søndag 25. januar 2009

Sớ Táo Quân 2009

Trời vừa ngóc sáng
Táo ông lạng quạng
Nấu nước mồi than
Tếch-khe đàng hoàng
Mụ Bà Táo chảnh
Nắng vô lò lạnh
Bà vẫn nằm ì
Táo ông bị đì
Nên làm té khói
Tâm tình bối rối
Thời khắc hụt hao
Chuẩn bị thế nào
Sớm hầu Ngọc Đế
Sớ dài kể lể
Vừa ngoáy đêm qua
Cuộn vội qua loa
Dắt vào đai đỏ
Vẽ râu rửa nhọ
Bảnh cũng như ai
Thế mà oan thay
Sừng ông mọc ngược
Vì Bà Táo được
Ông xã thứ hai
Đêm ngày lai rai
Tí toe tí toét
Miệng son loè loẹt
Khiến Táo ông nhàm
“Bà thích thì làm
Tôi mần riết chán
Tướng bà như dán
Mình thì như tôm
Sáng tối lồm cồm
Ai khuân tôi rảnh
Thằng nào số ngẳng
Thì cứ ôm xô
Nhá phải san hô
Đáng đời hám gái”.

Thời giờ trể nãi
Táo đón tắc-xi
Cá chép mập ì
Ngất nga ngất ngưởng
Thiên đình nhắm hướng
Vụt thẳng cung mây
Cửa trời đẹp thay
Lung linh mã não
Xà cừ ngọc báu
Ráp cột thiên đình
Tướng trời uy linh
Giáp bào sáng chói
Bát tiên đứa hói
Đứa loạn mày râu
Đứa ỏng ẹo hầu
Bưng đàn cầm búa
Cảnh trời gấm lụa
Ngã chấp hơn thua
Chảnh chẹ vui đùa
Thằng nào cũng rứa
Táo ông thầm hứa
Tao mà có uy
Bắt bọn bây quỳ
Nạt cho bằng thích
Ngẫm rồi khúc khích
Nhìn đám giàu sang
Ăn uống xả giàn
Mặc đời dân giả

Tướng trời một gã
To lớn mày râu
Cầm cây xà mâu
Xấn vào mò Táo
Kiểm tra quần áo
Xét kỹ võ trang
Súng ống đạn bom
Lục cho sạch sẽ
Táo cười nức nẻ
Nhột quá đi thôi
Thằng tướng cao bồi
Rờ tới mò lui
Thủ tục mò khám
Giờ cũng vừa xong
Táo bước thong dong
Vào thiên sảnh điện
Lão trời bụm miệng
Ha hả cười to
Nhìn tướng Táo lò
Xốch xa xốch xếch

Tiết trời gần Tết
Man mát gió xuân
Ngọc Hoàng lâng lâng
Đợi tin báo cáo
Từ nơi ông Táo
Cả một năm qua
Việt Nam sơn hà
Có gì đổi mới
Táo ông thơi thới
Xắp cất giọng oai
Rút ngay tờ sớ
Mở ra thượng tấu:

“Bẩm thưa thượng đế
Chuyện nước chuyện non
Đất Việt núi sông
Nguy cơ lắm lắm !
Vừa rồi Thần tắm
Bãi biển Hoàng Sa
Bổng chốc hằng hà
Tàu bè Trung Cộng
Thủy quân lồng lộng
Lên đảo triển khai
Lập thành vòng đai
Moi nguồn khí đốt
Thừa cơ làm nốt
Đến tận Trường Sa
Cái lũ hung hăn
Kéo nhau trốn hết
Đứa thì lê lết
Đứa thì thê lương
Quyết định quan trên
Được tin lánh chúng
Quân Tàu có súng
Có cả dao găm
Có cả tàu gầm
Đừng tranh đừng tức
Thế là mặc sức
Cả bọn Ba Tàu
Sân bay cảng cầu
Chúng xây chúng khoét
Chúng còn láo toét
Lập huyện Tam Sa
Ngang ngược bạo tàn
Hăm he Đại Việt
Hà Nội căm mồm
Rút cổ co vòi
Bán nước đã lòi
Mặt tên Đồng ngỗng
Viết thư dâng cống
Biển đất Việt Nam
Đổi chác lợi tham
Tội Nhân Thiên Cổ
Thế là một ổ
Rồng Việt tung bay
Nam Bắc Đông Tây
Năm châu bốn bể
Ca Li một thể
Xé quạt xé cờ
Xuống đường thời cơ
Khuếch chương chánh nghĩa
Châu Âu lẻ tẻ
Châu Úc lung tung
Toàn thể anh hùng
Sinh viên nổi dậy
Sài Gòn cũng vậy
Hà Nội cũng oai
Cờ xí loai nhoai
Hô to đả đảo
Chính quyền soạn thảo
Đối phó biểu tình
Nhà báo truyền hình
Nhà văn một mẻ
Còng đầu trù dập
Toàn dân than oán
Dân oan nổi loạn
Đòi đất đòi nhà
Tham Quan hề hà
Cho qua câu chuyện
Luật sư hùng biện
Tuyên bố xông pha
Bất chấp gian tà
Chủ quyền quyết giữ
Chí hùng nghĩa chữ
Phá bọn Việt gian
Ngăn đám tham tàn
Chống quân xâm lược
Toàn Dân Ðại Việt
Lên án cộng nô
Một lòng Vùng Dậy
Lời thơ lai láng
Nhạc bay hùng tráng
Dân Tộc Việt Nam
Lòng chẳng đành cam
Nhìn non sông mất
Tháng ngày lay lất
Bền bỉ đấu tranh
Chí nguyện lập danh
Sống vì tổ quốc”

Tấu xong đứng hút
Bập bập vài "ngao"
Cho thỏa công lao
Dõi theo tin tức
Khấu đầu nhất mực
Xin bẩm cáo lui
Ngọc Đế mùi mùi
Lau lau nước mắt
Ruột đau như cắt
Nghe chuyện Việt Nam
Ngài hứa sẽ làm
Cho ra câu chuyện
Táo ông bịn rịn
Chẳng muốn bay đi
Lòng ngẫm thị phi
Ngó trời nửa mắt
Miệng thầm lắp bắp:

“Có thật không cha
Nguy biến sơn hà
Ông còn chểnh mảng
Lòng dân thê thảm
Ông còn cà kê
Mướn mấy thằng về
Đứng chơi đại sảnh
Thằng nào cũng rảnh
Chẳng có việc làm
Suốt ngày làng chàng
Túm vô táb ngẫu
Vào ra bàn tán
Cung nữ nàng tiên
Đấu láo liên miên
Huyên thuyên hùng biện
Sao không tống liệng
Chúng xuống trần gian
Kiếm chổ tái sanh
Lớn lên giúp nước”

Bước ra cửa trước
Táo ngó bọn tiên
Vểnh mặt kên kên
Leo lưng cá chép
Nhắm đường hạ giới
Lao thẳng như chơi
Ra khỏi cửa trời
Về nơi lò lửa
Nhìn vào trong cửa
Thấy mụ Táo bà
Vẫn còn khề khà
Say cùng Táo nhí
Táo Ông lí nhí
“Em đã về đây…..!”
Lén lén chuồn ngay
Vào trong xó bếp
Chuẩn bị nề nếp
Ðể đón xuân sang
Chúc nước Việt Nam
Thanh Bình Dân Chủ

Xuân Tha Hương

Hiểm Họa Mất Dần Lãnh Thổ

Hiểm Họa Mất Dần Lãnh Thổ.

Một năm sau khi Trung Cộng tuyên bố thành lập huyện Tam Sa để công khai quản trị các quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa của Việt Nam, bọn đầu lãnh CSVN tiếp tục ém nhẹm các bản đồ biên giới mà họ đã ký kết với Bắc Kinh gần một thập niên trước. Công an tiếp tục "bắt nguội", đuổi học, và hăm dọa gia đình những sinh viên yêu nước, xuống đường biểu tình phản đối Trung Cộng vào cuối năm 2007. Hệ thống tuyên truyền độc quyền của CSCN tiếp tục tung hô mối quan hệ đầy tình nghĩa.

Nói tóm lại, Bộ Chính Trị đảng CSVN không chỉ cố che dấu hiểm họa mất dần đất nước, mà còn chủ ý chế tạo một bộ mặt Bắc Kinh hiền hòa, để nhân dân không thể ngờ rằng chính họ đã đồng ý ký nhượng lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam cho Bắc Triều.

Sôi sục trước hành vi xấc xược của Trung Cộng, phẫn nộ trước thái độ "chỉ biết hung hãn với dân tộc" của Bắc Bộ Phủ, và lo lắng cho tiền đồ tổ tiên tiếp tục bị cắt lìa từng mảng đem bán, giới thanh niên, sinh viên trên cả nước đã liên tục sáng tạo nhiều phương cách vượt qua bức màn bưng bít thông tin của chế độ, để đưa tin báo động đến với đồng bào.

Một trong những sáng kiến đang được nhiều anh chị em thực hiện là gắn các tờ rơi trong sách báo tại các tiệm sách, thư viện, văn phòng thương mãi, và những nơi có nhiều người ghé qua. Cách thức này rất khó cho công an phát hiện, nhưng có thể lan dần đến nhiều người trong một thời gian dài.

Những sáng kiến tuy đơn giản nhưng rất hữu hiệu và cần thiết này của anh chị em Thanh Niên Sinh Viên sẽ giúp cảnh báo cả dân tộc về hiểm họa mất đất mất biển vào tay Trung Cộng dưới sự đồng ý và tiếp tay che giấu của những tên đồ tể, hèn nhát đảng CSVN hiện nay.

Nguyen Tam

Lãnh Thổ - Lãnh Hải Tổ Quốc Việt Nam

Lãnh Thổ - Lãnh Hải Tổ Quốc Việt Nam.

Nỗi đau của người Việt Nam trong nước và ngoài nước chưa một phút nguôi ngoai khi quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ 1974 và một phần quan trọng của quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc và nước ngoài cưỡng chiếm từ 1988. Để hợp thức hóa cho việc cưỡng chiếm hai quần đảo HS–TS, Trung Cộng vào ngày 2/12/2007 đã có quyết định thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh đảo hải Nam Trung Cộng bao gồm hai quần đảo này của Việt Nam. Nhiều năm qua phía Trung Cộng đã gây ra nhiều thiệt hại về người và của cho nhân dân Việt Nam, những ngư dân vô tội Việt Nam khai thác trên vùng biển thuộc lãnh hải từ ngàn xưa ông cha để lại đã nhiều lần bị tàu hải quân Trung Cộng đuổi bắt, bắn giết dã man, đặc biệt là vụ 9 ngư dân Hậu Lộc và Hoằng Hóa Thanh hóa bị giết hại, 8 ngư dân bị bắt ngày 8/1/2005. Trung Cộng đã dùng sức ép buộc các công ty Bristish Petroleum của Anh, công ty ExxonMobil của Mỹ phải rút giấy phép thăm dò năng lượng trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt nam… Gần đây Tập đoàn Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Cộng (CNOOC) thông báo dự án 29 tỷ USD để phát triển các mỏ năng lượng trên suốt vùng biển đông đang bị tranh chấp mà trước đây thuộc hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam. Theo vietnamnet 10/12/2008, Cục Hải dương Trung Cộng đã họp báo công bố chủ trương khuyến khích các đơn vị, cá nhân khai thác, sử dụng các đảo không có người ở, với mục đích được gọi là “bảo vệ chủ quyền biển của Trung Cộng” ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Hàng trăm con dân đất Việt đã dũng cảm hy sinh trong nhiều cuộc chiến không cân sức với kẻ ngoại bang để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, nhưng họ chưa một lần được chính thức tôn vinh công khai. Và thực tế lịch sử không ai có thể phủ nhận được về biên giới lãnh hải của Việt Nam trong mấy thập niên qua đã bị Trung Cộng xâm lấn thì ngày 02/01/2009, trả lời báo Điện tử Vietnam.net Thứ trưởng Bộ ngoại giao Vũ Dũng đã trân tráo khẳng định: “Không có chuyện Việt Nam mất đất, cắt đất cho nước này, nước kia như một số mạng nước ngoài đưa tin”. Thấy điều khẳng định đó vẫn còn lỏng lẻo, Vũ Dũng còn cố xuyên tạc: “Những mạng này do thiếu thông tin hoặc cố tình làm sai lệch thông tin và những ý đồ khác nhau”. Cho thấy CSVN vẫn tìm cách che đậy sự thật, hầu chạy tội bán nước cầu vinh.

Đảng CSVN cố tình đẩy nhiều thế hệ người Việt Nam hôm nay cũng như mai sau vào những khó khăn không đáng có, khi phải tranh đấu đòi lại chủ quyền đích thực của dân tộc mình, với những hậu quả để lại tương đương hay nặng nề hơn công hàm năm 1958 của Phạm Văn Đồng, đã đặt quyền lợi của đảng trên quyền lợi dân tộc, quyền lợi của chủ nghĩa cộng sản trên quyền lợi đất nước.

Hà Đông–Hà Nội

Thư Chúc Xuân Kỷ Sửu-2009

Thư Chúc Xuân Kỷ Sửu-2009 của Viện Tăng Thống, GHPGVNTN

Phật lịch 2552 - Số 01 /VTT/VP

Kính gửi:
Chư Tôn Trưởng Lão Hội Đồng Giáo Phẩm
Chư Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni
cùng toàn thể Phật Tử và Đồng bào các giới trong, ngoài nước

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính bạch chư tôn đức.
Thưa toàn thể liệt quý vị.

Trước thềm năm mới, tôi xin thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), trong và ngoài nước thành kính gửi đến chư liệt vị lời cầu chúc năm mới Kỷ Sửu, một năm nhiều sức khoẻ, vạn sự cát tường, Phật sự hanh thông và chúng sanh dị độ.

Kính thưa quý vị.

Theo lẽ tuần hoàn của vũ trụ, mùa xuân là mùa của vạn vật chuyển mình, cây cối đâm chồi trẩy lộc, trổ sắc khoe hương. Truyền thống dân tộc Việt Nam, mùa xuân về bao giờ cũng mang đến cho mọi người niềm vui tươi và hy vọng. Trong ý tưởng chan hoà niềm vui chung, tôi cũng thấy lòng được sưởi ấm, sau những năm tháng băng giá trước hiện trạng nhiễu nhương của Đất nước, Giáo hội, và tin tưởng rằng năm Kỷ Sửu, năm thứ chín của thiên niên kỷ mới, hồn thiêng của sông núi, ân đức của Phật tổ sẽ mang lại cho tất cả dân tộc chúng ta, nhiều niềm vui và lạc quan hơn.

Kính bạch chư tôn đức và quý liệt vị.

Trong thời gian dài lâu, chư tôn giáo phẩm và liệt quý vị, mặc dầu hoàn cảnh sinh hoạt có khắc nghiệt, sự răn đe cấm cản, sự hù doạ khủng bố có thường xuyên và thô bạo của các thế lực vô minh hung hãn. Thế nhưng, khó khăn không làm chùn bước, danh lợi không màng và bạo lực không làm nản chí, chư tôn đức và liệt quý vị đã đồng hành cùng Giáo hội, cống hiến công của vào sự nghiệp phục vụ chánh pháp và dân tộc, đòi lại pháp lý sinh hoạt bình thường của GHPGVNTN cũng như dân chủ, nhân quyền cho toàn thể dân tộc, kết quả cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu gì sáng sủa. Không những thế, gần đây hơn, đức cố Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN, Đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang viên tịch, là nỗi đau thương mất mát vô cùng lớn đối với Giáo hội, với chư tôn giáo phẩm, chư Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni và toàn thể Phật tử. Sự đột ngột ra về của Ngài đã để lại nỗi tiếc thương, trống vắng trong lòng Giáo hội và trong muôn vàn trái tim sắt son của Tăng tín đồ Phật giáo Việt Nam và các Thiện tri thức thế giới!

Trong giây phút này chúng ta hãy dừng lại,
lắng đọng tâm tư giây lát tưởng niệm Giác linh Ngài.

Kính thưa quý vị.

Tang lễ đức cố Tăng Thống đã diễn ra êm đẹp trầm hùng trước vô vàn sách lược manh động và thâm độc của ma quân hung hãn bạo ngược, muốn tiêu diệt ngay GHPGVNTN tại tang lễ này. Tưởng chừng như hội đồng tang lễ mất hết cơ may tổ chức. Thế nhưng ánh sáng đến đâu, bóng tối lùi tới đó. Cái tà đã không thắng được điều chân. Con thuyền Bát nhã trí tuệ, sắc tức không, không tức sắc, đã chuyên chở kim thân đức cố Tăng Thống GHPGVNTN đến cõi tịch mặc vĩnh hằng.

Kính thưa quý vị.

Đạo Phật là sinh lực vô cùng phong phú. Đó là nguồn sinh lực của Chánh Pháp. Khởi nguyên cho nguồn sinh lực ấy là đức Phật. Nguồn sinh lực này không phải là những hệ thống lý thuyết vô tận trong ba tạng kinh điển, mà chính là sự thể hiện của chánh Pháp trong đời sống loài người.

Thời đức Phật còn tại thế, người ta chỉ cần nương vào đạo phong của Ngài mà tu tập và chứng ngộ. Nhân cách siêu tuyệt của Ngài đã cảm hoá nhân loại một cách nhiệm màu. Cho đến hơn một trăm năm sau ngày Nhập diệt mà uy đức của nhân cách ấy, vẫn còn hướng dẫn được sự sống của toàn Giáo hội, thì chúng ta đủ biết nguồn sinh lực ấy mạnh mẽ đến chừng nào!

Không những thế, gần ba nghìn năm sau hàng trăm triệu người, nương vào nhân cách ấy để tu tập và tiến bộ, thăng hoa đời sống đạo đức, lễ nghĩa trong xã hội. Đức Phật quả là Nguồn Sống bất tận!

Đệ tử của Ngài qua nhiều thế hệ, đã từng trân trọng và tăng bồi nguồn sinh lực ấy để cho mọi tầng lớp chúng sanh được thụ hưởng.

Còn gì mầu nhiệm và rực rỡ cho Phật giáo hơn, khi giáo lý được thể hiện ngay nơi cuộc sống của Tăng ni, Phật tử và nhân loại.

Hai mươi ba thế kỷ trước ở Ấn Độ, có ông vua hết sức tàn ác, từng đẫm ướt thanh gươm chinh phạt trong máu đào của hàng trăm nghìn sinh dân. Ấy thế mà, khi được cảm hoá theo chánh Pháp, đã trở thành một ông vua nhân từ thuần hậu, được mọi người thương mến kính phục. Đó là A Dục Vương đại đế. A Dục vương tàn ác (Candasoka) đã trở thành A Dục vương của chánh pháp (Dharmasoka).

A Dục vương đã áp dụng Chánh pháp của đức Phật để giúp nước trị dân. Một tổ quốc bao la, đã sinh hoạt theo đạo Phật, một khối dân hàng trăm triệu người sống trong an lạc – không còn ai bị sợ hãi – không một ai bị áp bức – không một ai bị chiếm đoạt đất đai và chẳng còn ai khốn cùng. Đó là thời đại đạo Phật được thịnh hành và áp dụng.

Ở Việt Nam vào các triều đại Lý – Trần, nguồn sinh lực ấy được khơi mở dồi dào nhờ công trình thực tu, thực chứng của các Thiền sư. Còn thêm các đấng quốc vương, tể tướng thực tâm quy y Chánh pháp và nguyện làm theo lời Phật dạy, (chứ không là lợi dụng chánh pháp, khoác áo cà sa vào chùa núp bóng Phật làm việc tà ma, đoạt danh tiếm lợi, bức hại sinh dân). Một dân tộc được sống hiền hoà, hành động theo tinh thần Phật giáo đã đưa quốc gia đến thái bình, an lạc và phú cường. Thời ấy, cũng là thời đại mà đạo Phật được thịnh hành và áp dụng.

Chánh Pháp được sinh hoạt ở đâu, thì nguồn sinh lực được khơi mở ở đó. Nhìn lại những thời đại mà Chánh pháp được thực hiện rõ ràng ấy, chúng ta nghĩ thế nào?

Còn gì mầu nhiệm và rực rỡ cho Phật giáo hơn, khi giáo lý Thế tôn được thể hiện trong đời sống hằng ngày của Tăng ni và Phật tử.

Kính bạch chư tôn giáo phẩm và quý vị.

Trong tinh thần đó, mừng xuân Di Lặc, đối với Tăng ni Phật tử, tôi cầu chúc chư Tôn đức giáo phẩm, chư vị thành viên Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và toàn thể Phật tử cùng chư thiện tri thức trong và ngoài nước cùng toàn thể quý liệt vị một mùa xuân mới, an khương thịnh vượng, tinh tấn tu tâm hành thiện, trau dồi Giới - Định - Tuệ để chánh Pháp được rộ nở trong đời sống hằng ngày làm thăng hoa đạo pháp và dân tộc.

Nguyện cầu đất nước sớm thu đạt tự do, dân chủ, nhân dân an lạc, cảnh lầm than đói nghèo, tù tội bị xóa bỏ . Triệu người như một kề vai góp sức chống ngoại xâm, bảo toàn lãnh thổ, lãnh hải và Hoàng-sa Trường-sa để không thẹn với tiền nhân khổ công gầy dựng.

Cầu chúc chư tôn giáo phẩm, chư vị thành viên Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cùng toàn thể Phật tử và chư thiện tri thức đồng bào các giới trong và ngoài nước, một Mùa Xuân mới an vui, thịnh vượng, và thành công như ý. Tất cả chúng ta thành tâm nguyện cầu mười phương chư Phật, chư Đại Bồ tát, liệt vị Hộ pháp thiện thần, hồn thiêng sông núi, Tổ tiên và anh linh các Thánh tử đạo, phù hộ cho tất cả chúng ta vượt qua cơn quốc nạn và pháp nạn.

NAM MÔ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH DI LẶC TÔN PHẬT

Huế, Báo Quốc ngày 03 tháng 01 năm 2009
T.U.N Hòa Thượng Xử lý Viện Tăng Thống
kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo
Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống
kiêm Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo

(ấn ký)
Tỷ Kheo Thích Thiện Hạnh

Ước Mơ Đầu Năm !

Trong những ngày đầu năm âm lịch, người dân Việt nô nức đón mừng Tết Nguyên Đán Kỷ Sửu theo phong tục cổ truyền của người Việt Nam. Nhân ngày lễ thiêng liêng này, tất cả mọi người già trẻ lớn bé đều vẽ lên những ước mơ mà mình mong mỏi sẽ đạt được trong năm mới. Có một ước mơ chung mà mọi người Việt đều mong mỏi là đất nước sẽ được hùng cường thịnh vượng để không hổ danh con Rồng cháu Tiên trên trường quốc tế, để ai ai cũng hãnh diện với 2 chữ Việt Nam. Về bản thân mình, mọi người đều mơ ước một điều rất bình thường, nhưng dưới chế độ cộng sản nó mãi mãi vẫn chỉ là ước mơ ngoài tầm tay: đó là có được một cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Người phương xa nếu chỉ nhìn vào những toà cao ốc ở Hà Nội, Sài Gòn, hay những tiệm ăn sang trọng tại các khu trung tâm thành phố, sẽ dễ ngộ nhận rằng người dân Việt Nam đã có một cuộc sống giầu sang. Tuy nhiên, chỉ cần vượt thoát ra khỏi vùng ánh sáng hào nhoáng đó, người ta sẽ nhìn thấy ngay đời sống nghèo khó thảm thương của hầu hết người dân Việt.

Mới đây, bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội vừa thông báo trên website của nhà nước cho biết "tính theo chuẩn nghèo mới, tỷ lệ người nghèo ở Việt Nam cuối 2008 sẽ lên tới 17%hay 3,3 triệu hộ", hoặc khoảng 15 triệu người. Giải thích về "tiêu chuẩn nghèo mới", bộ này nói rằng đó là những người "có thu nhập dưới 300.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và 390.000 đồng ở đô thị".

15 triệu người nghèo đói trong một đất nước không chiến tranh, có đầy đủ tài nguyên thiên nhiên và ý chí để cất cánh, quả là một sự việc bất thường. Trên thực tế, số người nghèo đói tại Việt Nam còn nhiều gấp bội con số mà bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội nêu lên ở trên. Chỉ duyệt qua một vài con số cụ thể, người ta sẽ thấy rõ ngay điều này.

Tại Việt Nam có 70% dân số, tức là khoảng 60 triệu người, sống ở nông thôn. Theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới thì thu nhập của nông dân Việt Nam là 250 đô la một năm, tức hơn 20 đô la một tháng, bằng khoảng 350.000 đồng. Đây là ước tính theo điều kiện tốt đẹp nhất, vượt trên thực tế, nhưng số tiền này cũng chỉ vừa đáp ứng nhu cầu lương thực tối thiểu cho một người với 2 bữa cơm rau. Thịt, cá rất thưa thớt trên mâm cơm của họ, chưa nói đến những nhu cầu thiết yếu khác hay thuốc men khi bệnh tật. Đây không thể gọi là một đời sống "ấm no" theo tiêu chuẩn thông thường. Như thế, dưới sự cai trị của đảng cộng sản, hơn 50 triệu dân nông thôn hoàn toàn sống trong cảnh nghèo khó.

Tại thành thị có khoảng 15 triệu công nhân. Thu nhập hàng tháng của họ từ 500.000 đến 1 triệu đồng. Số tiền nói trên chỉ vừa đủ cho cơm áo và giúp họ thuê một chỗ ở chật hẹp qua đêm để đổi lấy sức lao động cực nhọc từ 8 đến 10 tiếng một ngày trong điều kiện khắc nghiệt. Nếu họ có gia đình, có con cái, thì chén cơm sẽ chỉ còn một nửa, và những đứa trẻ khi vừa lớn lên sẽ được cho đi bươi rác hoặc bán vé số để phụ kiếm tiền. Dưới sự cai trị của đảng cộng sản, người công nhân Việt Nam sống cơ cực như vậy.

Có thể nói trên 80% người dân Việt Nam không có tương lai. Và đó mới chỉ nói đến 2 nhu cầu thiết thân là cơm gạo để no bụng và áo ấm để che thân. Trên thực tế, cuộc sống của con người cần nhiều nhu cầu hơn thế nữa. Đó là một môi trường trong lành để sinh sống, với nguồn nước không bị nhiễm chất hoá học độc hại, và không khí không lẫn bụi bẩn làm nghẹt khí quản. Đó là một hệ thống y tế để chăm sóc khi bệnh tật, mà gia đình của bệnh nhân không phải bán nhà hay bán máu để trả tiền thuốc thang. Đó là một nền giáo dục lành mạnh có khả năng dậy dỗ các thế hệ trẻ tri thức cần thiết để trở thành người hữu dụng. Và đó là một cộng đồng cư dân để mọi người cùng sinh sống an hoà với nhân phẩm được tôn trọng, mỗi người được tự do tin tưởng vào đấng toàn năng của mình.

Những yếu tố đó hoàn toàn thiếu vắng dưới chế độ cộng sản Việt Nam. Hơn 33 năm trong cái gọi là hoà bình mà cả một dân tộc vẫn còn phải còm cõi lo tìm miếng cơm manh áo, và mục tiêu cao nhất được nhà nước hứa hẹn hàng năm chỉ là "xoá đói giảm nghèo" mà vẫn không khi nào đạt được!

Trong khi đó, báo đài CSVN luôn loan truyền những hình ảnh xa hoa với xe hơi đắt giá hơn 1 triệu đô la lượn lách trên phố, với những cuộc thi hoa hậu tốn kém hàng chục tỷ đồng để phô diễn những kiều nữ chân dài, với những buổi yến tiệc truy hoan mà chỉ một chai rượu ngoại cũng có thể giúp một đứa bé sách cặp đến trường hàng năm trời.

Trong những bản đúc kết thắng lợi này, không có thân phận của hàng triệu thiếu nữ đang sống tủi nhục vì phải bán mình nơi xứ người. Không có niềm thương nhớ gia đình của hàng triệu công nhân xa xứ phải kiên trì bám máy trong những ngày lễ tết. Không có dòng chữ nào đề cập đến hoàn cảnh của hàng triệu công nhân bị thất nghiệp đúng lúc mùa Xuân đang cận kề, những người công nhân khốn khổ bị quỵt trắng 2, 3 tháng tiền lương, giấc ngủ đêm đầy mộng mị vì lời kêu réo của chủ nợ ám ảnh bên tai. Cũng không có lời kêu than của những người nông dân, bán đến giạ lúa cuối cùng mà cũng không có được một mâm cơm tươm tất cúng ông bà ngày đầu năm.

Người nông dân cặm cụi trên đồng ruộng 365 ngày một năm, chỉ mong lúa gạo của mình khi thu hoạch sẽ được bán ra với mức giá hợp lý, đủ tiền trả nợ và nuôi sống gia đình. Thế nhưng tại sao lại bị cấm bán khi giá cao, và chỉ được phép bán khi giá cả rớt xuống rẻ mạt, làm mất trắng một số thu nhập đáng kể ? Tại sao cuộc sống lầm than cứ đeo đẳng từ năm này tiếp sang năm khác. Đó có phải là tại nền kinh tế toàn cầu bị khủng hoảng hay không ?

Người công nhân bị trả lương bóc lột và đối xử tàn tệ bởi chủ đầu tư ngoại quốc, thậm chí mất việc mất lương không được ai cứu giúp. Hãy nhìn vào đời sống hàng ngày, vào bữa cơm mỗi tối và giấc ngủ hàng đêm, đó có phải là sự "hy sinh" cần thiết để chiêu dụ đầu tư hầu phát triển đất nước hay không ?

Con em của những gia đình lao động không có tiền trả học phí, phải bỏ học, lang thang. Lúc trưởng thành không nghề nghiệp và công ăn việc làm. Khi đau ốm không được chữa chạy, thuốc thang. Tương lai cũng sẽ đen tối y hệt như đời ông đời cha của chúng. Đó có phải là số phận mà thượng đế đã an bài cho những đứa trẻ này hay không? Hay chúng chỉ có con đường thoát duy nhất là bán thân nơi xứ người, để những đồng tiền hàng tháng chúng gửi về nuôi gia đình lại giúp gia tăng con số "kiều hối" mà nhà nước hân hoan báo cáo hàng năm ?

Đó là tâm tư thực sự của những người lao động. Chúng ta không mong ước cuộc sống xa hoa phù phiếm, nhưng cũng không thể chấp nhận cuộc sống cơ cực truyền từ đời này sang đời khác như hiện nay. Vậy thì xin hãy nhớ rằng, chính chúng ta là người làm cho ước mơ đó trở thành hiện thực. Chính chúng ta phải làm vì đó là quyền lợi của mình mà không ai có thể tước đoạt, dù nhân danh nhà nước hay chính quyền. Bởi vì đây không phải là nhà nước do chúng ta chọn lựa, và chính quyền không phải là đất nước, dân tộc. Hãy nói lên điều đó trong mọi trường hợp, và hãy làm những việc cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình, dựa trên lương tâm và công lý. Chúng ta sẽ không để tập đoàn CSVN tiếp tục hô khẩu hiệu, đọc diễn văn, hay ban hành nghị quyết để rồi cuộc sống của con em chúng ta mãi tiếp tục bị chôn vùi trong bóng tối. Mùa Xuân là lúc hoa hy vọng được nẩy mầm. Hãy đừng để người khác quyết định cuộc đời của chúng ta mà hãy dành lấy quyền làm chủ đời mình kể từ hôm nay, để diệt trừ những áp bức, bất công, độc đoán, chuyên quyền, sao cho cuộc sống của mình được no ấm và đất nước Việt Nam được tươi đẹp vào ngày mai.

Trần Hùng

Nhân Quyền Cho Khủng Bố ! ! !

Chỉ trong vòng ba ngày sau khi nhậm chức, tân TT Obama đã ký 3 sắc lệnh (orders) đảo ngược sách lược của chính phủ tiền nhiệm trong cuộc chiến chống khủng bố.

Vào ngày đầu tiên 20/1/09 tại văn phòng bầu dục, tân TT Obama ký sắc lệnh thứ nhất tạm thời đình chỉ các tòa án quân sự xét xử các nghi can khủng bố tại nhà giam Guantanamo Bay, Cuba. Vào ngày thứ năm 22 /1/09, TT Obama ký sắc lệnh thứ hai, ra lệnh đóng cửa nhà giam Guantanamo trong vòng một năm, và sắc lệnh thứ ba, ra lệnh đóng cửa các nhà giam bí mật ( black sites ) của CIA ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ , cũng dùng để giam giữ các nghi can khủng bố.

Nếu trại giam Guantanamo và các trại giam bí mật của CIA bị đóng cửa, các nghi can khủng bố sẽ được di chuyển vào nội địa Hoa Kỳ và sẽ gây ra một tình huống vô cùng bất lợi cho cuộc chiến chống khủng bố cũng như công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia.

Như chúng ta đã biết, sở dĩ chính phủ ông Bush thiết lập trại giam các nghi can khủng bố tại Guantanamo Bay là để tránh những khó khăn trong khi đang tiến hành cuộc chiến chống khủng bố.

Vì trại giam Guantanamo không thống thuộc hệ thống Toà Án Hoa Kỳ nên các nghi can tại đây không có được những quyền lợi dành cho phạm nhân hình sự chiếu theo Hiến Pháp Mỹ Quốc .

Các phiên toà quân sự ( military tribunals ) được diễn tiến ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ, không mở rộng cho công chúng, cũng nằm trong mục tiêu tối quan trọng là bảo vệ an ninh quốc gia. Các chi tiết có liên quan đến an ninh quốc gia trong các phiên xử sẽ được bảo mật hoàn toàn.

Nay, nếu các trại giam ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ bị đóng cửa, các nghi can khủng bố phải di chuyển vào trong nội địa Hoa Kỳ. Khi các nghi can khủng bố đã vào nội địa Hoa Kỳ, tình huống sẽ trở nên vô cùng phức tạp. Các phiên xử sẽ mở rộng cho công chúng, do đó những chi tiết liên quan đến an ninh quốc gia sẽ không còn được bảo mật nữa. Đây là lý do then chốt để chính phủ ông Bush phải thiết lập các trại giam nghi can khủng bố ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ, như đã nói ở trên.

Ngay sau khi TT Obama ký hai sắc lệnh ngày 22/1, nhiều nhà lập pháp hiện đang cố gắng tìm cách để ngăn chận các nghi can khủng bố không để những phần tử nguy hiểm này vào trong các nhà tù tại địa phương của họ.

Quả thật vậy, các nghi can khủng bố là những phần tử nguy hiểm. Theo bản báo cáo vào đầu tháng 1/09 của cơ quan tình báo tại Ngũ Giác Đài, thì 61 tên trong tổng số 500 nghi can được thả từ trại giam Guantanamo, đã có 18 tên trở về với “ nhiệm vụ ” khủng bố ,41 tên đã “chiến đấu trở lại” trong các tổ chức khủng bố. Hoạt động của những tên khủng bố này được kiểm chứng bởi dấu tay và hình ảnh kèm theo tin tức tình báo. Số còn lại của 500 tên kia thì chưa biết là bao nhiêu đã can dự vào các hoạt động khủng bố ! Trong những ngày tháng tới, khi ba sắc lệnh của TT Obama được thi hành, có thể nào những tên khủng bố, thủ phạm đã giết hại những công dân Hoa Kỳ lại được chính phủ và TT Obama bảo vệ và đối xử như những nạn nhân đã bị mất mạng dưới những bàn tay đẫm máu của bọn họ ?

Và có lẽ nào Obama sẽ là một vị tổng thống bảo vệ “nhân quyền” cho bọn khủng bố, nhân danh pháp luật và Hiến Pháp Hoa Kỳ !?

B.B

Quỹ Thương Phế Binh VNCH

Liên Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Vùng Houston
2640 Broadway, Suite 114, Pearland, TX 77581
Phone: 832-444-3099

Quỹ Thương Phế Binh VNCH

Houston ngày 18 tháng 01 năm 2009

Kính gửi:

Quý vị Lãnh Đạo Tinh Thần,
Quý Hội Đoàn Quốc Gia,
Quý Đảng Phái Chính Trị,
Quý Cơ Quan Truyền Thông & Báo Chí,
Quý Chiến hữu cựu quân nhân QLVNCH,
Quý đồng hương.

Kính thưa quý vị.

Năm Mậu Tý sắp hết, chúng ta đang chuẩn bị đón xuân Kỷ Sửu, và tại quê nhà Việt Nam, những anh em Thương Phế Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta cũng lại sắp đón Xuân với những đau đớn của thể xác và buồn khổ trong tâm hồn.

Là những người yêu chuộng tự do và dân chủ, chúng ta luôn luôn tưởng nhớ đến và biết ơn những chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, những người đã hy sinh mạng sống, cũng như những người đã hy sinh một phần thân thể để bảo vệ sự Tự Do và Dân Chủ cho Miền Nam Việt Nam. Những hy sinh lớn lao này cũng đã trực tiếp hoặc gián tiếp giúp cho chúng ta có cơ hội đến được bến bờ Tự Do, để chúng ta và con cháu chúng ta có được cuộc sống đầy đủ, tự do và hạnh phúc tại hải ngoại như hiện nay. Những anh chị em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn kẹt lại ở Việt Nam, nhiều người đã và đang phải chịu những khổ đau và cuộc sống khốn cùng, có những người mặc dù với vết thương còn đang rướm máu mà vẫn bị đuổi ra khỏi các quân y viện sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Họ đã bị coi thường, bị ngược đãi, và đang phải kéo dài cuộc sống tật nguyền, lang thang cầu thực trước các tiệm ăn, trên các hè phố hoặc tại các bến xe.

Để có thể góp phần giúp đỡ, và chia sẻ một phần nho nhỏ cho những hy sinh và đau khổ tột cùng của những anh em Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa, nhân dịp tết Kỷ Sửu sắp đến, Liên Hội Cựu Quân Nhân Quân Lưc Việt Nam Cộng Hòa Vùng Houston sẽ đươc tổ chức Tiệc Gây Quỹ Giúp Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa vào ngày Thứ Bảy, 24 tháng 1 năm 2009, nhằm ngày 29 Tết Kỷ Sửu, tại Nhà Hàng Ocean Palace, 11215 Bellaire Blvd., Houston , TX 77072.

Chiến hữu Vĩnh Quốc, Hội Trưởng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Houston, và cũng là Phó Trưởng Ban Điều Hợp - Đặc Trách Kế Hoạch và Phát Triển của Liên Hội, đã được đề cử làm Trưởng Ban Tổ Chức cho kế hoạch gây quỹ này.

Kính mong quý Mạnh Thường Quân, quý Niên Trưởng, quý chiến hữu cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và quý đồng hương tích cực hưởng ứng, giúp đỡ và yểm trợ để kế hoạch gây quỹ này được thành công tốt đẹp. Mọi đóng góp của quý vị sẽ là những món quà Tết nho nhỏ gửi về tặng những anh em Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa thân mến của chúng ta.

Nếu không thể tham dự Tiệc Gây Quỹ, hoăc không cư ngụ tại Houston , xin quý vị cũng mở rộng lòng hảo tâm và đóng góp cho Quỹ Thương Phế Binh VNCH. Dù chúng ta hiện đang ở bất cứ nơi nào trên thế giới, anh chi em Thương Phế Binh VNCH cũng là những người anh chi em kém may mắn của chúng ta.

Ngân phiếu xin đề : “Quỹ Thương Phế Binh VNCH” và xin gửi về: Liên Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Vùng Houston, 2640 Broadway, Suite 114 , Pearland , TX 77581 . Mọi chi tiết xin gọi Chiến hữu Vĩnh Quốc - 832-680-0034, HQ Lưu Đức Huyến - 832-444-3099, hoặc Thủ quỹ KQ Trần văn Phong 281-433-3915.

Xin quý cơ quan truyền & thông báo chí giúp phổ biến kế hoach gây quỹ này sâu rộng đến đồng hương của chúng ta.

Xin quý vị giúp chúng tôi chuyển tiếp Thư Ngỏ này đến những người quen biết trong E-Mail list của quý vị. Xin chân thành cám ơn quý vị.

Trân trọng.

Thay mặt
Ban Điều Hợp Liên Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Vùng Houston

Chiến hữu Vĩnh Quốc
Trưởng Ban Tổ Chức

Hải Quân Lưu Đức Huyến
Trưởng Ban Điều Hợp

lørdag 24. januar 2009

Trò Bịp Của CSVN

Bài Diễn văn nhậm chức của tổng thống Obama được cả thế giới theo dõi với niềm xúc động sâu xa, với mối thiện cảm nồng hậu vì nó hướng rõ ràng đến một thế giới hòa bình, hợp tác, dân chủ và tự do hơn trước, về một nền kinh tế được hồi phục dựa trên khoa học kỹ thuật mới, những nguồn năng lượng mới, với sử dụng tài nguyên hợp lý và nền tài chính minh bạch, đẩy lùi nguy cơ và hiểm họa do con người.

Các nhà bình luận quốc tế còn đánh giá cao bài Diễn văn nhậm chức của tổng thống Obama ở giọng điệu hoà hoãn, khoan dung, nhưng lại không thiếu tinh thần nghiêm khắc cảnh cáo răn đe những thế lực khủng bố và độc tài.

Các báo chí quốc tế hầu như nhất loạt nhận xét rằng cả 4 chế độ độc đoán độc đảng Cộng sản còn sót lại Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba. Ðiều đáng chú ý là 4 nước Cộng Sản này cũng đưa tin về bài Diễn văn nhậm chức của tổng thống Obama, nhưng lại dùng trò ma giáo tẩy xóa đi từ: "chủ nghĩa cộng sản", trong câu phát biểu của tổng thống Obama: "Hãy nhớ rằng thế hệ cha anh chúng ta đã hạ gục chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản không phải chỉ bằng tên lửa và chiến xa, mà bằng những liên minh vững chắc và bằng niềm tin bền bỉ". Họ xoá đi, từ: "communism"; hay xoá đi từ: "chủ nghĩa cộng sản".


Hành động "bốn anh em nhà Cộng" đã tỏ ra vô lễ, lếu láo ngay với nhân dân, độc giả, đồng bào của chính nước họ. Vẫn cái kiểu trịch thượng, cường hào,ác bá là: "ông cho chúng bay biết cái gì thì chỉ được biết cái ấy thôi".

Có thể là ngay nửa đêm 20 rạng 21 tháng 1 vừa qua (theo giờ Hà Nội), Tô Huy Rứa và Lê Doãn Hợp (trưởng ban tuyên giáo trung ương và bộ trưởng thông tin truyền thông) đã gọi điện cho các tổng biên tập các báo, truyền thanh, truyền hình... ra nghiêm lệnh phải "thiến" ngay từ "chủ nghĩa cộng sản" trong bài diễn văn vừa phát đi. Ai để lọt sẽ bị bay chức! vì thế nên các báo đều phải chấp hành mệnh lệnh.

Với chủ trương Cộng Sản bằng cách sống không ngay thật, quen gian trá, lo sợ sự thật đến với nhân dân, vừa tự mình trưng ra cái điều mình sợ nhất để bị cả thế giới và cả đồng bào mình vạch mặt thấp hèn, chê cười và khinh bỉ.

Gian trá và dại dột dai dẳng thành cố tật, thành nếp sống, rất khó sửa. Báo chí Việt Nam, nhất là báo Nhân Dân đã bị lật tẩy, chê cười khi xoá bỏ những câu chữ trong diễn văn của tổng thống Pháp Mitterand và của tổng thống Mỹ Clinton đọc tại Hà Nội, nay họ vẫn cứ chứng nào tật nấy; vào WTO hơn 2 năm rồi mà vẫn còn mê ngủ như thời chiến tranh, cứ như vẫn đóng cửa kín mít, để mà tha hồ hành dân mình, hành đồng bào mình, bằng bịt mắt, bịt tai bà con ta một cách tùy tiện, tùy hứng.

Báo Pháp còn khám phá ra rằng báo Trung Quốc còn xoá bỏ thêm một đoạn nữa trong bài diễn văn nói trên của tổng thống Obama. Đó là đoạn: "Với những kẻ bám quyền lực nhờ tham nhũng, dối trá và bịt miệng tiếng nói đối lập, hãy hiểu rằng các người đang đứng về phía sai lầm của lịch sử!". Bắc Kinh lại giơ kéo lên để "thiến", vì cảm thấy chạm nọc. Vậy thì Bắc Kinh và Hà Nội, "Hai anh em nhà Cộng" này đều giống y như nhau trong khi bám lấy quyền lực nhờ tham nhũng và để tham nhũng nữa, cũng giống y như nhau về đàn áp, bỏ tù mọi tiếng nói đối lập, bất đồng chính kiến, đều cấm báo tư nhân, đều kiểm soát chặt các bloggers trẻ.

Cho thấy báo chí Việt Nam bị đảng CSVN khoá mồm và đảng còn dạy cho tự khoá mồm vẫn có thể khoe là ta cũng "khôn ranh ra phết"! Đó là trường hợp của báo Tuổi Trẻ, khi đưa hầu như toàn bộ bài Diễn văn nhậm chức của tổng thống Obama, trong đoạn nhắc đến công lao của những thế hệ đi trước: "Vì chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh ở những nơi như Concord, Gettysburg, Normandy và Khe Sanh", đã xoá bỏ chữ “Khe Sanh”. Xin nhớ tổng biên tập cũ báo Tuổi Trẻ vừa được đảng cho về vườn, thì tổng biên tập mới đã thể hiện ngay "tinh thần bén nhạy" nhanh nhẩu xoá bỏ chữ Khe Sanh là điều dễ hiểu.

Nhưng báo mạng Vietnam.Net vẫn để nguyên chữ “Khe Sanh” những trận chiến diễn ra năm 1967-1968 ở chiến trường Trị - Thiên, bên cạnh Concord. Trận chiến diễn ra năm 1775, Gettsburg, trận diễn ra năm 1863, và Normandy trận đổ bộ lớn từ nước Anh lên châu Âu năm 1944 để diệt bọn phát xít Hitle, như trong bản gốc. Có lẽ vì thế nên bài này bị xoá ngay sau một buổi xuất hiện trên VietNamNet.

Ý của Tổng thống Obama là rất rõ; trận chiến Khe Sanh được ông coi như có giá trị lịch sử tiêu biểu cho chính nghĩa dân chủ và tự do, chống chủ nghĩa cộng sản quốc tế có mưu đồ nô dịch toàn thế giới. Với độ lùi lịch sử hơn 40 năm, khi mây mù của thế kỷ 20 đã tiêu tan, mọi việc được sáng tỏ.

Đối với một số cựu cán binh CSVN, cho đến nay có người vẫn còn cay đắng nói đến trận Khe Sanh, gọi là "Khe Tử", đã biết bao cán binh CSVN bị thương và chết tại đó, nhưng bản thân họ, gia đình họ và đồng bào họ đến nay vẫn không có tự do, vẫn bị những cường hào cộng sản các cấp ức hiếp. Còn lãnh thổ, lãnh hải cũa Tổ quốc thì nay bị đảng cộng sản nhượng "vô tư" cho các "đồng chí đàn anh của họ".

Diễn văn của ông Obama không nói đến 2 chữ Việt Nam. Chỉ có hai chữ “Khe Sanh” mà đã làm cho CSVN phải giật mình vì chạm nọc. Và họ cũng giật bắn mình khi nghe đến câu: "những kẻ bám lấy quyền lực bằng tham nhũng, lừa dối và bịt miệng tiếng nói đối lập, tiếng nói công lý, hãy biết rằng các người đang đứng về phía sai lầm của lịch sử". Có tật thì giật mình. Đứng về phía sai lầm của lịch sử thì ắt bị dân tộc, bị cả nhân loại chống lại, và sẽ bị lịch sử đào thải.

Nhất là đối với tuổi trẻ Việt Nam, cùng thế hệ với Obama, cùng thời đại với Obama, cùng thành thạo computer như Obama, cùng mê tận dụng cái con Blackberry như Obama, cùng nghiện internet và email như Obama, coi thông tin nhanh nhậy như hơi thở như Obama, chớ có phạm sai lầm và dại dột.

Đối với thế hệ khao khát hiểu biết này, cái gì cũng muốn hiểu thấu đáo, hiểu đến nơi đến chốn, hiểu cặn kẽ nguồn cơn, chớ có dại dột cắt câu này, thiến chữ nọ, giở trò ăn gian và xảo trá nữa.

Thế Sự

Sự Thật Về Trịnh Công Sơn

Sau khi miền Nam bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm thì bao nhiêu sự thật lịch sử đã lần lượt được phơi bày, nhưng chân tướng của Trịnh Công Sơn vẫn còn được một số người cố gắng che dấu. Những người này cố tròng vào cổ Trịnh Công Sơn cái vòng hào quang " Quốc Gia " ,họ tiếp tục ca tụng Trịnh Công Sơn là một người quốc gia !

Nhưng có một sự thật hiển nhiên mà họ không thể chối cãi được, là trong suốt cuộc chiến của người Việt Quốc Gia chống lại CS Quốc tế, được thực hiện bởi tay sai đắc lực là CS Hà Nội; Trịnh Công Sơn là một tên trốn lính. Chẳng những trốn lính, chẳng những đứng bên lề cuộc chiến, không hề chiến đấu bảo vệ chính bản thân của mình trước làn sóng xâm lăng của CS Bắc Việt, Trịnh Công Sơn còn tiếp tay cho công cuộc xâm lăng của CS Bắc Việt bằng những bài ca phản chiến !

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trịnh Công Sơn đã lớn tiếng minh định không phải là người Quốc Gia khi hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát thanh Sàigon để " chào mừng cách mạng thành công " vào lúc xe tăng CS Bắc Việt tiến vào dinh Độc Lập !

Từ sau ngày Trịnh Công Sơn qua đời, nhiều dư luận trong và ngoài nước có khuynh hướng " lôi họ Trịnh về phía bên này" hoặc " đẩy về phía bên kia". Đối với Trịnh Công Sơn ai lôi thì cứ lôi, ai đẩy thì cứ đẩy, " kệ". Trịnh Công Sơn là Trịnh Công Sơn, ai muốn hiểu sao cứ hiểu. Tuy nhiên cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thuộc về lịch sử, mà đã là lịch sử thì " bên này" hay " bên kia" phải được chứng minh bằng tư liệu, tư liệu thành văn và tư liệu sống, nói có sách mách có chứng. Không thể phát ngôn về Trịnh Công Sơn theo cảm tính hay theo một định kiến.

Căn cứ vào những tài liệu " thành văn " và tài liệu "sống", hầu như ai cũng biết rằng, âm nhạc của họ Trịnh có cơ hội nẩy nở và thăng hoa là nhờ môi trường tự do, khai phóng của miền Nam dưới hai thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa. Chính nhờ sự rộng lượng bao dung của Việt Nam Cộng Hòa và sư che chở của một số sĩ quan cao cấp của QLVNCH mà họ Trịnh mới sáng tác được trên dưới 600 nhạc phẩm. Cũng chính Việt Nam Cộng Hòa đã đem bài Diễm Xưa đến Hội Chợ Quốc Tế Osaka 1970 để rồi họ Trịnh mới chiếm giải nhất về Dân Ca và được người Nhật thực hiện trên đĩa vàng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn được sử dụng trong các buổi sinh hoạt, họp mặt của thanh niên, sinh viên.
Tóm lại, danh vọng và tiếng tăm mà họ Trịnh có được là nhờ Việt Nam Cộng Hòa và những sĩ quan cao cấp trong QLVNCH đã cưu mang và che chở cho họ Trịnh. Nói một cách dễ hiểu hơn, Trịnh Công Sơn đã sống như một loại ký sinh trùng trong lòng hai chế độ Cộng Hòa miền Nam.

Ký sinh trùng như giun, sán sống trong ruột của con người, nhờ hấp thụ chất bổ dưỡng tích tụ trong ruột non của con người mà chúng nó mới sống khoẻ sống mạnh và sinh sôi nẩy nở. Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn sẽ không thể phát triển và thăng hoa nếu không ký sinh trong môi trường tự do khai phóng của Việt Nam Cộng Hòa, cho dù đang ở trong giai đoạn chiến đấu chống xâm lăng cộng sản. Và trong lúc Trịnh Công Sơn trốn tránh trách nhiệm, sống như một loài ký sinh trùng giữa đô thị để viết những bài ca phản chiến thì hàng triệu thanh niên cùng lứa tuổi đang hy sinh xương máu tại các chiến trường miền Nam trong từng giây, từng phút.

Đúng với lẽ công bình của trời đất và lương tâm con người, Trịnh Công Sơn đã mang một món nợ rất lớn đối với những người đã chết để họ Trịnh được hít thở không khí tự do cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những người ấy đã nằm xuống để họ Trịnh được sống, để họ Trịnh được có cơ hội nói ra những lời vô ơn bạc nghĩa và thực hiện những hành vi phản bội trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhiều người miền Nam từng coi Trịnh Công Sơn là thần tượng, từng ngưỡng mộ họ Trịnh đã ngỡ ngàng và đau đớn biết bao nhiêu khi nghe Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh kêu gọi mọi người cùng hát bài Nối Vòng Lay Lớn để " chào mừng cách mạng thành công " giữa lúc Sài Gòn đang trong cơn hấp hối !

Nhiều người vẫn chưa quên giọng hát hồ hởi, tiếng vổ tay đánh nhịp dồn dập đầy sự phấn khởi của họ Trịnh trong ngày uất hận, đau thương và đen tối nhất của lịch sử dân tộc !
Trong ngày đen tối đó, họ Trịnh đã công khai bội phản những người từng cưu mang, dung dưỡng, che chở mình; minh thị phản bội lại những " tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình " !
Nếu Trịnh Công Sơn không phải là một con người có tâm địa phản trắc thì Trịnh Công Sơn là con người gì ?
Hãy nghe Trịnh Công Sơn định nghĩa: " trốn lính là một hành động phản kháng."

Trốn lính vào thời điểm cộng sản Bắc Việt đang tiến chiếm miền Nam là một hành động phản kháng, vậy thì Trịnh Công Sơn muốn phản kháng ai và phản kháng điều gì ? Có phải là phản kháng Việt Nam Cộng Hòa đang dung dưỡng họ Trịnh, phản kháng những nổ lực của quân dân miền Nam đang ngăn chận làn sóng đỏ để bảo vệ cơm no áo ấm cho đồng bào, trong đó có cá nhân và gia đình của Trịnh Công Sơn ?

Trịnh Công Sơn đã phản bội chính nghĩa quốc gia, tiếp tay với chế độ phi nhân, tiếp tay với những con người không còn lương tri đã đối đãi với đồng bào ruột thịt như kẻ thù không đội chung trời; họ Trịnh đã góp phần gây ra tai họa khủng khiếp cho dân tộc, đẩy đất nước xuống hố diệt vong. Vậy thì cái vòng hào quang Quốc Gia mà ai đó cố choàng cho Trịnh Công Sơn là không có thật, không bao giờ có thật. Thật sự trong tận cùng tim đen, Trịnh Công Sơn cũng không hề muốn đội cái vòng hào quang Quốc Gia ấy.

Một tên ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, trước lịch sử, Trịnh Công Sơn đã hiện nguyên hình. Không nên bóp méo lịch sử bằng cách choàng lên đầu Trịnh Công Sơn vòng hào quang Quốc Gia không hề có thật; cũng đừng hô biến " Nối Vòng Tay Lớn " trở thành một biểu tượng đoàn kết đấu tranh dân chủ, trong khi bài hát ấy đã được tác giả của nó hát lên để đón mừng cái chế độ phi nhân CSVN đã và đang bóp họng dân chủ !

Nói Sự Thật

Chuyển ý từ: BB/Liêm

onsdag 21. januar 2009

Xuân Tha Hương

Lại mùa Xuân nữa đến trên đất Mẹ dấu yêu,
Mùa Xuân tha hương mang trong lòng nổi nhớ thương.
Hỏi Xuân có vui khi quê nhà bao cảnh bất công,
Lê bước dài trên đường phiêu bạt nặng sầu đau.

Xuân Kỷ Sửu 2009 về trên quê hương Việt Nam dấu yêu. Đây cũng là mùa Xuân năm thứ 34, người Việt tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, không ai lại không khỏi bùi ngùi chua xót, khi hướng nhìn về quê cha đất tổ nghìn trùng xa cách. Quê hương tuy còn đó, nhưng bóng đêm dầy đặc độc tài của bọn Cộng Sản Việt Nam, tiếp tục bao phủ trên khắp mọi nẻo đường đất nước. Phiêu bạt nơi đây, vẫn mang thân phận của kẻ lưu vong, nước mất nhà tan; đồng bào ruột thịt nơi quê nhà, vẫn chịu cảnh đọa đầy, trầm luân trong kiếp sống vong nô ngay chính trên quê hương Việt Nam dấu yêu, cũng kể từ ngày “ đau thương 30 tháng 4 năm 1975”, ngày Cộng quân Bắc Việt, từ rừng sâu kéo vào thủ đô Sài Gòn, dẵm nát, tước đọat mọi quyền sống làm người của nhân dân miền Nam tự do và xé tan mọi ước vọng của toàn dân.

Rồi cũng từ những tháng ngày đau thương 30/4/1975 ấy, hàng triệu người phải đành rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, phiêu bạt khắp năm Châu hải ngoại và luôn tự hỏi “ phải làm gì để giải cứu quê hương, phải làm gì để người dân được sống là con người trên quê hương Việt Nam, và đem lại những mùa Xuân đàm ấm, đòan tụ xum vầy; những mùa Xuân của tình tự quê hương, mùa Xuân trọn vẹn với ước mơ của dân tộc Việt Nam ”.

Nhiều người cứ đinh ninh rằng, sau ngày Sài Gòn thân yêu bị sụp đổ (30/4/1975), dù bạo quyền CS Bắc Việt có say men chém giết và biến cả miền Nam tự do thành một nhà tù khổng lồ, thì cũng có một ngày bạo quyền phải hồi tâm tỉnh ngộ, trả lại quyền sống, quyền làm người, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc cho người dân. Vì rằng, đã là người thì ắt phải có quyền được hưởng những quyền này. Nhưng đau đớn thay, CS Bắc Việt với bản chất dối trá, gian manh, lừa đảo quỉ quyệt và đầy độc ác, chẳng những bạo quyền đã không hồi tâm tỉnh trí mà còn hiện nguyên hình là những tên đồ tể, những kẻ bất nhân, bất nghĩa và vô đạo đức. Bạo quyền CS Bắc Việt đã không ngừng đầy đọa, khủng bố và trù dập mọi tầng lớp nhân dân miền Nam, bọn chúng bất kể những tiếng rên xiết, óan than của mọi thứ thương đau, những khốn khổ của người dân khắp ba miền. Bằng mọi phương cách trả thù tàn độc, CS Bắc Việt quyết hủy diệt cho bằng được tiềm năng sức sống của nhân dân miền Nam, mà còn tước đọat quyền sống, quyền làm người của đồng bào miền Bắc, vốn đã bị bạo quyền phỉnh gạt, lừa đảo và triền miên trong lầm than thống khổ, kể từ ngày tên tội đồ dân tộc Hồ Chí Minh, áp đặt “ chủ nghĩa phản dân hại nước ” lên nhân dân miền Bắc năm 1945. Bạo quyền CS Bắc Việt chẳng những đã không màng đến “ quyền làm người và hạnh phúc của người dân ” bạo quyền đã ép buộc mọi người dân chỉ nghe một chiều, nhìn một phía và phải ngoan ngõan tuân hành các mệnh lệnh của bạo lực chuyên chính Cộng Sản. Bạo quyền CS Bắc Việt, chẳng những đã không tôn trọng tự do, dân chủ của tòan dân như một sinh họat đa nguyên tất yếu và hằng cửu của xã hội, mà trái lại, bạo quyền lại còn thô bạo áp đặt một lọai độc tài tòan trị thâm hiểm dưới danh xưng “ dân chủ tập trung ” mà chưa bao giờ nhân dân một lần chấp nhận.

Với chính sách giáo dục ngu dân hơn của CSVN đã làm cho đồng bào cả nước bị vong thân, không còn khả năng nhận thức sự khác biệt giữa quyền làm người và thân phận kẻ bị làm nô lệ. Với văn hóa nô vong, phi nhân bản, phi dân tộc và phản tiến bộ của chủ nghĩa Marx-Lénine và cái gọi là “ tư tưởng vong nô ” của tên tội đồ dân tộc Hồ Chí Minh, với nền hành chánh pháp lý tăm tối, ngu dốt của “ xã hội chủ nghĩa ” cùng với quyền lực trong tay, bạo quyền đã đánh phá tận gốc rễ mọi dạng thức văn hóa, mọi tôn giáo và mọi truyền thống tốt đẹp từ nghìn xưa của dân tộc. Không ai có thể phủ nhận được rằng, tham ô, quan lại, cửa quyền, lường gạt, sát nhân, đĩ điếm,… và hàng núi tội ác đủ lọai tại quê hương Việt Nam ngày nay, đều do bạo quyền CSVN cái lũ bán nước cầu vinh là cha đẻ, là nguyên ủy của mọi tội ác tày trời này.

Quả thực, chưa bao giờ dân tộc ta lại đau nhục như bây giờ và cũng chưa bao giờ, đồng bào quê nhà lại lầm than và thống khổ như bây giờ! Cho nên, từ những chiêu bài, “ hòa hợp hòa giải dân tộc, vứt bỏ quá khứ, xóa bỏ hận thù ”, đến những xảo thuật, “ cầu hòa thỏa hiệp, đầu tư góp vốn và giao lưu văn hóa với bạo quyền ”,v.v…mà bọn tay sai, bọn trở cờ đón gió, đánh bóng rao hàng cho CSVN tại hải ngoại, đang ra sức phỉnh gạt, lừa đảo để tạo ra những mâu thuẫn, những chia rẽ nhằm phá nát hàng ngũ người Việt quốc gia trong các cộng đồng tỵ nạn hải ngoại của chúng ta, cũng như để đánh lạc hướng dư luận quốc tế và thế giới. Những điều này càng thể hiễn rõ bản chất phi nhân, vô đạo, phản dân, hại nước của tập đoàn CSVN, bọn chúng cố bám giữ quyền lực để tiếp tục hưởng đặc quyền đặc lợi, đưa dân tộc và đất nước đến diệt vong.

Chính vì vậy, dù đã hơn 33 năm dưới gông cùm bạo quyền CSVN, đồng bào quốc nội vẫn bền chí hiến dâng mồ hôi, nước mắt và máu xương cho khát vọng tự do của dân tộc. Bằng mọi phương tiện, bằng mọi hình thức, đồng bào đã liên tục vùng dậy chống kẻ thù chung. Lẽ cố nhiên, từ vòm trời đen tối ấy, đồng bào đã không quên hướng về người Việt hải ngọai chúng ta và kỳ vọng nơi “ những kẻ ra đi không vì cơm áo ”, hãy thể hiện lời nguyện ước: “ đồng tâm hiệp lực, giải trừ Cộng Sản, quang phục quê hương ”.

Liệu chúng ta có đủ can đảm ngồi chờ sự tự hủy hay tự diệt vong của bạo quyền, cũng như một số người, với thái độ rất ư là thức giả trong các cộng đồng đang ru ngủ những người chung quanh: ” thời đại này là thời đại diệt vong của chủ nghĩa CS, thời đại của bất chiến tự nhiên thành. Tại sao không thảnh thơi thơ túi rượu bầu ”. Nhất định rồi đây bạo quyền CSVN cũng sẽ bị lịch sử đào thải. Nhưng không vì vậy mà chúng ta giảm bớt quyết tâm và cường độ đấu tranh. Vì rằng, công cuộc giải cứu đồng bào thân yêu thóat cảnh khốn khổ hiện nay là một mệnh lệnh của lương tâm. Mệnh lệnh đó, hàng ngày, hàng giờ, thôi thúc chúng ta phải đấu tranh chấm dứt đời bạo quyền càng sớm càng tốt. Chậm một ngày, đồng bào ta càng bị nhận chìm xuống vực sâu lầm than, thống khổ. Chắc chắn rằng, chúng ta không đủ can đảm để thảnh thơi, ngồi chờ sự rơi rụng, tiêu vong của bạo quyền CSVN. Quả thực, nếu như bạo quyền CSVN còn tồn tại thì còn gì là quê hương của chúng ta, lãnh thổ, lãnh hải tập đoàn mang rợ này đã dâng cúng dần cho quan thầy Trung Cộng và ngoại bang.

Mỗi người Việt hải ngọai hôm nay, chẳng những vừa là nạn nhân, vừa là chứng nhân bi thương của lịch sử đối với bạo quyền CSVN mà còn là niềm hy vọng lớn lao của đồng bào quốc nội. Cho nên, chúng ta phải có bổn phận cất lên tiếng nói sự thật, quyết tâm đấu tranh, cho mọi người thấy rõ đồng bào cả nước đang bị xích xiềng bịt miệng. Tiếng nói của chúng ta, chẳng những củng cố niềm tin cho người ở lại mà còn giúp cho chính chúng ta nuôi dưỡng được niềm tin. Vậy xin đừng im lặng, vì im lặng chính là đồng lõa với tội ác, hãy nhìn rõ sự thật về độc tài tòan trị của CSVN đang hãm hại trên quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta hiện nay.

Năm Kỷ Sửu 2009 này, chúng ta hãy cùng nhau tâm nguyện: “ Kết hợp mọi tủi nhục của những anh em đồng đội, vì tự do dân chủ đấu tranh, đang bị bạo quyền giam cầm, nỗi đau thương trong kiếp sống lầm than, tủi nhục của hơn 85 triệu đồng bào ruột thịt, những giọt máu đào của các chiến sĩ quốc gia, đang ngày đêm vùng lên tranh đấu nơi quê nhà, thành vũ khí sắc bén đấu tranh để cứu nguy tổ quốc. Chúng ta quyết biến tình thương nhớ và yêu quê hương thành sự đòan kết, sắt son một lòng tranh đấu cho tự do, hạnh phúc và tương lai dân tộc’’, để cùng nhau vui hưởng một mùa Xuân trọn vẹn ý nghĩa mà dân tộc Việt Nam hằng mong đợi.

Người Tha Hương

mandag 12. januar 2009

Nhớ Huế

Nhớ Huế

Có quá nhiều kỷ niệm về Huế trong tôi. Tạ từ Huế đã lâu, lâu lắm rồi... từ dạo quê hương bắt đầu chìm trong thảm họa. Hơn ba mươi ba năm, chưa một lần nào về thăm cảnh cũ người xưa, tìm lại những dấu vết thời gian của một Huế ngày tháng cũ.

Nam Cali, nơi xứ lạ quê người, mùa này cuối năm, buổi sáng trời trở lạnh, sương mù mênh mông, mờ ảo, gợi nhớ những kỷ niệm Huế vào những ngày cuối năm, cũng sương mù dày đặc chắn lối đi, hình ảnh những người đàn bà Huế với chiếc áo dài, khi ẩn, khi hiện trong sương sớm, quẩy đôi thúng cá, nặng trĩu đong đưa trên vai từ Chợ Dinh qua cầu Gia Hội, Chợ Nọ qua cầu Tràng Tiền đến chợ Đông Ba, hay những gánh cơm hến từ vùng Cồn Hến băng qua Đập Đá lên đường Hàng Me, rồi thì nồi bún trâu từ lò trâu Vân Dương lên vùng An Cựu thơm lạ lùng và quyến rũ trong sương sớm. Ai đã là dân Huế mà chưa một lần ăn bún trâu Vân Dương thì quả là một thiếu sót lớn.

Giờ này, thời gian cuối năm cũng đã gần kề. Từ chốn xa xôi biền biệt, chợt thấy nhớ quê hương, nhớ Huế một cách lạ lùng, nhớ da diết... nhớ lại những ngày cận Tết của năm 1968 tại Huế. Từ ngữ Mậu Thân 1968, tất cả đều làm cho người ta nhớ đến Huế. Huế, Mậu Thân 68, đã vĩnh viễn đi vào lịch sử với nỗi hãi hùng kinh sợ.

Đã hơn bốn mươi năm trôi qua vậy mà vết thương Mậu Thân như vẫn còn đau đớn trong lòng, cứ mỗi độ đông sang, vết thương lại tái phát, lại đau nhức trở lại, nhất là thế hệ chúng tôi, những kẻ suốt nửa cuộc đời tuổi trẻ sống trọn và dâng hiến cho “cầu Tràng tiền sáu vài mười hai nhịp”, cho “sông An cựu nắng đục mưa trong”, cho “tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”, và cho những ngày mưa bụi dăng đầy từ Văn Thánh, Thiên Mụ, xuống Kim Long về Bạch Hổ, qua Hoàng Cung của một thời: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”, mưa bụi mờ nhạt trên giòng sông Hương trôi về Đập Đá, Vỹ Dạ, dòng sông âm thầm lặng lẽ, như đời người dân Huế chịu đựng bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu nghịch cảnh của một thời chính chiến, tao loạn.

Và khi đã ở lính, được phép về Huế, bất chợt đi ngang qua trường Đồng Khánh, ngang bến đò Thừa Phủ vào buổi chiều tan học khi mà “Áo em trắng quá nhìn không ra”, nhìn theo mà lòng ngẩn ngơ buồn.

Hồn lính vương qua vài sợi tóc
Tôi thương em mà em đâu có hay

(Quán Bên Đường, Thơ Quang Dũng)

Đó là Huế yêu dấu ngàn đời. Một nửa quãng đời tôi sống và lớn lên tại Huế, bây giờ tháng năm xa cách, thật nhớ khôn nguôi.

Nhớ lại Mậu Thân 1968, sau 22 ngày bị VC chiếm giữ, đến ngày thứ 26 Huế hoàn toàn được cứu thoát khỏi cơn tai biến do chính Quân lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH), xin tạ ơn các anh, người lính VNCH.

Thế nhưng sau tai ương thảm khốc đó, Huế còn lại gì?

Thân thuộc gia đình, bạn xa, bạn gần, hàng xóm láng giềng gần, xa, bao nhiêu mất mát chia lìa, bao nhiêu tống biệt, bao nhiêu ngậm ngùi xót xa, Huế đều nhận lãnh sau ngày đó.

Sau Mậu Thân Huế chẳng còn gì, có còn chăng là những đổ vỡ điêu tàn trong lòng người và trong lòng cố đô Huế.

Việt Cộng tràn vào Huế khuya ngày mồng một rạng ngày mồng hai Tết Mậu Thân, sau 22 ngày tàn sát dân Huế và gây tang tóc, điêu linh, đổ nát cho Huế, bọn chúng bắt đầu chạy trốn khỏi Huế vào khuya ngày 22/02/1968, khi bị QLVNCH tấn công và đẩy bọn chúng ra khỏi Huế, để lại cho Huế những đau thương cùng cực với 5327 nạn nhân mà chúng đã hạ sát và 1200 người mất tích không còn dấu vết tìm kiếm.

Huế còn lại điêu tàn đổ nát, thành phố đầy rẫy xác người. Từ đường Lê Lợi, đến đường Nguyễn Huệ, trường Thiên Hựu, vùng Dòng Chúa Cứu Thế kéo về đường Duy Tân, qua đường Lý Thường Kiệt, Trần Cao Vân, khu toà Đại Biểu, khu toà Hành Chánh Tỉnh, bệnh viện Trung ương Huế, khu Bưu Điện, Ngân Khố, bị tàn phá nặng nề, đâu đâu cũng thấy xác người, ngay vệ đường, trong lùm cây bụi cỏ, xác người đã sình thối và bắt đầu rữa nát.

Dòng sông An Cựu “nắng đục mưa trong” có 6 cây cầu bắc ngang. Cầu An Cựu nối liền quốc lộ I ra Tỉnh Quảng Trị đã bị phá sập hoàn toàn.

Cầu Kho Rèn, cầu Phủ cam, Cầu Bến Ngự, 3 cây cầu này loang lổ vết đạn pháo binh, đã hư hại đến hơn 70%, không thể xử dụng được nữa, duy chỉ còn cầu Nam Giao nối thành phố lên vùng Từ Đàm Nam Giao, và cầu Ga, nối thành phố lên ga tàu lửa Huế Đà Nẵng, Huế Quảng Trị tương đối còn có thể xử dụng được.

Và cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp ngay giưã lòng thành phố Huế chỉ còn lại năm vài, một đầu vài kia đã chìm xuống dưới dòng sông lạnh.

Chiếc cầu Trang Tiền đối với bất kỳ ai, nếu đã sinh ra và lớn lên tại Huế, cầu Tràng Tiền là một kỷ niệm vui, buồn, khó quên, một phần đời của người Huế. Chiếc cầu đó là một chứng nhân thầm lặng của lịch sử, đã biết bao đổi thay của nhiều triều đại, nhiều thế hệ, của những thăng trầm, những biến động đau thương, mà tổ quốc và dân tộc đã gánh vát còng lưng, và quê hương đã gánh chịu đọa đày, nó không thể gãy vì đó là một hình ảnh một biểu tượng quá sâu trong lòng người Huế, trong lòng những kẻ Huế tha hương, mỗi khi nhắc đến nó, nhớ đến nó lại thổn thức nghẹn ngào, lại nhớ da nhiết, nhớ cuống quít, muốn tìm về chốn cũ quê xưa, nơi có “Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp”, nơi đó là Huế dấu yêu muôn đời. Có thể nói, Cầu Tràng Tiền, dòng sông Hương, núi Ngự Bình và người Huế cả bốn là một.

Cầu được khởi công xây cất từ tháng 5 năm 1889, năm Thành Thái thứ 9, và hoàn tất vào tháng 10 năm 1890, do công ty Eiffel lãnh thầu xây cất với tổn phí 800,000 Fr. Như vậy tính đến nay, năm 2008 cây cầu đã được 119 năm tuổi đời.

Vào lúc khánh thành cây cầu được đặt tên là cầu Thành Thái. Sau bao nhiêu biến đổi thăng trầm của lịch sử và của Huế, cây cầu được đổi tên: Cầu Tràng Tiền.

Tràng Tiền, tên thật đơn giản, vì cây cầu được xây tại vùng Phú Xuân, Thuận Hóa, nơi thuở xưa các đời Chúa Nguyễn có xưởng đúc tiền tại đó, chỉ vậy thôi.

Năm 1946, khi quân đội Pháp tấn công và tái chiếm Huế, Việt Minh rút khỏi thành phố, trong kế hoạch “Tiêu thổ kháng chiến” bọn chúng đã giựt sập một vài cầu Tràng Tiền. Năm Mậu Thân 1968, lần thứ hai, cây cầu lại bị bọn chúng giựt sập.

Vì thế mà Huế trong những ngày tháng tạm yên bình không tiếng súng, đã có những câu hò đối, đáp, vang vọng trên dòng sông Hương vào những đêm khuya trăng sáng trãi dài từ Linh Mụ xuống cầu Bạch Hổ đến Hòang Cung, qua cầu Tràng Tiền xuôi về Đập Đá, ngang qua Vỹ Dạ đến tận thôn Thọ Lộc, tiếng hò nghe như một lời oán trách, não nuột, buồn lạ lùng.

Câu hò đối đi:

Cầu Tràng Tiền bấy nhiêu năm qua lại
Kể từ đời Thành Thái đến nay
Chạnh lòng biết mấy ai ơi
Việc chi nên nỗi dang tay giựt cầu.

Câu hò đáp lại:

Lắm chuyện ly kỳ hỏi làm chi cho tối dạ
Nhịp cầu nghiêng ngả chưa lạ anh ơi
Điện Cần Chánh họ đút họ chơi
Khói bay nghi nghút tạn Trời anh thấy không.
(Ưng Bình – Thúc Dạ Thị)

Khu Quận 2, trung tâm thương mại Huế lại càng điêu tàn và tang thương hơn. Dãy phố nối dài từ bến xe Nguyễn Hoàng xuống đến đường Trần Hưng Đạo, qua đường Phan Bội Châu, đường Hàng Bè, đến khu Gia Hội đường Chi Lăng, khu Trung Bộ, đường Bạch Đằng, đến tận trường trung học Gia Hội, qua khu Bãi Dâu, nhiều cửa tiệm đã xập đổ, nhiều cửa hàng có đến hằng ngàn vết đạn, và đầy những xác người và những mồ chôn tập thể.

Trở vào quận I thành nội Huế, nơi đây trong 22 ngày trận chiến nặng nề nhất, cộng quân đã bị đã bị Quân lực VNCH vây chặt, bọn chúng không còn đường rút lui nên cố phá vòng vây của TQLC Việt Nam Cộng Hòa, Nhảy Dù, Sư Đoàn I BB. Trận chiến cam go và ác liệt, kéo dài nhiều ngày.

Thành nội Huế với những cửa thành: Thượng Tứ, Chánh Tây, Đông Ba, Cửa Trài, khu Kỳ Đài tất cả đều bị tàn phá, sụp đổ nặng nề, có nơi không còn viên gạch nào chồng lên viên nào.

Khu vực Tây Linh, Tây Lộc, đường Hòa Bình, Đinh Bộ Lĩnh cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba tất cả điêu tàn sụp đổ, xác người đã sinh thối.

Tang thương và đau đớn nhất là khu vực Đại Nội, Tử Cấm Thành, một di tích lịch sử của triều đại nhà Nguyễn đã bị phá hủy nặng nề.

Đã hơn 150 năm trước, trong triều đại Vua Minh Mạng, Bà Huyện Thanh Quan hoài vọng nhà Lê đã viết

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.

(“Thăng Long hoài cổ”, Thơ Bà Huyện Thanh Quan)

Năm 1968 cố đô Huế, Đại Nội, Tử Cấm Thành còn điêu tàn khủng khiếp, rùng rợn hơn Thăng Long ngày xưa ngàn lần.

Và trong những ngày kinh hoàng cơ cực của năm Mậu Thân 1968, dân chúng Huế đã tỵ nạn trên chính ngay thành phố Huế, nơi chôn nhau cắt rốn của họ.

Tất cả các trường Quốc Học, Đồng Khánh, Kiểu Mẫu, Lê Lợi, Thiên Hựu, Thượng Tứ, Hàm Nghi, Dòng Chúa Cứu Thế, nhà thờ Phủ Cam đã là những trại tỵ nạn. hằng ngàn người cho mỗi nơi.

Đàn bà, trẻ thơ, ông già, bà lão, họ kinh hoàng, thất thần, đói khát, ôm nhau để cùng chết, cùng sống trong những giờ phút bi thương đó, khổ nạn đã vút tận trời xanh, cùng cực đã xuống tận đáy sâu, kể sao cho hết, viết sao cho cùng. Ôi! Huế đau thương, Huế đọa đày. Huế địa ngục trần gian có thật của năm Mậu Thân 1968.

Rồi những ngày tháng kế tiếp, Huế trong cảnh điêu tàn còn phải gánh chịu thêm tang tóc chia lìa. Có thể nói hầu như không có gia đình nào không có thân nhân bị VC sát hại hoặc bắt đi, vợ mất chồng, con mất cha, anh em mất nhau, bạn gần, bạn xa, hàng xóm láng giềng vắng bóng. Huế đã sống trong nỗi hy vong mong manh, và niềm đớn đau tuyệt vọng tận cùng. Mọi người đã sống trong khắc khoải chờ đợi người thân trở về, và trong nghẹn ngào, đớn đau, xót xa khi đã tìm ra thân xác của thân nhân nằm chết co quắp bên vệ đường Lê Lợi, Duy Tân, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo Chi Lăng Nhà Bè, Đinh Bộ Lĩnh, Hòa Bình, Ngã tư Anh Danh, Miếu Âm Hồn, chết tức tưởi trong lùm cây bụi bỏ, dưới hố sâu hầm cạn, tại trường Trung học Gia Hội, Bãi Dâu, tại cửa Đông Ba, Thượng Tứ Nhà Đồ, bên bờ khe vực thẳm, dọc theo Khe Đá Mài, Khe Trái, Khe Lụ, tại vùng Lăng Xá Bàu, Lăng xá Cồn, v.v...

Và như như ông Tú Trần Tế Xương đã nói, “Bừng con mắt dậy, ngỡ mình chiêm bao.”

Quả đúng, buổi sáng thức giấc, chợt thấy thành phố Huế phủ một màu tang trắng, hằng đoàn người khăn tang áo chế, theo sau hằng trăm cổ quan tài, u buồn, chậm bước dọc cầu Tràng Tiền theo đường Lê Lợi lên nghia trang Ba Đồn cạnh đàn Nam Giao, nơi mồ chôn tập thể của hàng ngàn nạn nhân vô tội bị bọn quỷ dữ Việt cộng tàn sát.

Còn gì đau thương hơn hỡi trời, hỡi đất, hỡi sông Hương núi Ngự, hỡi Cung miếu triều xưa, hỡi hồn thiêng sống núi, hỡi anh linh tiền nhân sao nỡ đọa dày dân tộc đến tận cùng khổ đau.

Huế trong tình trạng gạo thiếu, nhu yếu phẩm thiếu, điện thiếu, nước thiếu, dân Huế đang quằn quại, cơ cực trong các trại tỵ nạn. Xác người sình thối trong thành phố, và hầu như trong các trại tỵ nạn không nơi nào có nhà vệ sinh cho đồng bào, họ phải tùy cơ ứng biến vì thế không một trại ty nạn nào không toả mùi hôi thứ đó.

Nguy cơ những cơn bệnh truyền nhiểm có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Những ngày này thời tiết lại quá xấu, bầu trời thật thấp, phủ một màu xám, từng cơn mưa phùn trải dài qua thành phố, ngày này sang ngày khác, lạnh cắt da. Ông già, bà lão, trẻ thơ, run rẩy trong chiếc áo mong manh, họ đang bị đói và lạnh trong các trại tỵ nạn.

Huế trong đổ nát điêu tàn, trong đau thương quằn quại, Huế nằm bất động như người bệnh bán thân bất toại tưởng chừng như không bao giờ gượng dậy nổi.

Một số ít người Huế đã nói, “Huế chỉ để mà nhớ, chứ không để mà ở”, và họ đã bỏ Huế ra đi.

Liên Thành

Văn Hóa Vận Của CSVN

Văn Hóa Vận Của CSVN

Nếu lưu ý đến tình hình hiện nay trong nước, chúng ta thấy tập đoàn vgcs thông qua Ủy Ban người Việt ở nước ngoài, đã công khai tuyên bố về cái gọi là chính sách ngoại giao văn hóa. Nội dung chính sách đó là nhằm tác động vào Cộng Đồng (CĐ) người Việt ở hải ngoại, có nghĩa bao gồm cả những thành phần “xuất khẩu lao động” hoặc du sinh, những thành phần di dân, nhưng phải hiểu rằng cái đích chính là thành phần tỵ nạn, và chắn chắn là lực lượng quân, cán, chính VNCH (đặc biệt QLVNCH) mới là đối tượng chính yếu. Đồng thời chủ trương đó của chúng, như chúng công bố, phải biến CĐ người Việt hải ngoại thành chủ thể thực hiện “đường lối ngoại giao văn hóa” để tác động đến nhân dân và chính phủ những quốc gia có người Việt định cư.

Lộ trình của CSVN về chủ trương lưu manh và thâm hiểm nói trên là:

1.- Chinh phục người Việt, đặc biệt là người Việt tỵ nạn vgcs, bằng con đường văn hóa truyền thông, nghệ thuật, du lịch v.v… .

2.- Sau khi đã thành công bước một nói trên của lộ trình, chúng sẽ tác động vào để khiến người Việt ở hải ngoại (gồm những người không phải là tỵ nạn vgcs) sẽ tác động trở lại vào những người có nguồn gốc tỵ nạn vgcs, cũng như nhân dân và chính phủ nước sở tại, tất nhiên cũng bằng biện pháp thông tin, văn hóa, nghệ thuật và du lịch.

Phương pháp thực hiện chủ trương của chúng sẽ là, dựa vào tụi nằm vùng, các tổ chức đảng phái ma trơi phở bò, để mơ hồ hóa thành phần người Việt ở hải ngoại không là tỵ nạn vgcs. Chúng sẽ dựa chủ yếu vào số người Việt cư trú tại liên bang Nga, các nước Đông Âu cũ, Tàu cộng, Đại Hàn, Đài Loan và một số nước khác ở Trung Đông, Phi Châu hoặc Châu Mỹ La Tinh làm lực lượng trung hòa quan điểm kiên quyết chống CSVN, và quan điểm vì xây dựng đất nước VN và chống sự xâm lược của tụi Tàu cộng để dễ dàng chấp nhận việc quên quá khứ xoá bỏ hận thù, tiến tới hòa giải, hòa hợp (HGHH) với CSVN, để xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng trước đã.

Việc làm này sẽ mở ra một cuộc tranh luận không ngưng nghỉ, giữa những người coi CSVN là kẻ thù nguy hiểm nhất trong giai đoạn hiện nay, là nguồn gốc mọi thụt lùi về kinh tế, giáo dục, về sự băng hoại của sinh hoạt xã hội v.v… trong nhân dân và đất nước VN. Và vgcs cũng là nguồn gốc làm cho lực lượng quốc phòng của VN bị suy yếu hoặc bị vô hiệu hóa, bởi vì cái lực lượng quân sự của VN hiện nay, chừng nào còn nằm trong tay độc quyền quản lý và xử dụng của tập đoàn vgcs, thì mục tiêu của nó không phải là bảo vệ Tổ Quốc và Nhân Dân VN, mà là bảo vệ mọi đặc quyền, đặc lợi, trong đó cũng là bảo vệ quan điểm và đường lối chính trị của tập đoàn CSVN. Mà chúng ta đã biết rằng không phải chỉ thời kỳ Hồ chí Minh (HCM) còn sống, mà tất cả các thế hệ cầm quyền của vgcs cho đến nay là bè lũ Nông Đức Manh, Nguyễn Minh Tiết, Nguyễn Phú Trọng, vẫn là bè lũ trực tiếp bán đất, bán biển, bán tài nguyên, bán lao động v.v… cho Tàu cộng và các tập đoàn tài phiệt khác trên toàn thế giới.

Câu tuyên bố vừa qua của Nông Đức Mạnh với tư cách tên lãnh đạo cao cấp số một của tập đoàn CSVN hiện nay rằng: “Quân đội phải trung với đảng, hiếu với dân, khó khăn nào cũng vượt qua, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, nhắc nhở chúng ta phải hiểu rằng CSVN (có nghĩa lực lượng vũ trang kể cả công an (CA), cảnh sát, cho đến dân quân tự vệ) chỉ có nhiệm vụ duy nhất là bảo vệ tập đoàn vgcs, chống lại các thế lực dù là nhân dân VN trong và ngoài nước, kể cả quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình công lý trên toàn thế giới, nếu có một lời nói hay hành động nhỏ nhất chống lại đường lối bán nước giết dân của tập đoàn CSVN.

Nếu hiểu như vậy (với những bằng chứng cụ thể đã diễn ra trong quá trình lịch sử) thì chúng ta mới thấy được:

1.- Sự nguy hiểm của luận điệu quên quá khứ, xóa bỏ hận thù tiến tới HGHH với tập đoàn vgcs. Là một hình thức nửa nạc, nửa mỡ của lập luận trên, mà canh tân hoặc cùng chung sức với vgcs giải quyết những khó khăn về kinh tế, văn hóa, giáo dục, củng cố quốc phòng và v.v… .

2.- Phải nhận thức thật rõ rằng ưu tiên hàng đầu để có thể phác họa những lộ trình đi tới tự do, nhân bản, thịnh vượng, văn minh, củng cố và phát triển truyền thống dân tộc v.v… Chỉ có thể đặt ra để trao đổi thảo luận (chứ chưa nói đến việc thực thi), thì tất yếu phải thanh trừ mọi hệ thống cai trị từ cơ sở tới trung ương do tập đoàn CSVN và tay sai nắm giữ.

3.- Chừng nào tập đoàn CSVN còn độc quyền, quản lý và xử dụng lực lượng chuyên chính (tức lực lực vũ trang và bán vũ trang; cảnh sát, CA, quan thuế (hải quan) v.v…) thì cho dù tập đoàn CSVN có đổi tên nước thành VNCH; có đổi quốc kỳ thành cờ Vàng ba sọc đỏ; có xóa bỏ điều 4 hiến pháp 92; có cho phép thành lập một số tổ chức đảng phái nào đó, dù là ở trong nước hay ở nước ngoài trở về thì cũng chỉ là “các chú cuội: Cuội lớn, cuội nhỏ”, (và thằng Bờm dù có cái quạt mo hay có nắm xôi, mà thôi).

Cho nên, chúng ta đặt mục tiêu là dân chủ tự do đa nguyên thật sự, chứ không phải là cái bánh vẽ, tô các màu sắc như kiểu tranh của Renoise.

Qua những tài liệu thì chúng ta thấy rằng:

Bước thứ nhất: Tập đoàn CSVN tiếp tục xử dụng tụi nằm vùng, các đảng phái chính trị ma trơi tại hải ngoại, để làm rối loạn thông tin, hầu tạo ra những cuộc tranh luận vô bổ về những vấn đề chưa cần thiết. Thí dụ: về học thuật, về lịch sử cổ xưa, về các chuyện bát nháo mà không tập trung vào việc tranh đấu trực diện với bọn CSVN trên mặt trận thông tin, văn hóa, nghệ thuật... Cho nên, trong lĩnh vực này chúng ta cần thiết tiếp tục vạch mặt tập đoàn CSVN vạch trần những ngòi bút bất lương, thỏa hiệp với CSVN; vạch mặt những kẻ xử dụng phương tiện truyền thông, thông tin để truyền bá những tiếng nói đấu tranh cuội ở trong nước, mà nhân sự do CSVN tuyển chọn và huấn luyện (chính tự bọn họ tố giác lẫn nhau). Cũng như không nên phổ biến mà không bình luận bài của những tên như Nguyễn Trung, trong ban cố vấn của việt gian Nguyễn Tấn Dũng; những tên trí nô của CSVN bàn về mô hình kinh tế ở Việt Nam. Nếu chúng ta chỉ giới thiệu bài vở mà không phân tích đúng sai thì chúng ta chỉ là công cụ chuyển tiếp những ý đồ của CSVN vào đầu óc của người Việt ở hải ngoại, và như thế có thể kết luận là chúng ta đã vô tình hoặc cố ý tự nguyện làm công cụ cho bộ máy truyên truyền của tập đoàn CSVN.

Việc khá quan trọng hiện nay là vạch mặt những tên trí nô hiện rõ nguyên hình là công cụ đắc lực của tập đoàn CSVN chúng nhằm đoàn ngũ hóa những người Việt cả trong và ngoài nước, hoặc chúng chưa không dám hiện nguyên hình là tay sai của CSVN nằm vùng một thứ ga quá cảnh (chuyển tiếp) để trở thành tà lọt chính trị, góp phần lừa bịp nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước, nhất là đối với nhân dân thế giới yêu chuộng tự do và công lý.

Nếu chúng ta không thường xuyên vạch mặt những hoạt động của những tên trí nô lũ xung kích của CSVN qua chủ trương của nghị quyết 36 nhằm tập hợp lực lượng những người thiếu thông tin về bản chất việt-gian của tập đoàn CSVN, dù là người Việt tỵ nạn hay là người dân các nước có người Việt TNCS định cư sẽ bị nhiễu thông tin, mơ hồ thông tin. Như thế thì chúng ta đã bị cô lập, còn kẻ địch từ tập đoàn CSVN thâu thập được lực lượng cho dù cái lực lượng đó muốn đứng trung gian. Trong cuộc tranh đấu giữa chính nghĩa và phi nghĩa, khi những người ở giữa thì trong thực tế họ đã có chiều hướng ngả về phía phi nghĩa. Cho nên cuộc đấu tranh nhằm lôi kéo thành phần trung gian ngả sang phía chính nghĩa là hết sức quan trọng.

Bước thứ hai: Chúng tôi nghĩ rằng bọn CSVN đang thực hiện một việc nữa, đó là chúng quyết tâm bằng mọi biện pháp tổ chức học tập tấm gương “đạo đức” của tên đại việt gian Hồ chí Minh, trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Như thế cũng có nghĩa là, như đường lối “ngoại giao văn hóa”, chúng sẽ xử dụng người Việt ở hải ngoại thành chủ thể nhằm đánh bóng, tô son trát phấn cho tên đại việt gian HCM.

Hiện nay chúng ta đã biết, phần tài liệu chúng dựa vào cuốn “Đỉnh cao chói lọi” của những tên văn nô CSVN. Chúng phổ biến cuốn sách này đến bạn đọc, chúng xử dụng các trang Web mà do chúng giàn dựng ra và đã nắm được. Đã hết sức nhanh nhẩu giới thiệu cuốn “Đỉnh cao chói lọi”. Đồng thời một số các trang Web khác, điển hình đã phổ biến những bài viết, những sách, những phát biểu của đặc công CSVN…. Chún bổ xung cho chủ trương chạy tội bán nước giết dân của đại việt-gian HCM.

Còn một điều nữa, chúng ta cũng biết rằng trong nội dung của cái gọi là chính sách ngoại giao văn hóa, giống hệt như trọng tâm của việc thực hiện nghị quyết 36 của CSVN, chúng đang nhắm vào tầng lớp thanh thiếu niên, hậu duệ của những người Việt tỵ nạn CS, trong đó có việc nhúng tay vào tổ chức học tiếng Việt, xây dựng các thư viện, cung cấp sách báo từ trong nước với nội dung tuyên truyền có lợi cho tập đoàn CSVN, nhằm nhuộm đỏ đầu óc non trẻ của thế hệ hậu duệ người Việt tỵ nạn CS chưa có kinh nghiệm hiểu biết về CSVN, cũng như những tội ác của bọn CSVN đã và đang gây ra cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Chúng cũng khuyến khích việc đầu tư tiền của vào các cơ quan truyền thông. Tên việt-gian Nguyễn Tấn Dũng đã ký công văn ngày 8 Jan 2009, cho phép cái gọi là “đài tiếng nói VN và đài truyền hình VN” được thành lập cơ quan thường trú tại Mỹ.

Chúng ta có thể nên thêm vào nội dung sinh hoạt của các room PalTalk, hệ thống các Diễn Đàn, các trang Web diện tử và truyền thanh, cũng như tha thiết kêu gọi những ngòi bút gốc quân cán chính QLVNCH hãy đóng góp những bài viết về hai đề tài dưới đây cho các thảo luận qua những phương tiện truyền thông, thông tin nói trên:

1.- Tội ác của CSVN đối với bản thân, với gia đình mình, với Tổ Quốc Việt Nam, hoặc đối với bất kể người dân Việt Nam nào khác, do là nạn nhận trực tiếp, hay trực tiếp chứng kiến hay nghe kể lại.

2- Hãy viết về những chiến công của VNCH và chính quyền VNCH trong các lĩnh vực xây dựng kinh tế, tổ chức, xã hội, giáo dục đào tạo, xây dựng quốc phòng …. ,chống xâm lược Nga sô, Tàu cộng và bè lũ tay sai CSVN, vinh danh những oai hùng và hy sinh của những chiến sĩ VNCH, hay bằng những truyện ký, hồi ký, để cho mọi lứa tuổi dễ đọc và nhận thức được tính chất chính nghĩa và tinh thần anh dũng yêu nước của quân dân VNCH. Chúng ta viết theo hình thức kể chuyện hơn là đi vào cách chuyên môn, giúp cho mọi tầng lớp, mọi trình độ hiểu được dễ dàng.

Cuối cùng một việc cũng rất là quan trọng nhằm chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của bộ máy tuyên truyền của tập đoàn CSVN và các đảng phái có xu hướng Maxit trên toàn thế giới đã đổi trắng thay đen các sự kiện lịch sử đương đại của dân tộc Việt Nam, chúng ta mong rằng những học giả, những sử gia, những dịch giả hãy xử dụng được thành thạo ngoại ngữ của mình vào việc phiên dịch, phỏng dịch, phóng tác bằng ngôn ngữ nước mình cư trú những tài liệu, chuyện ký, hồi ký có tác dụng vạch mặt bản chất việt-gian bán nước, giết dân của tập đoàn CSVN từ HCM cho đến nay, nhằm giải độc những huyền thoại do chúng ngụy tạo ra. Đấy chính là phản ứng hữu hiệu nhất vào chủ trương ngoại giao văn hóa, biện pháp xung kích bẽ gẫy cái nghị quyết 36 của CSVN. Lúc này, chúng ta cũng cần thực hiện cái gọi là ngoại giao văn hóa mà đối tượng là CĐ người Việt ở hải ngoại, gồm cả hậu duệ của chúng ta cũng như các thành phần khác kể cả nhân dân nơi chúng ta cư trú, để từ đó họ lại biến thành chủ thể chính sách ngoại giao văn hóa vào nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước, vào nhân dân thế giới, vào các chính phủ của họ.

Nếu tất cả chúng ta đồng loạt cùng một hướng thực hiện những điều nêu trên, thì chắc chắn chúng ta sẽ phá vỡ được kế hoạch ngoại giao văn hóa của CSVN. Đây là một kế hoạch gian manh để lũ CSCN thực thi nghị quyết 36 trong giai đoạn cuối, nhằm biến cộng đồng người Việt tỵ nạn CS thành tài sản của bọn CSVN trong nước.


Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

søndag 4. januar 2009

Hào Quang Ảo Chiến Thắng “Ðánh Tây, Ðuổi Mỹ Của CSVN

Hào Quang Ảo Chiến Thắng “Ðánh Tây, Ðuổi Mỹ Của CSVN.

Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng “đánh Tây, đuổi Mỹ” cho dù che đậy đằng sau mặt tiền hào nhoáng của các quan tham CSVN, người dân vẫn cơ cực trong cảnh sống bùn lầy nước đọng, lục lọi từng mẫu bùn kiếm ăn, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sài Gòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sài Gòn và các khu phố sầm uất nhứt, vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng Sản, từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong, cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 1975 như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài, Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc, Phạm thị Trước. Hiện nay, một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại, nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán dồ nhập cảng v. v. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sài Gòn thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn). Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra). Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ, dĩ nhiên vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc. Cán bộ, công nhân viên trọng yếu cũng đều là người Bắc trừ một số cán bộ gốc miền Nam tập kết theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc.

Những đống rác là nguồn sống cho bao người dân đói rách Sàigòn thành đến quận lỵ, thị trấn, làng xã đều do đảng viên người miền Bắc XHCN nắm giữ. Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 6000 xe hơi đủ loại, chủ nhân cũng là người Bắc XHCN. Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất - cũng do người miền Bắc XHCN nắm giữ.

Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấy, còn những vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản, cải tạo công thuơng nghiệp nhà cửa của tù cãi tạo, của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những lượng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức tài sản những người thuộc diện tư sản toàn bộ tài sản nầy từ Sai Gòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam được đem đi đâu ?

Thông thường những của cãi nầy phải được sung vào công quỷ để làm việc công
ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẻ. Thế nhưng sự thật trước nhứt là các ông đem chia chác nhau. Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN. Ông lớn lấy tài sản lớn, Ông nhỏ nhà cửa nhỏm có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết… đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy, vì lo sợ cái gì đó bèn đem “ bán non” những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một viên chức tù cãi tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu không ngoại lệ. Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại là những biện pháp vá víu.

Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá đều bị “giải phóng” ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xả tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi), đổi tiền để vô sản hoá người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ, để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê… Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào “mua” nhà Sai Gòn với giá gần như cho không… và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Sai Gòn.

Mang xe tăng T. 54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên “xẻ dọc Trường Sơn” bằng máu, nước mắt và xác chết… vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là “giải phóng” nhân dân miền Nam, nhưng sự thật khó chối cãi được là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Sai gòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau, để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi, những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la, con cái du học ngoại quốc. (Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn Tấn Dũng đang du học Mỷ là trường hợp điển hình).

Đến thời “mở cửa” cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá, xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn, no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây cất xong đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diển hình: Một bệnh viện gần chợ “cua” Long Hồ quê hương của Phạm Hùng nước vôi còn chưa ráo đã muốn sụp.

Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê nhứt là miền Nam ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức, nghèo thì nghèo cùng cực. Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 33 năm dưới chế độ cộng sản.

Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại muốn phát triển công nghiệp nhà cầm quyền địa phương theo lệnh Đảng mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược. Lòng dân phẩn uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời xanh ! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàigòn). Như vậy có gọi là phát triển không ?

Sau 32 năm nhìn lại: Người ta thấy miền Bắc đã “giải phóng” dân Sài gòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ. Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau. “Giải phóng” miền đồng bào ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ. “Giải phóng” quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển… “ Giải phóng” phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm “vợ nô lệ”, đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan.

Sau 32 năm nhìn lại: Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour. Chỉ trong năm có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc.

Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc, Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu.

Phó Thường Dân

Đảng Độc Tài - Nhà Nước Khủng Bố

Đảng Độc Tài - Nhà Nước Khủng Bố.

Cách hành xử của nhà nước khủng bố hay của tân thành viên Hội Đồng Bảo An không thường trực xưa nay vẫn thế, được sự chỉ đạo của đảng CSVN, luôn luôn phối kết hợp với nhau để hành xử với như vậy đối với các nhà bất đồng chính kiến.

Trước hết là đảng độc tài:

Đảng bảo trắng là phải trắng, đen thì kiểu gì cái màu đó trắng đến mấy cũng phải đen. Đảng bảo gì thì phải nghe thế ấy, đảng bảo nó là “phản động”, thì kiểu gì nó tốt, nó đứng đắn đến mấy, đảng bảo thằng ấy chính cống là “phản động”.Y như rằng dưới con mắt của mọi người. Từ nhà nước cho tới công an báo chí đều đồng loạt coi kẻ đó là phản động, đảng bảo khủng bố nó, vần nó, đánh cho nó chừa thói “phản động” đánh cho nó để đứa khác nhìn thấy sẽ phát hoảng lên, sợ không dám làm “phản động” nữa thì thôi, đó là quyền lực của bọn vô nhân CSVN.

Từ xưa đến nay, bất kỳ vấn đề gì, tất cả mọi quyền hành đều do một tay đảng chỉ đạo, mọi chủ trương đường lối đều do đảng. Cái Đảng độc tài chủ mưu ra lệnh, nhưng được cái đảng ta rất chi là hèn hạ, không bao giờ đảng dám ra mặt nhận bất kỳ cái “mắm thối” về mình. Đảng toàn mượn tay “nhà nước của nhân dân” để nhà nước chấp hành mệnh lệnh của đảng, lên kế hoạch ra lệnh cho bộ máy công cụ đàn áp khủng bố bọn “phản đông” cứng đầu.

Vậy thế nào là nhà nước khủng bố:

Trước hết chúng ta hãy xem thế giới người ta định nghĩa về khủng bố như thế nào:
Cá nhân, tổ chức có hành vi dùng quyền lực, vũ lực, vũ khí và các phương tiện khác đe dọa tính mạng, sức khỏe, tinh thần người khác thì hành vi đó được xác định là khủng bố.
Căn cứ vào khái niệm trên ta có thể khẳng định nhà nước CHXHCN Việt Cộng là nhà nước khủng bố. Vì đã có hành vi dùng quyền lực và vũ lực cũng như các phương tiện khác (công an, báo chí, truyền thông) để đe dọa tính mạng. sức khỏe cũng như tinh thần một số các nhà bất đồng chính kiến.
Tuy nằm dưới sự chỉ đạo của đảng độc tài, nhà nước là tổ chức hợp hiến có tư cách pháp nhân phải chịu trách nhiệm trước mọi hành vi của các tổ chức nằm trong hệ thống nhà nước. Bởi vậy những hành vi khủng bố nêu trên thì nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Cộng phải chịu trách nhiệm và bị lên án như một tổ chức khủng bố cấp nhà nước.

Tất cả các chứng cứ buộc tội đã thể hiện bằng những cuộc theo dõi trấn áp, khống chế của phương tiện chức năng là công an, liên tục dùng quyền lực tìm cách theo dõi, khống chế, phong tỏa cuộc sống sinh hoạt hành ngày của các nhà bất đồng chính kiến trong suốt thời gian họ tham gia hoạt động dân chủ. Cụ thể là Linh Mục Nguyễn Văn Lý và nhiều người khác.
Ðảng CSVN dùng vũ lực hoặc các phương tiện khác để đe dọa tính mạng và sức khỏe của các nhà bất đồng chính kiến, họ đã trắng trợn cho Lực Lượng công an, cố ý tấn công gây thương tích hành động khủng bố hết sức dã man.
Ðảng CSVN dùng phương tiện khác như báo chí để vu khống, bôi nhọ danh dự, nhằm khủng bố tinh thần các nhà bất đồng chính kiến, rất nhiều nhà bất đồng chính kiến đã là nạn nhân của hình thức khủng bố này.

Công cụ công an với bản chất côn đồ:

Đảng độc tài CSVN dùng công ab trị làm công cụ đắc lực trong việc trấn áp các phần tử tích cực đấu tranh dân chủ. Được nhà nước khủng bố giao nhiệm vụ trực tiếp thực hiện các hành vi khủng bố. Với những “đặc quyền” trong việc trấn áp các nhà bất đồng chính kiến. Với lực lượng trấn áp đông đảo, được trang bị những phương tiện tối tân, công cụ an ninh mật vụ đã thể hiện bản chất của một công cụ đắc lực, tráo trở, gian manh và rất côn đồ.

Họ không từ thủ đoạn nào, hành vi nào để đạt được mục đích, từ việc ngày đêm cắt cử người túc trực theo dõi, nghe trộm nghe lén, cho đến việc dùng thủ đoạn để gây thương tích, bằng nhiều hình thức sử dụng vũ lực để đàn áp, đánh đập gây thương tích cho các nhà bất đồng chính kiến. Công an kết hợp với xã hội đen tấn công hành hung những người đấu tranh đòi công lý và sự thật, đã được các hãng thông tấn tin cậy như BBC, RFA đưa tin, phỏng vấn, là bằng chứng không thể chối cãi.

Ðây có phải là hành động côn đồ của cái đảng độc quyền cai trị đất nước hay không, những ai là yêu đất nước dân tộc hãy cùng đứng lên để tranh đấu giải thể chế độ phi nhân ác ôn này, cũng là khát vọng của toàn dân Việt.

Việc họ sử dụng hỗ trợ bọn côn đồ xã hội đen tấn công các nhà bất đồng chính kiến, là một bằng chứng cho thấy họ là một nhà nước khủng bố có tính chất côn đồ, có lẽ đây là trường hợp điển hình hiếm thấy trên thế giới (chưa có một nhà nước nào dùng xã hội đen vào việc chính trị).

Báo chí vỗ tay:

Bao giờ cũng vậy, sau những đợt trấn áp bằng quyền lực, vũ lực là đến lượt báo chí và các phương tiện thông tin một chiều, tấn công các nhà bất dồng chính kiến trên báo đài truyền hình vv...tìm cách vu khống, bôi xấu nhằm khủng bố tinh thần họ.
Không biết những hành động côn đồ dã man vừa qua của họ đối, báo chí, thông tin có dám phản ảnh.

Tất cả những hành động đàn áp diễn ra từ đầu năm 2007 là rất trắng trợn, thô bạo của nhà nước CHXHCN Việt Cộng đối với công dân, đã cho thấy bộ mặt thật của họ, điển hình cho hành vi trên là hình ảnh Linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng và vụ tấn công có tính chất côn đồ nhà dân chủ, cho thấy một Việt Nam hôm nay.. và vừa hôm qua họ được bầu vào thành viên không chính thức của hội đồng bào an không thường trực, chưa nóng chỗ ngồi, họ đã trắng trợn đàn áp, đánh đập người vô tội.

Vậy tại sao họ lại có hành động “dại dột” như vậy! Khi mà đang cần có vị thế mới, một hình ảnh mới của một tân thành viên hội đồng bảo an trên trường quốc tế??? Phải chăng đây là liều thuốc thử của tân thành viên Việt Nam, xem có sự phản ứng nào về phía họ không ?

Chắc chẳng có vấn đề gì xảy ra, bởi cái ấy “bé tí” so với cái thế giới vốn đã không mấy yên bình này. Với lại cũng như khi Hoa Kỳ rút tên độc tài ra khỏi CPC, thì ngay lập tức ông đã gửi tặng ông Bush món quà “ba tù nhân lương tâm” và nay cũng theo thông lệ, họ cố tình tạo ra thành tích khủng bố gây thương tích cho nhà dân, làm món quà kỷ niệm ông Ban-Ky-mooun, tổng thư ký nhân ngày Việt Nam được bầu là thành viên không thường trực.

Những hành động nhờn mặt như vậy, làm mọi người phải đặt ra câu hỏi, phải chăng cái tổ chức Liên Hiệp Quôố (LHQ) này có một tý chút quyền uy đối với các thành viên nào không. Hay chỉ là tổ chức tượng trưng, chỉ là một tổ chức có tính ngoại giao!!!. Ngay cả đến cái tổ chức gọi là hội đồng bảo an cơ quan gọi là quyền lực cao nhất của LHQ, cũng làm người ta nghi ngờ cái uy quyền và vai trò của nó ? Nếu không thì tại sao Việt Nam lại coi thường đến vậy ?

Xét lại trong quá khứ kể từ khi thành lập năm 1946 đến nay, tổ chức này chưa bao giờ được ghi nhận có quyền lực thật sự. Hay giải quyết các vụ việc có liên quan đến con người đặc biệt là quyền con người, cũng chỉ mang tính chất hòa giải “vĩ hòa di quý” hoặc tìm giải pháp hoà bình, để lâu rồi “phân trâu hóa bùn” bức xúc là vậy, nhưng mọi chuyện rồi sẽ êm xuôi, không giải quyết vấn đề một cách triệt để tận gốc rễ, cho thấy thực chất cái tổ chức lớn nhất hành tinh này lại chẳng có mấy quyền lực. Nó có uy tín hay không còn nhờ những cố gắng nỗ lực của những cá nhân trên cương vị tổng thư ký mà thôi !

Sự kiện Miến Điện vừa qua cũng vậy, một đặc phái viên của tổng thư ký LHQ đã đi thị sát và dàn xếp tình hình, trước sự kiện việc đã rồi và đến nay mọi việc đâu vào đấy, máu người dân đã chảy, hàng nghìn người vẫn bị giam cầm, tra tấn và nhà cầm quyền quân sự độc tài vẫn nhởn nhơ... Thế giới chỉ nhận được sự phản ứng yếu ớt của một số nước châu âu, hội đồng châu âu và lời đe dọa Hoa Kỳ...Còn LHQ không thấy động tĩnh.

Bởi vậy tân thành viên Việt Cộng một mặt tâng bốc vị thế của mình khi được bầu vào thành viên hội đồng bảo an, một mặt chẳng coi cái tổ chức này ra gì, lên vẫn ngang nhiên hành xử có tính khủng bố công dân nước mình.

Nhưng có một thực tế mà nếu so sánh, ai cũng lấy làm thắc mắc. Tại sao một số các quốc gia khác vi phạm quyền con người, dính một tý hành vi bạo ngược với tù nhân, hay có hành vi bạo hành, thì bị lôi ra lên án, hết báo chí truyền thông, đến các tổ chức quốc tế ra tuyên bố, tẩy chay vv...ngay tại diễn đàn LHQ

Vậy mà với Việt Nam, việc vi phạm xảy ra thường ngày như “ở huyện”. Một điều mọi người lưu ý là những nhà dân chủ Việt Nam dù sao cũng được thế giới biết đến để bảo vệ, còn những nạn nhân của nhà nước Việt Cộng là dân thường bị lực lượng công an tra tấn đánh đập, bức tử thì không sao kể xiết. Những vụ việc này ít nhiều đã có những tiếng kêu cứu từ nơi dân chúng, từ những nhà bất đồng chính kiến kêu cứu, nhưng đều nhận được sự im lặng, thờ ơ đáng sợ.

Phải chăng giá trị của một công dân Việt Nam không bằng giá trị của các công dân nước khác ? Hay tiếng kêu cứu của họ quá yếu ớt, không thấu tới ngôi cao chí cả LHQ.

Vậy thì tiêu chuẩn nào để xét và bầu chọn một quốc gia thành viên có thành tích khủng bố, vi phạm nhân quyền. Làm thành viên của hội đồng bảo an không chính thức ? Hay đây chỉ là hình thức ngoại giao chiếu lệ !

Mục đích của tổ chức LHQ là yếu tố con người ! Vậy mà có những kẻ đang tâm chà đạp lên giá trị sơ đẳng về quyền con người, vẫn được cái tổ chức vì quyền con ngừoi châm chước bỏ qua, chấp nhận bầu vào thành viên không thường trực của hội đồng bảo an, thì không hiểu cái mục đích “Vì quyền con người” ấy có còn được tôn vinh, được giương cao làm khẩu hiệu chính trước tiền sảnh của đại hội đồng LHQ có còn ý nghĩa hay chỉ là sự giả tạo phù phiếm.

Nhân dân Việt Nam mong rằng tổ chức LHQ và ông tổng thư ký Ban-Ky-Moun, sẽ không thể làm ngơ cho những hành động tương tự như nhà nước độc tài Việt Cộng, một thành viên mới của hội đồng bảo an đã đối xử có tính chất khủng bố với công dân nước mình. Như tấm gương của người tiền nhiệm đã giúp đỡ nhân dân Việt Nam trước kia.

Bgười Hà Nội

Tiền Bạc Tham Nhũng Phi Pháp Của Ðảng Viên CSVN

Tiền Bạc Tham Nhũng Phi Pháp Của Ðảng Viên CSVN.

Vì nhu cầu hợp pháp hóa tiền bạc tham nhũng phi pháp của đảng viên CSVN, và đáp ứng với đòi hỏi của Kinh Tế Thị Trường trong thời mở cửa là phải công nhận thành phần Kinh Tế Tư Doanh. Nên chế độ Việt Cộng Xã Hội Chủ Nghĩa đã cho đảng viên của mình “Làm Kinh Tế”. Cổ phần hóa các công ty quốc doanh, tạo điều kiện cho bọn đảng viên kinh tài Việt Cộng thành “Tư Bản Đỏ”, dùng đất đai của toàn dân làm cổ phần để liên doanh với Tư Bản Ngoại Quốc, nuôi tham vọng biến Cộng đảng thành thứ công ty tư bản tài phiệt man rợ cực quyền toàn trị. Do đó Việt Cộng đã mặc nhiên không để cho dân làm chủ tài sản kinh doanh riêng của mình. Về mặt đất đai thì hoàn toàn nằm trong tay nhà nước quản lý, không cho người dân có quyền tư hữu. Chính vì vậy mà những kẻ có quyền, có thế tha hồ nhân danh luật lệ công hữu ruộng đất của nhà nước để chiếm đoạt ruộng cày của nông dân, ao vườn của dân lành, tịch thu điền sản của các tôn giáo, tạo ra cảnh dân oan, giáo oan khắp nước.

Khác với các tôn giáo dân lập, như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Miền Nam Tự Do, bị Việt Cộng đặt ngoài vòng pháp luật, đã thực hiện ngay cuộc đấu tranh bất bạo động đòi Tự Do Tôn Giáo, còn Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vốn có mặt tại Miền Bắc Cộng Sản, vì Cộng Sản vẫn để cho Giáo Hội trực thuộc trong hệ thống Kitô Giáo Vatican, nên khi Việt Cộng cướp được Miền Nam, các Giám Mục Miền Nam đương nhiên phải thống hợp với các Giám Mục Miền Bắc để trở thành Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, với âm mưa chia rẽ tôn giáo chúng lập ra các Giáo Hội Quốc Doanh nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc do Cộng Đảng lãnh đạo. Chính vì vậy mà Giáo Hội Công Giáo Việt Nam bị thất thế trong việc tranh đòi tự do tôn giáo cho Việtnam. Nhưng Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt của Hà Nội cũng đã tìm ra đối sách để tự khẳng định vị thế của giáo hội mình trong cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Qua việc phát động tu sĩ, giáo dân đòi lại Tòa Khâm Sứ, vốn thuộc chủ quyền hợp pháp của Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội đã bị nhà nước Việt Cộng tịch thu từ khi họ trục xuất Khâm Sứ Tòa Thánh khỏi Hà Nội.

Việc đòi tài sản của giáo phận Hà Nội được diễn ra từ ngày 18-12-2007 lan xuống Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, qua Hà Đông, vào Quảng Trị, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn xuống Vĩnh Long, làm thành phong trào lớn rộng khắp nước. Nếu Việtcộng trả một nơi thì phài trả khắp nơi, trả cho Công Giáo thì phải trả cho các tôn giáo khác. Thế nên Việt Cộng đã phải nhờ tới sự can thiệp của Hồng Y Tarcisio Bertone, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Tòa Thánh mới tạm yên. Nhưng Việt Cộng vốn không giữ lời hứa để giải quyết êm thấm vấn đề Tòa Khâm Sứ. Nên ngày 15-08-2008, tu sĩ, giáo dân Thái Hà lại tập trung tại khu đất bị tịch thu để cầu nguyện, hát thánh ca đòi Công Lý và Sự Thật. Lần này không riêng tu sĩ, giáo dân Thái Hà và Hà Nội, mà hầu hết các Giám Mục, Tu Sĩ và Giáo Dân của những Giáo Phận Miền Bắc cùng đổ về Thái Hà để bày tỏ thái độ quyết liệt, sẵn sàng vào tù và tử vì đạo để đòi hỏi công lý và nói lên sự thật. Mặc dù Việt cộng đã sử dụng tới ngón đòn đê tiện là thuê bọn lưu manh, du đãng hành hung, nhục mạ các tu sĩ và giáo dân đang chuyên tâm cầu nguyện, trước sự canh chừng của công an.

Đáng tiếc là HĐGMVN đang phải trực diện với những kẻ phi văn hóa, vô đạo đức, bất cố liêm sỉ, họ chỉ biết bảo vệ quyền lợi, địa vị của họ bằng bạo lực trấn áp, chứ không nghĩ tới tình tương thân, tương ái đồng bào, thể thống quốc gia, danh dự dân tộc. Bởi vậy họ không từ một thủ đoạn thâm độc, bần tiện nào mà không đem ra áp dụng đối với những người đòi hỏi Công Lý và Sự Thật, như Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, các tu sĩ, giáo dân và ngay cả Hội Đồng Giám Mục của quý Ngài, Cũng như đã từng đối phó với Hòa Thượng Thích Quảng Độ, các vị lãnh đạo trong Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, các Tôn Giáo Dân Lập và những người đấu tranh cho Dân Chủ hiện nay.

Nhưng một sự thật hiển nhiên là những người càng bị Việt Cộng đánh phá, trù dập nhiều bao nhiêu, thì uy tín trong quốc dân, ngoài quốc tế càng được tôn quý bấy nhiêu. Vui mừng và hy vọng, qua Quan Điểm của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đây hẳn là sự nhập cuộc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong, ngoài nước, tương tác với các tôn giáo bạn và toàn dân trong cuộc đấu tranh đem Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền cho Việt Nam.

Công Lý

CSVN Tham Nhũng Những Công Trình Viện Trợ

Tham Nhũng Của Tập Ðoàn CSVN.

Cộng Sản Việt Nam (CSVN) hôm nay nhận lấy hậu quả của một tập đoàn tham nhũng, sau khi chính phủ Nhật Bản xử vụ án 4 người Nhật “đút lót” cho tập đoàn tham nhũng CSVN để được trúng thầu xây xa lộ Đông-Tây ở Sàigon, đã khai báo trước toà án Tokyo, nhận tội đã hối lộ cho tập đoàn tham nhũng CSVN 2.6 triệu USĐ - tại sao lại gọi là tập đoàn tham nhũng? vì ăn chận các dự án ngoại quốc viện trợ và đầu tư là CSVN ăn theo cả hệ thống chứ không phải một cá nhân tham nhũng.

Thế nhưng tên Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng CSVN lại nói “tới đâu thì xử lý đến đó”. Kiểu nói như vậy không lẻ những nước bỏ tiền tỷ viện trợ họ không biết sao ? Đó là kiểu nói cù nhưa để ĩm đi vụ án, để rồi cứ thế mà tiếp tục tham nhũng của những công trình viện trợ từ ODA, IMF, World Bank, viện trợ Xóa Đói Giảm Nghèo, viện trợ nhân đạo chửa bệnh AIDs siđa, viện trợ giáo dục...tất cả đó đều bị tập đoàn tham nhũng đục khoét đến tận xương tủy.

Official Development Assistant gọi tắt là ODA, là một chương trình tài trợ của Nhật Bản cung cấp tài chánh, giúp đỡ kỷ thuật để nâng cao đời sống và kinh tế các nước chậm phát triển mà nguồn tài chánh chính là từ chính phủ Nhật Bản.

ODA là nguồn tài trợ lớn nhất giúp cho Việt Nam trong gần bao nhiêu năm qua, năm 2007 ODA cho Việt Nam viện trợ 1.1 tỉ USĐ, dự tính năm 2009 viện trợ 1.3 tỉ nhưng nay dừng lại. Những vụ tham nhũng ghê rợn, trắng trợn là của viện trợ ODA như PMU18, PCI..., đã táo bạo rút ruột công trình.... phải chi có một chính phủ trong sạch, biết lo cho dân, xử dụng chính xác số viện trợ của thế giới thì người dân Việt Nam được nhờ bao nhiêu mà kể, từ đó làm bàn đạp để tiến lên với năm châu bốn bể, nhưng dưới chế độ độc tài, thối nát, tham nhũng này thì dù các nước tư bản có bỏ tiền vào bao nhiêu cũng như muối bỏ biển....

Đến lúc, thế giới “lột mặt nạ” tham những của CSVN, đài phát thanh Radio Free Asia (RFA), và một số đài quốc tế khác đã đưa tin. “Chính phủ Nhật Bản đã quyết định ngừng các dự án ODA ưu đãi cho Việt Nam, chờ kết luận điều tra vụ hối lộ tham nhũng PCI. Tin tức loan đi từ Hội Nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam diễn ra trong hai ngày 4 và 5 tháng 12 vừa qua tại Hà Nội, cho biết vụ tham nhũng liên quan dự án xây dựng Đại lộ Đông-Tây thành Sài Gòn là nguyên nhân khiến Nhật Bản đưa ra quyết định ngừng các dự án ODA ưu đãi cho Việt Nam.

Bên lề hội nghị tư vấn các nhà tài trợ, đại sứ Nhật tại Việt Nam là ông Mitsuo Sakaba cho báo chí biết, chánh phủ Tokyo quyết định tạm ngừng cấp các dự án ODA dành cho Việt Nam, đến khi có kết luận của ủy ban điều tra chung Việt-Nhật về vụ việc Công ty Tư vấn Thái Bình Dương của Nhật, gọi tắt là PCI, khai đã hối lộ các quan chức ở Việt Nam để có thể thắng thầu.

Đại sứ Mitsuo Sakaba tuyên bố rằng, ông không tin nổi vụ tham nhũng, hối lộ có thể xảy ra tại một dự án lớn như thế”. Đài phát thanh Nhật Bản nói tiếng Việt trong ngày 4-12-2008 phỏng vấn ông Sakata Soyo đã nói rõ việc ngưng viện trợ ODA là vì CSVN tham nhũng.

Trong nước ai cũng biết, CSVN là một đám bất tài không có đủ khả năng lo cho dân, mà còn ăn cắp của viện trợ của nước ngoài thì quả thật và một điều vô nhân đạo và sĩ nhục quốc thể. Người dân chỉ có nước than oán. Tên Bùi Kiến Thành, chuyên gia kinh tế hiện đang làm việc tại Hà Nội có ý kiến: Rất tiếc là nhà nước Việt Nam không ngăn chặn nổi nạn tham nhũng và để chuyện bê bối này xảy ra. Hậu quả là Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng những công trình do Nhật tài trợ.

Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam, ông Mitsuo Sakaba, cũng cho biết thêm là chánh phủ Tokyo đối với các khoản ODA ưu đãi, Nhật Bản cần phải làm sáng tỏ tình hình một cách rõ ràng.

Tin Tổng Hợp