các tổ chức nhân quyền đưa ra những bằng chứng cho thấy sự tiêu diệt hàng triệu người Nga của hệ thống bá đạo Stalin trong 3 thập niên cầm quyền. Thông tin về những nỗi kinh hoàng của những trại tù được thiết lập bởi hệ thống khắc nghiệt Gulag, các cuộc trục xuất dân cư và nạn đói lớn 1932-1933 đã gây thiệt mạng cho 6 triệu người chết, điều này giới học sinh Nga biết rất ít. Cho đến nay không có đài tưởng niệm quốc gia cho các nạn nhân của khủng bố Stalin. Các sử gia và báo chí luôn gặp khó khăn để truy cập được kho lưu trữ tài liệu về tội ác Stalin.

Tuy nhiên, ngày càng có thêm những tài liệu được xuất bản tại Moscow để tố cáo tội ác của Stalin, như quyết định vừa qua của tổng thống Dmitri Medvedev cho mở tài liệu về cuộc tàn sát người Ba Lan tại Katyn. Mới nhất, thí dụ tờ báo "Novaya Gazeta" và các đài phát thanh Echo Moskvy đưa ra tài liệu về mật lệnh của Stalin, mà ngay cả trẻ em từ 12 tuổi có thể bị bắn tử hình. Ai cũng cho rằng đó là một đại ác của Stalin không thể tha thứ được.

Tổng thống Medvedev, một người chưa đầy 45 tuổi sống trong một thế hệ mới, mặc dù lúc còn trẻ còn được giáo dục theo cộng sản một chiều, nhưng chỉ sau 20 năm tiếp cận với thế giới Tây Phương ông đã ra nhìn được cái tổng thể tàn ác của Liên Bang Xô Viết ngày xưa dưới thời bạo chúa Stalin. Người Nga đang viết lại lịch sử với một nhãn quang rõ ràng và cùng xác nhận tội ác của Stalin đã làm cho dân Nga không thể tha thứ được.

Lời kết tội của Tổng thống Medvedev ngày 07/5/2010 cho Stalin chẳng khác gì công bố cho toàn thế giới biết rằng Stalin chính là tên tội đồ dân tộc, cho dù hắn ta đã chết từ năm 1953. Lịch sử Nga đang lần dỡ ra nhưng trang sử đen tối nhất của mình dưới thời Stalin.

Các tội ác của Stalin đã lan rộng trên thế giới từ những tên đồ tể khát máu khác như Nicolae Ceauşescu của Rumania, Erich Honnecker của Đông Đức, Enver Hoxha của Albania, Mátyás Rákosi (học trò của Stalin) của Ungaria, Kim Nhật Thành và Kim Jong-Il của Bắc Hàn, Fidel Castro của Cuba, Mao Trạch Đông của Tàu, Hồ Chí Minh của Việt Nam.

Ngoại trừ tội ác của Hitler thì trong thế kỷ vừa qua cũng như hiện tại toàn xuất hiện những tên đồ tể giết người đến từ các nước cộng sản đã kể trên.

Nếu nói đến Việt Nam chúng ta không thể nào quên được những tên tội đồ về cuộc dập tắt phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm do Tố Hữu cầm đầu. Cải cách Ruộng Đất với tên đồ tể ác độc Trường Trinh. Thảm sát hàng ngàn người vô tội tại Huế dịp Tết Mậu Thân 1968 dưới sự cầm quyền của Hồ Chí Minh. Cải tạo và đày đọa sau 1975 hàng trăm ngàn quân nhân của VNCH trong ngục tù của Lê Duẫn. Dâng biển đảo cho giặc Phương Bắc của Phạm Văn Đồng, v.v…

Nước Nga đã phải chờ đến 65 năm mới có lời tố cáo mạnh mẽ về tội ác của Stalin, Ban Lan phải chờ đến 70 năm mới công khai biết rõ ai đã giết hơn 22 ngàn người ưu tú của họ tại Katyn, Việt Nam cần kiên nhẫn phải chờ thêm để biết sự thật về các tội ác của csVN với niềm hy vọng „người ta không thể xóa hẳn quá khứ của lịch sử.“

Cuối cùng lời thơ văn nô của Tố Hữu đang là lời phỉ báng đến dân tộc Nga, đến những ai yêu chuộng công lý và sự thật.

Một lỗi lo xa, chỉ ngại tên Nguyễn Minh Triết chẳng biết gì lại buộc miệng hùa theo Tố Hữu hoan hô „Stalin muôn năm“ trong buổi lễ tại quảng trường Đỏ, thủ đô Matxcơva!

Hà Long

Giấc Mộng Dài

Giấc Mộng Dài.

Tôi vừa về đến nhà là bố tôi hỏi ngay:
- Thủ tục đã xong xuôi chưa con ?
- Xong cả rồi bố ạ, bên ấy ông Mấn chỉ đợi phỏng vấn thôi.
Ông Mấn là chú của bố tôi, người mà tôi phải gọi bằng ông trẻ. Ông đang sống ở miền Bắc Việt Nam , và bố tôi đang làm thủ tục bảo lãnh chú sang Mỹ theo diện du lịch.
Sau năm 1975, bố tôi phải đi “Học tập cải tạo” ròng rã 8 năm trời. Ra tù, về nhà bố tôi sống khép kín cho qua ngày, vả lại, một người sĩ quan chế độ cũ đi tù về, chẳng có cơ hội nào để vươn lên trong xã hội mới cả. Cho tới khi có chương trình HO, cho những người tù cải tạo được định cư tại Mỹ, thế là cả nhà tôi đi Mỹ.
Cuộc sống mới nơi xứ người đã phục hồi lại con người thật của bố tôi, bố mẹ đã đi làm, nuôi chúng tôi ăn học, cuộc sống dần dần ổn định mọi bề.
Năm 2000 bố mẹ và tôi lần đầu tiên về thăm quê hương Việt Nam , hay nói cho đúng hơn là về miền Bắc để tìm lại người thân. Bố đã gặp lại người mà bố muốn gặp, đó là ông Mấn, vì bố đã nghe tin ông vẫn còn đang sống ngay tại làng quê cũ.
Ký ức tuổi thơ của bố vẫn còn những kỷ niệm đẹp với ông chú, thuở còn trai trẻ, chú Mấn đã bỏ làng, đi buôn bán phương xa, từ buôn bè trên sông đến buôn hàng chuyến đủ loại thượng vàng hạ cám, miễn là cuộc đời được giang hồ tứ xứ.
Đi xa như thế, mỗi lần trở về làng, dù lời lãi hay không, chú Mấn đều mang quà về cho nhà, bố tôi là cháu ruột, cũng được nếm đủ loại quà bánh của chú, ngon như bánh cốm, bánh xu xê, bánh đậu xanh, bánh khảo của Hải Dương, hay tầm thường thì có những cục kẹo lạc, kẹo vừng hay kẹo bột ngọt ngào mà trẻ con nào không ưa thích !
Bố đã nhìn ông chú bằng ánh mắt kính phục và ngưỡng mộ, đôi chân chú khoẻ, đi hoài mà không biết mỏi, không chịu quay về làng quê ở hẳn như gia đình mong muốn. Ngoài quà bánh, chú Mấn còn có nhiều câu chuyện kể cho lũ cháu trẻ ranh làm chúng nó mê mẩn, bố tôi thích nhất những câu chuyện chú Mấn đi buôn bè trên sông, thả gỗ từ thượng nguồn xuôi về hạ nguồn, có khi gặp nước lũ, bè trôi, những người buôn bè phải chống trả với phong ba bão táp, những hình ảnh ấy hồi hộp và ly kỳ hơn trong phim truyện. Đến nỗi bố đã từng mơ, lớn lên sẽ đi buôn bè, giang hồ dọc ngang như chú Mấn.
Chú Mấn rất hào phóng, nhiều lúc chú đã dúi tiền cho bố tôi, bảo tao cho mày, cất đi mà tiêu, đừng cho bố mẹ mày biết. Những đồng tiền ngày đó đối với bố tôi đã lớn biết bao.
Chúng tôi đến nhà con gái ông Mấn, họ bảo ông đang ở căn lều ngoài nghĩa địa, ông thích ở riêng, khỏi phiền con cháu, mà nhà chúng nó cũng chẳng phải là một căn nhà nên ông chẳng chen chân vào làm gì, rồi lại mang tiếng ở nhà con rể.
Đứa cháu ngoại của ông dẫn chúng tôi đến căn lều, cô hơn 20 tuổi mà trình độ, kiến thức của cô vẫn ngô nghê như một đứa trẻ bậc Tiểu học, làm như từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, cô chỉ từ làng quê này đi kinh tế mới Lào Cai, và trở lại làng, nên chẳng biết gì hơn ngoài núi rừng và đồng ruộng
Huyền thoại về “chú Mấn” cũng làm tôi thích thú và khao khát được gặp ông bằng xương bằng thịt. Bây giờ “chú Mấn” là một ông già 73 tuổi, ông to cao như cây cổ thụ, nước da nâu sẫm của người nông dân cả ngày phơi mặt ngoài đồng. Ông Mấn dựng một túp lều nhỏ ngay tại nghĩa địa, sống một mình, ngoài thì giờ làm vườn, làm ruộng, ông về lều thảnh thơi ngồi uống rượu như một kẻ nhàn du.
Khi tôi hỏi ông ở một mình nơi nghĩa địa ông có sợ ma không? Thì ông Mấn coi như đó là một câu hỏi ngớ ngẩn, ông bảo ma sợ ông chứ ông sợ gì nó!
Ông có một đứa con gái, hai vợ chồng nó nghèo xơ xác, căn nhà ọp ẹp dựng ở ven đê, mùa mưa con đường đê dấy lên bùn sình như bột nhão, đặt chân xuống bùn, dở lên để đi bước nữa thật là vất vả và khó khăn, vợ chồng chị đã từng đi kinh tế mới ở Lào Cai, chẳng thể sống nổi lại kéo nhau về làng cũ với căn bệnh sốt rét, nay ốm mai đau, tiền bạc không có, ruộng vườn trắng tay, đành phải ra đê mà ở là vậy.
Sau này cũng đơn lên đơn xuống các cấp xã, huyện, mới xin được một mẩu đất ruộng xấu nhất cuối làng, để cày cấy lấy hạt gạo đổ vào mồm, tuy không đủ no nhưng có còn hơn không. Vợ chồng chị đều ốm yếu, con thơ nhếch nhác, nên ông Mấn đã phải xông pha ,mang hết sức lực ra, đổ mồ hôi trên ruộng vườn để phụ giúp con cháu suốt bao nhiêu năm nay, ngoài ra ông còn sẵn sàng làm thuê cuốc mướn cho những nhà khác nữa.
Khác với lòng mong ước và sự tưởng tượng của tôi. Ông Mấn không hề vồ vập hay xúc cảm với bố tôi, thằng cháu nhỏ năm xưa ông từng âu yếm cho quà và cho tiền, ông nhìn chúng tôi bằng ánh mắt không thiện cảm cho lắm, ánh mắt ấy như nói rằng, lũ chúng tôi đã chạy theo “Mỹ Nguỵ” chẳng tốt lành hay ho gì.
Suốt câu chuyện, ông kiêu ngạo và hãnh diện khoe đất nước Việt Nam sau cuộc chiến thắng vinh quang 1975, đã dần dần đổi mới và tiến lên. Cụ thể là ngôi làng này, con đường làng bụi đất và gồ ghề khi xưa nay đã được tráng nhựa, nhiều nhà gạch xây lên và có điện thắp sáng, có ti vi, có đài radio, dân không phải nghe tin tức bằng cái loa ở trụ sở ấp nữa…
Dĩ nhiên, không phải cả làng ai cũng khá giả như thế, bằng chứng là nhà con gái ông và ông vẫn chưa có những thứ ấy. Nhưng ông Mấn vẫn khẳng định chắc như đinh đóng cột, trong tương lai nhà nhà sẽ no ấm hơn, cuộc sống tiện nghi đầy đủ hơn, xã hội chủ nghĩa sẽ đi đến đỉnh cao của thành công và quang vinh.
Ông Mấn khoe thêm, cuộc sống bây giờ dân chủ, ai có tiền thì cứ việc ăn ngon mặc đẹp, không như dạo xưa, giết một con gà để ăn cũng phải lén lút, dấu diếm sợ hàng xóm phê bình.
Tội nghiệp ông! Đã trải qua những năm dài đăng đẳng đói ăn, thiếu mặc của miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh, đã quen với những vùi dập của cơ chế bao cấp thị trường, gạo, thịt, nhu yếu phẩm mua bằng tem phiếu. Nay được hưởng một chút tiện nghi rất sơ đẳng, rất bình thường, đã cho là đổi mới vĩ đại, đã hài lòng mãn nguyện.
Chúng tôi được biết ông Mấn đã là đảng viên, đang lãnh lương hưu trí, số tiền hưu cho một anh bộ đội quèn chẳng là bao, nhưng nó khẳng định cái giá trị công lao của anh đã đóng góp cho đảng và nhà nước.
Bố tôi và tôi đều thất vọng về “chú Mấn” ngày xưa, bố mẹ đã biếu ông Mấn một số tiền và đặc biệt là một cái áo ấm bằng da mà chính tay bố đã mua cho ông, vì bố đã biết mùa Đông đất Bắc mưa phùn gió bấc lạnh thế nào!
Tuy ông Mấn có ý chê trách chúng tôi theo “Mỹ Nguỵ”, nhưng ông không chê những món quà của “Mỹ Ngụỵ”, ông cẩn thận gấp những đồng tiền đô la bỏ vào túi và mặc thử cái áo ấm to dày với vẻ hài lòng. Tôi liếc nhìn quanh căn lều chông chênh, trống toang toác của ông, bốn bề gió lộng giữa bãi tha ma, làm sao mà không lạnh!
Về tới Mỹ, nghĩ đi nghĩ lại, bố tôi vẫn thương “chú Mấn”, ở cái tuổi già bên Mỹ đã được nghỉ ngơi, an hưởng đời sống đầy đủ từ vật chất đến y tế thuốc men, thì ông Mấn vẫn cơ cực làm công việc nặng nhọc, mà đời sống vẫn thiếu thốn mọi bề, chỉ có những giấc mộng của ông thì đầy ắp những ấm no, giàu đẹp. Không biết giấc mộng sẽ kéo dài tới bao lâu? Và ông có còn sống để mà hưởng không hay phải đợi đầu thai kiếp khác?
Mỗi năm sau đó, chúng tôi vẫn gởi tiền về cho ông Mấn, dù bất đồng ý kiến, nhưng chẳng ai nỡ nhìn người thân của mình ở tuổi già gần đất xa trời vẫn loay hoay đánh vật với cuộc sống để kiếm cơm cháo qua ngày như thế !
Cô cháu ngoại của ông Mấn thỉnh thoảng viết thư cho chúng tôi, kể về ông, năm nay ông 79 tuổi rồi, không còn khoẻ như hồi chúng tôi về thăm nữa. Bố tôi ngậm ngùi thương cho ông, và có ý định làm bảo lãnh cho ông Mấn sang Mỹ thăm thân nhân, coi như một món quà bất ngờ cho ông. Một con người từng yêu thích ngang dọc một thời, đây là cơ hội ông không thể bỏ qua, dù ông chưa tin tụi Mỹ cho lắm.
*** *** ****
Ba tháng sau, ông Mấn của chúng tôi đã đặt chân đến Mỹ, ông như người từ cung trăng vừa rơi xuống mặt đất này, cái phi trường, nơi ông vừa ra khỏi máy bay đã làm ông choáng váng, ông bảo nó to đẹp cực kỳ mà ông chưa bao giờ tưởng tượng được.
Rồi đường xá, xe cộ…Trời ơi, thì ra có đất nước giàu có và tiện nghi cao cấp vượt bực đến vậy! ông bảo có nằm mơ ông cũng không thấy, ông đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, mỗi ngày ông biết thêm những điều mà ông cho là từ “vô lý” đến “đại vô lý” không thể tin được.
Ai đời, một người khách lạ đến từ nước khác, một nước theo xã hội chủ nghĩa như ông, mà chẳng cần phải khai báo, đăng ký tạm trú với chính quyền địa phương gì cả, tự do dân chủ đến độ ông không tin nổi !
Ai đời, người già, người tàn tật, dù không sinh đẻ ở Mỹ, dù chưa đi làm ngày nào trên đất Mỹ, chỉ được thân nhân bảo lãnh sang đây, cũng được hưởng tiền trợ cấp và bảo hiểm sức khoẻ !
Ông bảo nước Mỹ giàu có quá hoá…ngu ! Chúng nó bảo lãnh nhau sang đây, được nước chủ nhà cho định cư là qúy rồi, thì vợ chồng, con cái chúng nó phải nuôi nhau, lo cho nhau, việc gì nhà nước phải đứng ra trợ cấp?
Đã thế, tiền trợ cấp hàng tháng được gởi tới tận nhà, không bao giờ trễ nãi hay sai sót, trong khi ở làng quê ông, có chuyện gì cần đến xã, đến huyện thì thật là nhiêu khê, với đầy đủ giấy tờ, chứng cớ trong tay mà phải chầu chực, xin xỏ, có khi vẫn không xong.
Đây là những bài học dân chủ lần đầu tiên ông học được trong đời .
Hai tháng ở Mỹ, ông đã lên cân, khoẻ mạnh hẳn ra và vui vẻ thư thái, có lẽ vì ông được ăn uống đầy đủ, không phải vác cuốc ra đồng mỗi ngày, và nhất là ông đã cảm nhận một đời sống tự do, thoải mái?.
Dường như ông thấy thời gian trôi quá nhanh, ông chưa muốn trở về làng quê, dù đôi lúc ông cũng nhớ con nhớ cháu, dòng máu giang hồ đang trổi dậy trong người ông, y như ngày xưa, ông trôi dạt đó đây, thú vui phương xa đã níu giữ bước chân ông.
Ông Mấn đến Mỹ với chiếc áo ấm to dày mà ngày xưa bố mẹ tôi đã mang từ Mỹ về để tặng ông, chắc đây là chiếc áo ông quý lắm và chỉ mặc khi có chuyện “đại sự” nên trông vẫn còn tốt. Nhưng bố tôi vẫn bảo ông bỏ đi và dẫn ông đi sắm vài bộ đồ khác ở chợ Wal- Mart.
Ông Mấn tưởng đây là cửa hàng quần áo sang trọng bậc nhất thế giới mà ông đã hân hạnh được vào, dù bố tôi đã nói là cửa tiệm bình dân, nhưng ông nào tin, cứ cho là bố tôi khiêm nhường hay nói đùa.
Ba tháng du lịch của ông Mấn trôi qua, tới ngày ông phải trở về Việt Nam . Chúng tôi sắm cho ông hai va li đầy những quần áo và quà cáp.
Cả nhà ra phi trường tiễn ông, trước khi đi vào trong cổng, ông đã nắm tay bố tôi, ân cần, thân thiện như “chú Mấn” ngày xưa, và rưng rưng:
- Năm xưa cháu về Việt Nam , chú đã tuyên truyền cho cháu một thiên đường trong mộng, nhưng vẫn không bằng một góc cái hiện tại này, thực tế này, mà các cháu đang được hưởng. Gẫm lại, cùng một kiếp người mà đời chú và con cháu của chú đã gánh chịu bao nhiêu thiệt thòi. Cả thời tuổi trẻ, chú từng đi xa, đây là một chuyến đi xa đẹp nhất và có ý nghĩa nhất trong cuộc đời chú.
Rồi ông cười nhếch mép, vừa đùa vừa tủi thân:
- Kiếp sau, chú vẫn sẽ là một thằng thích giang hồ, xa xứ. Nhưng chú mong sẽ bước tới bất cứ miền nào, vùng đất nào có tự do, dân chủ và no ấm như nước Mỹ này.
Máy bay cất cánh, mang ông Mấn trở về Việt Nam, về ngôi làng quê, nơi có con đường tráng nhựa, có những căn nhà gạch, có ánh điện, có ti vi, có đài…
Nhưng chắc chắn giấc mộng dài của ông về một đất nước xã hội chủ nghĩa thì không còn nữa.

Nguyễn Thị Thanh Dương

"Lột Trần Chế Dộ" (Thơ)

Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Việt Cộng về thành làm tội dân ta

Năm đồng đổi lấy một xu
Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy
Có miệng không nói lại câm
Hai hàng nước mắt chan dầm như mưa

Từ khi ta có thằng Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào
Lương chồng, lương vợ, lương con
Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm
Lương tâm đem chặt ra hầm
Với rau muống luộc khen thầm là ngon.

Thằng Đồng, thằng Duẩn, thằng Chinh
Ba thằng có biết dân tình cho không ?
Rau muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân.

Một năm hai thước vải thô
Nếu đem may áo thằng Hồ ló ra
May áo thì hở lá đa
Chị em thiếu vải hóa ra lõa lồ
Vội đem cất ảnh thằng Hồ
Sợ rằng bác thấy tô hô bác thèm
Có áo mà chẳng có quần
Lấy gì hạnh phúc hỡi dân thằng Hồ ?
Có đói mà chẳng có no
Lấy gì độc lập, tự do hỡi người ?

Tên Hồ chết phải giờ trùng
Nên bầy con cháu dở khùng dở điên
Thằng tỉnh thì đã vượt biên
Những đứa ở lại chẳng điên cũng khùng.

Nhà ai giàu bằng nhà cán bộ ?
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên ?
Dân tình thất đảo bát điên
Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi.
Mỗi người làm viêc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài (radio), mua xe
Mỗi người làm viêc bằng ba
Để cho cán bô xây nhà, xây sân...

Ai về qua tỉnh Nam Hà
Xem lũ đầy tớ xây nhà bê tông.
Tớ ơi, mày có biết không ?
Chúng ông làm chủ mà không bằng mày !

Phong lan, phong chức, phong bì
Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn ?
Phong lan ngắm mãi cũng buồn
Phong chức thì phải cúi luồn vào ra
Chỉ còn cái phong thứ ba
Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui..

Thanh “cha”, thanh mẹ, thanh gì ?
Hễ có phong bì thì nó “thanh kiu” (thank you)

Đảng ta là đảng thần tiên
Đa lô thì được, đa nguyên thì đừng.

Ngày đi, đảng gọi “Việt gian”
Ngày về thì đảng chuyển sang “Việt kiều”
Chưa đi : phản động trăm chiều
Đi rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng.

Chiều chiều trên bến Ninh Kiều
Dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân !

Trăm năm bia đá cũng mòn
Bia chai cũng vỡ, chỉ còn bia ôm.

Thày giáo lãnh lương ba đồng
Làm sao sống nổi mà không đi thồ
Nhiều thày phải đạp xích lô
Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh.
Cô giáo phải bán bia ôm
Ôm phải học trò, ăn nói sao đây ?

Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc, anh tìm biển Đông
Tìm chi cho phải mất công
Đài Loan, Hàn Quốc em dông mất rồi.

Trách ai sinh thứ họ Hồ
Để cho cả nước như đồ vất đi !
Tên Hồ đại quái, đại gian
Chơi Minh Khai chán, gá liền Hồng Phong
Minh Khai phận gái chữ tòng
Tên Hồ sái nhất, Hồng Phong sái nhì.

Ngày xưa giặc Pháp mộ phu
Ngày nay đảng bán dân ngu lấy tiền

Đảng này là đảng cầm quyền
Đảng bán ruộng đất lấy tiền đảng tiêu.

Dịch heo nối tiếp dịch gà
Bao giờ dịch đảng cho bà con vui.

Bao giờ Hồ cạn, Đồng khô
Chinh rơi, Giáp rách, cơ đồ mới yên.

Tiên sư Cộng sản Việt Nam
Cuối đời bán cả giang san nước nhà !

Tìm Hiểu.

Trung Quốc Trấn Áp Ngư Dân Việt Nam

Trung Quốc Trấn Áp Ngư Dân Việt Nam.

Tin từ các báo trong nước cho biết ngày 29/4/2010, Trung Quốc đã ban hành lệnh cấm đánh bắt cá có hiệu lực từ ngày 16/5 đến ngày 1/8/2010 tại một số vùng trên biển Đông, trong đó có những khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nguồn tin này đã gây lo lắng cho các ngư dân Việt Nam vì trở ngại cho việc sinh sống của họ và gia đình. Các ngư dân than thở, “Mỗi năm chỉ có vài tháng nắng thuận lợi để hành nghề khai thác thủy sản, còn mùa trăng, những tháng bão gió thì không ra khơi được.” Từ giữa tháng 5 đến tháng 8 là khoảng thời gian thuận lợi để ngư dân hành nghề trên vùng biển Đông, mà nay bị TQ cấm đánh cá thì làm sao đây?

Trước tình trạng ngư dân bị mất nồi cơm như vậy, chính phủ đã làm những gì?

Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Trương Ngọc Nhi cho biết đã ký văn bản gửi Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao, đề nghị phản đối việc Trung Quốc cấm đánh bắt cá trên biển Đông. Ngoài ra tỉnh Quảng Ngãi cũng đã gửi văn bản kiến nghị Bộ Ngoại giao can thiệp Trung Quốc thả vô điều kiện tàu đánh cá của ông Đặng Tằm ở thôn Châu Thuận (xã Bình Châu, huyện Bình Sơn) cùng 11 ngư dân, bị bắt giữ vào ngày 4/5 trong lúc hành nghề trên vùng biển Hoàng Sa. Thế là xong việc điạ phương!

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Phương Nga cũng giống như mọi lần, đã tuyên bố một cách lưỡi gỗ: "Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982. Lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc ở Biển Đông đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, do đó hoàn toàn vô giá trị. Phía Việt Nam tiến hành giao thiệp ngoại giao phản đối việc làm nói trên của phía Trung Quốc." Thế là xong thủ tục phải làm của nhà nước Việt Nam!

Những kẻ bàng quan và hưởng ân huệ của nhà nước sẽ nói rằng một vấn đề nhiều năm bắt dân im miệng vì kể là nhậy cảm, mà nay nhà nước đã lên tiếng, cả ở điạ phương đến trung ương, thế là tiến bộ nhiều rồi, còn đòi hỏi gì nữa?

Nhưng thực tế vẫn là mặc dầu các lên tiếng qua lại của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, vấn đề còn y nguyên, sự thiệt thòi mất mát cũng chỉ là người dân gánh chịu. Những lấn lướt của Trung Quốc vẫn sẽ tiếp diễn mà đảng và nhà nước CS biến thái sẽ không làm gì bởi vì những vùng này đã dâng nộp mất rồi, há miệng mắc quai. Vì để biện minh cho thái độ của mình TQ sẽ đưa ra những hiệp ước ký kết mà Hà nội dấu kín từ bấy lâu nay thì lãnh đạo Hà nội sẽ kẹt cứng: Để bảo vệ cái ghế quyền lực và có được hậu thuẫn chính trị từ phía Trung Quốc, đảng và nhà nước biến thái CSVN đã âm thầm ký dâng biển nhượng đất từ cuối thập niên 90. Nay khi TQ khẳng định cái tình trạng này thì kết quả là vùng sinh hoạt của ngư dân Việt Nam trên biển Đông bị thu hẹp, đời sống của ngư dân và gia đình của họ ngày càng bị đe dọa vì nồi cơm nhỏ đi và chế độ tư bản bóc lột Hà nội đem vào ngày càng gay gắt. Ngư dân bỏ thuyền bỏ bến thì đi làm gì bây giờ để có cơm vào miệng?

Thật là mỉa mai khi nhớ lại những ồn ào của giới chức lãnh đạo Quân Đội Nhân Dân Việt Nam khẳng định rằng sẽ cho hải quân ra khơi để bảo vệ ngư dân. Quốc hội Việt Nam thì mạnh tiếng về luật Nhân dân Tự vệ trên biển Đông. Và qua lời thuật lại của thuyền trưởng Tiêu Viết Là thì ai cũng thấy là giới trách nhiệm Trung Quốc xem thường luật tự vệ biển ngu xuẩn mà lãnh đạo Hà nội ban ra để đổ trách nhiệm tự bảo vệ vào đầu ngư dân như thế nào: “Khi bị bắt và đưa về nhốt ở đảo Phú Lâm, mấy ngày đầu tui được gọi lên làm việc. Họ nhận ra tui bị bắt mấy lần trước đó nên cười rồi hỏi: "Có phải chính phủ Việt Nam cấp dầu cho các anh ra đây hay không? Mỗi tàu các ông ra đây được cấp 2 khẩu súng AK có đúng không?"".

Nghĩ mà ngậm ngùi. Có lẽ chỉ khi nào chính người dân Việt Nam nhận thức được cái đau khổ mất mát của cá nhân, của đất nước, cái nhục của dân tộc, nhìn ra bản chất của một chính quyền cộng sản biến thái chỉ lo quyền lợi riêng tư và phe đảng, để mà đứng lên cùng nhau tranh đấu chấm dứt chế độ bán nước buôn dân vô lương đó, thì tương lai của cá nhân và gia đình, cũng như của đất nước mới hy vọng sáng sủa.

Tuệ Vân.

Những Bài Không Chịu Học

Những Bài Không Chịu Học.

Những huyền thoại về cuộc chiến
Đại Sứ John Negroponte, Cựu Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã đặt ra một lô những chữ “Nếu” cho 150 người trong cử toạ, nhân phát biểu tại cuộc Hội Nghị được tổ chức ở Câu Lạc Bộ Army Navy Club tại Washington, nhằm lượng giá về Quân lực Việt nam Cộng hoà 35 năm sau khi chiến tranh kết thức.
“Nếu mà Tổng Thống Roosevelt còn sống thì nước Mỹ không ủng hộ cho người Pháp trở lại Việt nam? Nếu mà chúng ta biết rõ hơn về chuyện xích mích giữa Liên Xô và Trung quốc? Nếu mà Tổng thống Ngô Đình Diệm không bị ám sát? Nếu mà Tổng thống Nixon không bị dính líu vào vụ Watergate?” Nhưng vì do những cái trớ trêu bất thường cuả lịch sử đại loại như vậy mà sự việc đã xẩy ra khác hẳn đi.
Năm diễn giả chính yếu khác và 10 tham luận viên, cả người Việt và người Mỹ, đã phân tích những trận chiến mà họ coi là khúc quanh của cuộc chiến tranh Việt nam.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, những trận đánh lớn ở Huế, An Lộc, Quảng Trị; Quân lực Việt nam Cộng hoà, Hiệp định Hoà bình Paris, và nhửng bài học đã thu lượm đã được mổ xẻ trong các buổi thảo luận trong từng nhóm. Chủ ý cuả các tham luận viên rõ ràng là nhằm phục hồi lại danh dự cho Quân lực miền Nam Việt nam.

Tết Mậu thân 1968
Tiến sĩ Erik Villard, sử gia, là diễn giả đầu tiên đã trình bày về cuộc tấn công nầy. Ông nói: “Đây đích thực là một cuộc nội chiến tại Nam Việt nam giữa người quốc gia Việt nam với quân Cộng sản xâm lăng từ miền Bắc. Ông mô tả trận chiến lừng danh này với quy mô và sự phức tạp trong kế hoạch cuả Việt cộng và sự phản công lúc đầu coi như tuyệt vọng, mà lại rất thành công của phía miền Nam và Đồng minh. Nhưng ông nói: “Bi đát thay cái sự thắng lợi nầy lại bị thế giới coi như là một thất bại.”
Đại tá Trần Minh Công bổ túc thêm. Ông nói đến 50 phần trăm quân đội VNCH được nghỉ phép ăn Tết giữa lúc quân Cộng Sản tấn công. Ông ra lệnh cho tiểu đoàn cảnh sát tiến chiếm lại Dinh Tổng Thống ở Sài Gòn, trong khi các đơn vị khác thì hợp nhau lại để tái chiếm những đồn bót vừa mới bị Cộng quân chiếm giữ.
Tờ tuần báo Time tường thuật: “Quân lực Việt nam Cộng hoà phải gánh chiụ áp lực nặng nề lúc khởi đầu với sự dũng cảm và mau lẹ mà hầu như ít có ai lại có thể ngờ được.” Cố Đại sứ Ellsworth Bunker nói: “Chính phủ đã không sụp đổ. Trái lại, họ đã phản ứng mạnh bạo, mau mắn và quyết chí. Chính quyền đã tổ chức sự phục hồi với nỗ lực lớn lao.”
Đại tá Công phàn nàn: “Ấy thế mà giới truyền thông người Mỹ lại coi vụ Tết Mậu thân là ‘khởi sự cuộc chấm dứt chiến tranh’ Việt nam (The beginning of the end of the Vietnam War).”
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, học giả và cựu giảng viên tại Đại học George Mason kể lại: “Trong dịp tấn công Tết Mậu thân, cố đô Huế là nơi duy nhất quân Cộng sản đã thiết lập được một chính quyền dân sự. Họ phát động cuộc tàn sát, giết hại hàng ngàn người mà họ gọi là ‘kẻ thù của Cách mạng’ trong suốt 25 ngày chiếm đóng thành phố vào tháng Hai năm 1968.”
“Họ tàn sát đến 6,000 thường dân vô tội, bất kể đó là giáo sư đại học, giới kinh doanh, phụ nữ, người già và cả đến trẻ em, tạo ra viễn cảnh kinh hãi cuả chế độ Cộng sản. Hàng ngàn người bị coi là “tay sai Mỹ ngụy” đã bị tra tấn, giết hại và cả bị chôn sống do lệnh của Toà án Nhân dân Việt cộng mà gồm những cán bộ và dân làng được lựa chọn một cách ngẫu nhiên.”
Vẫn theo lời giáo sư Bích, “Vụ thảm sát ở Huế tương tự như ‘cánh đồng giết người’ (killing fields) dưới chế độ Pol Pot ở Cambodia, hay Lò Thiêu Người hồi thế chiến thứ hai cuả Đức quốc xã.”
Hội nghị cũng phản ánh quan điểm cuả các chuyên gia khác. Ông Lewis Sorley, sử gia chuyên về chiến tranh Việt nam và là giáo sư tại West Point và tại Học Viện Chiến tranh cuả Lục quân Mỹ, nói là hồi năm ngoái tại Đại học Texas Tech rằng những cái nhìn lệch lạc phát xuất từ chiến dịch bôi nhọ toàn thể chế độ miền Nam Việt nam và cuộc chiến đấu lâu dài và khó khăn cuả họ, cho đến lời tố cáo vô liêm sỉ cuả Jane Fonda cho rằng: “Các tù nhân Mỹ khi hồi hương mà đã tố cáo bị người Cộng sản tra tấn hạ nhục đều là những ‘kẻ nói dối’ và ‘giả hình’.”

Cuộc tấn công dịp Lễ Phục sinh 1972
Trong ba tháng mà tỉnh An Lộc bị vây hãm vào tháng Tư 1972 cũng bị giới truyền thông Mỹ bóp méo sự thật. Tiến sĩ James Willbanks cho cử toạ thấy là: “Kết quả là cả hai bên đối chiến đều bị tổn thất kinh hoàng, nhưng cuối cùng thì quân đội kiên cường của miền Nam đã kiểm soát được thành phố, sau khi kết thúc trận chiến đẫm máu”.
Đại tá Phan Văn Huấn, Chỉ huy Lữ đoàn 81 Biệt cách Dù và Trung tá Nguyễn Lân phụ tá chỉ huy, kể lại họ đã đảy lui được quân đội Bắc Việt và ngăn chặn hướng tiến công cuả Cộng sản vào thủ đô Saigon, lập ra được vòng đai phòng thủ vững mạnh chống lại quân số lớn hơn hẳn cuả địch quân. Họ đã cầm cự được cuộc tấn công liên tục của Bắc quân, đẩy lui được ba vụ xung phong tấn công tới tấp từ phía địch quân.

Trận chiến ở Quảng Trị
Ba nhân vật sau đây thảo luận về trận chiến nầy. Đó là Đại tá Phạm Văn Chung, Đại uý Nguyễn Việt và ông Dale Andrade, một sử gia và tác giả cuả ba cuốn sách về cuộc chiến tranh Việt nam. Các vị này tường trình rằng Sư đoàn 308 và hai trung đoàn độc lập cuả Quân đội miền Bắc vượt qua khu vực phi quân sự để tiến vào miền Nam, trong khi Sư đoàn 304 thì từ phiá Lào ở phiá Tây cũng xâm nhập vào. Đại quân đó quét sạch cả hệ thống căn cứ nhỏ của quân đội miền Nam có nhiệm vụ canh giữ quốc lộ 9, và tiến chiếm vùng thung lũng Quảng trị.
Mục tiêu cuả giới lãnh đạo Hà Nội là “tạo được một chiến thắng quyết định trong năm 1972 và bắt buộc cho đế quốc Mỹ phải thương thuyết việc chấm dứt chiến tranh từ vị thế cuả kẻ thất bại.” Quân đội miền Nam bị phân tán và rút lui, nhường đất cho Cộng quân. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, một tướng lãnh xuất sắc cuả miền Nam đã được nắm quyền chỉ huy và lần hồi đã tái chiếm được miền Nam Quảng trị và cả thủ đô.
Quân đội Bắc Việt bị thương vong đến 100,000 quân là phân nửa tổng số lực lượng của họ, kể cả 40,000 quân bị tử trận, và còn bị mất phân nữa số chiến xa và trọng pháo. Kết quả là chính Tướng Võ Nguyên Giáp, người anh hùng đã đánh thắng người Pháp ở Điện Biên Phủ, đã bị loại ra khỏi vị trí chỉ huy quân đội Bắc Việt. Kết quả này đã không được giới truyền thông Mỹ tường thuật chính xác.

Có một bài học nào được rút ra chăng?
Nhiều người tin rằng người Mỹ hiểu biết rất ít về cuộc chiến tranh Việt nam, mặc dầu nó đã chấm dứt trên ba thập niên rồi. Trong một bài báo nhan đề “Lịch sử chứng minh kẻ thắng trận ở Việt nam đã sai lầm” được đăng tải trên Báo Wall Street vào tháng Tư năm 2000, Nghị sĩ James Webb đã liệt kê giới truyền thông báo chí, giới hàn lâm đại học và Hollywood là những nhóm “đã có trách nhiệm rất lớn cho thấy cuộc chiến được tưởng nhớ là vừa không cần thiết và vừa không thể chiến thắng được.”
Hàng ngàn bài báo, cuốn sách, bản phúc trình quân sự, bài nghiên cứu trận đánh và các hồi ký về cuộc chiến tranh 10 năm vẫn tiếp tục không bị đem ra thách đố hay được chấp nhận như là những sự kiện mà không hề có sự phân tích chiều sâu trong giới sử gia. Người quá cố Douglas Pike là nhà phân tích chính trị đã viết rất nhiều về Việt nam, đã bình luận rằng: “đó là những người bị lừa bịp bởi giới ký giả ngu dốt của loại truyền hình thương mại và giới hàn lâm theo phe tả thiên lệch về một sứ mệnh ý thức hệ.”
Ông George Veith là một tác giả chuyên viết về Việt nam, mà hiện đang hoàn thành cuốn sách – Tháng Tư Đen: Cuộc Thất Trận cuả Nam Việt nam1975 – nói về những huyền thoại về sự sụp đổ của miền Nam Việt nam.
Ông nói Hà Nội trông đợi chánh quyền Nam Việt nam sụp đổ một khi người Mỹ rút khỏi năm 1972. Nhưng sự việc đó đã không xẩy ra, và quân đội Việt nam lại mỗi ngày một mạnh hơn lên, như được chứng tỏ trong trận An Lộc và Quảng Trị vừa nêu trên. Thế rồi, từ năm 1973 cho đến tháng Ba năm 1975, quân đội miền Nam đã gây những thất bại nặng nề cho quân đội Bắc Việt, khiến cho Tướng Võ Nguyên Giáp bị mất chức. Ông Veith xác tín rằng quân lực Việt nam Cộng hoà không hề yếu kém và hèn nhát như giới truyền thông báo chí Mỹ thường tô vẽ ra.
Vì coi việc Tổng thống Nixon từ chức như là một dấu hiệu rằng người Mỹ sẽ bỏ rơi miền Nam, nên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Hà Nội mới quyết định ‘giải phóng’ miền Nam trong thời hạn 2 năm 1975-76 bằng cách tung ra những cuộc tấn công đại quy mô.
Họ đã vi phạm Hiệp định Đình chiến Paris mà họ đã ký kết với Hoa kỳ và miền Nam Việt nam. Khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt nam năm 1972 và Quốc hội cắt hết viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt nam vào tháng Ba năm 1974, ông Veith nói: “Với những bất lợi về điạ lý, quân đội miền Nam không thể nào ngăn chặn được một cuộc tấn công đồng loạt trên khắp cả nước mà không có sự trợ giúp của không lực Mỹ.”
Tham nhũng có phải là nguyên nhân gây ra sự xụp đổ cuả Nam Việt nam không? Ông Sorley thuật lại lời cuả Tom Polgar, giám đốc CIA ở Sài Gòn lúc bấy giờ biện luận rằng: “nước nầy có thể tồn tại được dù với một chánh quyền thối nát, y như trường hợp của Phi luật tân, Nam Hàn, Thái Lan hay bất kỳ nước nào.” Trong một nước mà ngừơi công chức không được trả lương phải chăng, thì đều có nạn tham nhũng là chuyện thường xẩy ra trên đời.” Đại tá William Legro, Tuỳ viên Quân sự ở Việt nam cũng đồng ý như thế, ông nói: “tham nhũng không phải là nguyên nhân làm xụp đổ mà chính là sự giảm bớt đến độ zero mọi viện trợ cuả Mỹ mới là nguyên nhân. Chúng ta đã làm cái điều tai hại khủng khiếp đối với người miền Nam Việt nam.”
Cựu Đại sứ tại Mỹ Bùi Diễm là một trong những người đứng ra tổ chức cuộc hội nghị này cũng than phiền về việc Quốc hội Mỹ cắt hết viện trợ. “Tôi không thể không giận dữ trước sự việc bất công vì dự luật viện trợ quân sự bị bác bỏ tại Quốc Hội. Vấn đề chính yếu trong tâm trí tôi là số phận cuả hàng triệu người dân miền Nam Việt nam phải chiụ đựng như thế nào một khi Quốc Hội đã quyết định.”
Ông Sorley đưa ra những con số như sau: “Tại Việt nam, có thể có đến 65,000 người bị hạ sát bởi tay của những người tự nhận là quân giải phóng và có đến 250,000 người nữa bị chết trong các “trại cải tạo” tàn bạo. Hai triệu người bị bứng ra khỏi quê hương và tạo thành lớp người Việt nam tại hải ngoại.” Một phần tư triệu thuyền nhân đã bỏ mình ngoài biển khơi.
Ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Tổng trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi là người phụ trách việc đúc kết cuả Đại hội nói: “Cuộc chiến Việt nam được nhìn qua lăng kính cuả người Mỹ khiến làm biến dạng méo mó sự thể tìm hiểu tại sao người Cộng sản chiến thắng và người quốc gia thua trận. Ông lưu ý cử tọa rằng, trong khi còn nguy khốn, miền Nam đã cố gắng xây dựng một chế độ dân chủ với một nền kinh tế lành mạnh, dựa trên nền tảng luật pháp. Đó là một cố gắng ít được nghe thấy trong một nước đang có chiến tranh.”
Ông nói tiếp: “Hơn thế nữa, ngay cả trước tình thế phải chiến đấu liên tục, chánh quyền cũng cho thi hành một chiến lược phát triển ba mặt về phát triển nông nghiệp, kỹ nghệ sử dụng nhiều lao động, và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Năm 1974, dầu khí đã được tìm thấy ngoài khơi bờ biển miền Nam. Ấy thế mà những thành tựu như thế lại ít được ai công nhận.”
Tiến sĩ Rufus Philipps, tác giả của cuốn sách mới đây mà được ca tụng rất nhiều – Why Vietnam Matters – đưa ra nhận định trong một tài liệu được chuẩn bị riêng cho Hội nghị. Ông trích dẫn câu trả lời cuả Tướng Maxwell Taylor cho câu hỏi tại sao chúng ta thất bại tại Việt nam? Vị cưụ Đại sứ tại Việt nam nói vào hồi cuối cuộc đời của mình: “Chúng ta đã không hiểu kẻ địch, không hiểu người bạn đồng minh Nam Việt nam, và cũng không hiểu chính chúng ta nữa. Chúng ta đã không hiểu làm sao mà đối phó với cái loại chiến tranh đó cho đến khi quá muộn. Từ lâu, giới hoạch định chính sách cấp cao ở Washington và giới lãnh đạo chóp bu của chúng ta ở tại chỗ, với lòng tự ái được thổi phồng bởi nghề nghiệp đầy hứa hẹn trong những nỗ lực cuả họ, thì họ lại ít có sự bao dung đối với những quan điểm khác biệt được dựa trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn không đồng ý với họ.”
Cuối cùng, Tiến sĩ Phillips có lời khuyên: “Người Mỹ chúng ta có một nhu cầu thiết tha là phải tìm hiểu các người bạn mà chúng ta muốn giúp. Chúng ta không thể áp đặt những giải pháp đã được làm sẵn tại Mỹ (made-in-America), nhưng phải cùng làm việc chung như người đồng sự kể như là anh em với nhau, để chúng ta giúp các bạn đó tìm ra các giải pháp riêng của mình. Đó là những bài học chúng ta không được luôn luôn chú ý tiếp thu và không chịu học.”
Jackie Bong.
Phu nhân GS.Nguyễn Văn Bông