Trước tình thế Việt Nam hiện nay: ngoại giao thì lệ thuộc Trung cộng, bị nước này khống chế, quốc nội, thì kinh tế đang khủng hoảng, thua kém tất cả những nước trong vùng, giáo dục xuống cấp, đạo lý băng hoại, con người không còn là con người, bị nhiễm lý thuyết Mác Lê, đấu tranh giai cấp, cấu xé lẫn nhau, có người cho rằng Việt Nam hiện nay cần phải có một cuộc cách mạng mang 3 ý nghĩa:
1) Độc lập cứu quốc.
2) Nhân chủ, triết lý, đạo đức cứu con người Việt Nam, lấy cái tâm làm chính.
3) Dân chủ kiến quốc.
Trong những bài trước, tôi đã viết nhiều về cách mạng độc lập cứu quốc và dân chủ kiến quốc, ở bài này, tôi xin nói nhiều đến cách mạng nhân chủ lấy con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng làm chính.
Cách mạng là một cuộc thay đổi rộng lớn, trên bình diện chính trị xã hội, nó nhằm thay đổi 3 cơ chế chính của một xã hội:
1) Thay đổi hệ thống pháp luật, bắt đầu bằng luật lệ căn bản, đó là thay đổi hiến pháp;
2) Nhằm thay đổi giai tầng lãnh đạo;
3) Nhằm thay đổi trật tự xã hội hiện tại.
Một câu hỏi đến với chúng ta là: Tại sao Việt Nam hiện nay lại cần một cuộc cách mạng.
1) Việt nam hiện nay cần một cuộc cách mạng, vì: Hiến pháp hiện hành Việt nam từ năm 1992 là một hiến pháp đi ngược lại đà tiến bộ của nhân loại, nó chủ trương độc khuynh, độc đảng, độc tài, trong khi nhân loại bước vào thế giới dân chủ, tôn trọng nhân quyền.
2) Giới lãnh đạo Việt Nam từ ngày Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản cướp chính quyền vào ngày 19/8/1945 tới nay là một giới lãnh đạo buôn dân, bán nước. Ngày xưa ông Hồ và Phạm Văn Đồng đã ký công hàm dâng cho Tàu 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; ngày nay con cháu như Lê Khả Phiêu ký 2 Hiệp ước vào năm 1999 và 2000, dâng cho Trung cộng cả ngàn cây số vuông vùng biên giới trong đó có Ải Nam Quan và thác Bản Giốc, cùng cả chục ngàn cây số vuông vùng biển.
Phải thay đổi giai tầng lãnh đạo chỉ nghĩ đến cá nhân, đảng đoàn thay vì nghĩ đến quốc gia dân tộc.
3) Phải thay đổi trật tự hiện thời vì trật tự này quá bất công: Con cháu đảng đoàn, cán bộ, từ trên xuống dưới đều hà hiếp dân, tham nhũng, hối lộ, tiêu tiền vứt qua cửa sổ; trong khi dân không có một đồng để sống.
II) Cách mạng nhân bản, cứu con người Việt Nam thoát khỏi bàn tay cai trị của con người cộng sản ma quái:
Việt Nam hiện nay cần một cuộc cách mạng nhân chủ, đạo đức, nói theo nhà tư tưởng chính trị Việt Nam Lý Đông A. Đó là trở về những giá trị tinh thần, nhân bản, dân tộc, từ bỏ quan niệm duy vật hiểu ở nghĩa thấp hèn nhất của nó, có nghĩa là làm bất cứ việc gì để thành công, làm bất cứ điều gì ngay cả giết người, phi đạo đức nhân bản, để có tiền, để hưởng thụ.
Con người Việt phải cần trở về chính mình với tinh thần nhân đạo của Gia huấn ca: “Thương người như thể thương thân”, phải trở về nền tảng của nó là gia đình, tôn giáo và quốc gia, trái lại với quan niệm cộng sản là vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc.
Người Việt phải lấy câu: “Tiên học lễ, hậu học văn” làm đầu, lễ đây là lễ phép, nhân bản, hợp với con người, hợp với lẽ phải, chứ không phải lễ theo kiểu cộng sản, đó dưới phải hối lộ trên, dân phải hối lộ cán bộ; phải ghi nhớ câu của Nguyễn Du: “Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần”, hay ” Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Chế độ cộng sản đã sụp đổ ở Liên sô, Đông Âu và đang băng hoại, mục nát ở Trung Cộng và Việt Nam:
Về nguyên do chế độ cộng sản Liên sô sụp đổ, có rất nhiều nguyên do, người thì cho rằng tại ông Gorbachev, người bảo tại dầu hỏa.
1. Có người đổ lỗi cho Gorbachev. Thực ra ông Gorbachev chỉ muốn cải tổ chế độ, nhưng vì chế độ dựa trên một nền tảng triết học, đạo đức sai lầm, vì vậy căn nhà cộng sản đã bị đổ nát. Ông Gorbachev đụng vào cái cột nào định sửa đổi, đều bị lún xâu, gây ra đổ nát cột kèo và cả mái ngói.
2. Cũng có người nghĩ rằng chế độ cộng sản Liên sô sụp đổ là vì dầu hỏa, không ai hơn là ông Gaida, đã từng làm Bộ trưởng Kinh tế và Thủ tướng dưới thời ông Boris Eltsine.
Theo ông, suốt trong thập niêm 80, giá dầu hỏa bị xuống thấp, nguồn thu nhập của Liên sô cũng vậy, vì tổng sản lượng của nước này phần lớn lệ thuộc vào xuất cảng dầu hỏa và khí đốt. Chính vì vậy mà ngân sách bị thiếu hụt, không thể chạy đua vũ trang, không còn là ông chủ thầu mua những chiếc tàu do Ba lan sản xuất, những chiếc xe tăng do Đông Đức làm ra và những súng AK47 do Tiệp Khắc chế tạo.
Nguồn thâu nhập giảm, khiến khó khăn kinh tế ngay ở tại Liên sô, sau đó lan sang các nước Đông Âu, hãng đóng tàu ở Gdansk, Ba Lan, mà anh thợ điện Lec Waleza, đã hướng dẫn thợ thuyền đình công, là một bằng chứng điển hình.
Nền tảng căn bản đầu tiên để xây dựng lên xã hội con người là quan niệm triết học và đạo đức: tôn trọng sự thật, tôn trọng sự tự nhiên, bình thường, tôn trọng những nguyên tắc đạo đức căn bản, có tính chất toàn cầu và có giá trị muôn thuở, nói lên sự tương quan tự nhiên, bình thường giữa con người và con người.
Tất nhiên cũng có những nguyên tắc đạo đức cần phải thay đổi với thơi gian. Và từ nền tảng đó mới đi tới cơ cấu chính trị, luật pháp và kinh tế.
Với cái nhìn như vậy, thì chúng ta thấy xã hội cộng sản dựa trên nền tảng căn bản là lý thuyết Mác Lê, đã là nền tảng sai trái, phản tự nhiên, phản bình thường và từ đó phản con người, ngay từ lúc đầu.
Bởi lẽ đó, có người cho rằng lý do chính để đưa đến xã hội cộng sản sụp đổ là lý thuyết Mác Lê.
Thật vậy, lý thuyết của Marx đã lấy cái gì bất bình thường làm cái bình thường, cộng thêm với sự không tưởng, người ta nghĩ rằng là khoa học, nhưng chẳng có gì là khoa học, và còn tệ hơn nữa là đi theo một lời tiên tri.
Bình thường con người cũng như một quốc gia dân tộc sống hòa bình, chỉ khi nào bất đắc dĩ, con người và quốc gia dân tộc đó mới dùng đến bạo lực. Đằng này Marx cho rằng bản chất của con người là bạo động, lịch sử của nhân loại là lịch sử của đấu tranh giai cấp, như ông mở đầu bản Tuyên Ngôn thư Đảng Cộng sản. Đây là ông đã lấy cái bất bình thường làm cái bình thường. Quan niệm đấu tranh giai cấp của ông là một lời kêu gọi nội chiến triền miên, làm cho con người xem con người như hàng dã thú, lúc nào cũng tìm cách xâu xé lẫn nhau, sẵn sàng giết nhau vì quyền, vì lợi.
Lịch sử những chế độ cộng sản đã qua và đang diễn ra ở Việt nam và Trung cộng cho ta thấy rõ điều này.
Lénine bị Staline giết như lời tố cáo của vợ Lénine. Staline bị Khrouschev, Béria giết, qua lời tố cáo của con trai Staline. Mao giết Lưu thiếu Kỳ, Lâm Bưu, rồi sau đó, khi Mao chết, thì tay em của ông mang vợ ông, bà Giang Thanh ra kết án.
Hồ Chí Minh giết những người Đệ Tứ quốc tế Cộng sản, những nhà ái quốc, sau đó thì Trần Quốc Hoàn, tay em của ông đã giết người đàn bà đã có con với ông, bà Nông Thị Xuân.
Ngày hôm nay sự cấu xé lẫn nhau giữa những con người cộng sản, giữa giới lãnh đạo cộng sản đang diễn ra hàng ngày, nào là vụ Bạc Hi Lai, tại Trung cộng; vụ Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang đang tìm cách cấu xé nhau, ở Việt Nam.
Thử hỏi một xã hội như thế thì làm sao con người có thể sống bình thường, hòa bình, ôn hòa, ngay thẳng, để phát triển.
Thêm vào đó lý thuyết Marx còn đơn giản hóa bằng cách cho rằng quyền tư hữu là nguyên do đưa đến xã hội phân chia thành giai cấp. Nay bãi bỏ quyền tư hữu, thì không còn giai cấp, sẽ đi đến thiên đàng cộng sản. Thực ra quyền tư hữu không thể bãi bỏ, mà chỉ có thể chuyển nhượng. Đảng cộng sản, sau khi dùng bạo lực cướp được chính quyền, đánh tư bản, mại sản, bảo rằng bãi bỏ quyền tư hữu, nhưng thực tế là tước quyền tư hữu của toàn dân, để trao lại cho một số đảng đoàn cán bộ, như chúng ta thấy ngày hôm nay ở Trung cộng và Việt Nam, toàn dân thì nghèo đói, trong khi đó cán bộ thì giàu nức đố đổ vách.
Thiên đàng cộng sản mà Marx đưa ra chẳng qua là lấy từ quan niệm của Do thái giáo, theo đó, con người đang sống ở địa đàng, nhưng vì ăn phải trái cấm, nên bị đày xuống địa giới, phải chịu cực khổ; nhưng cực khổ đến lúc cùng cực, thì sẽ có Đấng Cứu thế xuống cứu rỗi con người, đưa trở lên thiên đàng.(1)
Marx đã lấy quan niệm này và hiện đại hóa, bằng cách thay trái cấm bằng quyền tư hữu, thay Đấng Cứu Thế bằng giai cấp công nhân, thay địa đàng bằng xã hội cộng sản nguyên thủy, không có quyền tư hữu.
Đây là một lập luận chẳng có gì là khoa học.
Thêm vào đó Marx còn kêu gọi bỏ mọi giá trị đạo đức nhân bản cổ truyền.
Một xã hội dựa trên một nền tảng triết học lấy cái bất bình thường làm bình thường, không coi trọng bất cứ một nguyên tắc đạo lý, đạo đức nào, thì chỉ mang đến thảm họa cho con người, như Nghị quyết 1481 của Quốc Hội Âu châu kết án chế độ cộng sản là diệt chủng, là như vậy.
Bởi lẽ đó, cuộc cách mạng đầu tiên, nền tảng, căn bản mà mỗi người Việt Nam, trong đó có cả người cộng sản phản tỉnh, cả người trí thức, phải làm là dứt khoát trong tư tưởng mỗi người, bằng cách từ bỏ lý thuyết duy vật Mác lê phản bình thường, phản tự nhiên, phản đạo đức.
Người trí thức hãy bắt chước trí thức Nga, không dạy lý thuyết Mác lê trong trường.
Người dân nên theo người dân Nga lấy câu châm ngôn: “Một lời nói sự thật nặng hơn quả địa cầu”. Đừng để cho tuyên truyền cộng sản phỉnh gạt, cho ăn bánh vẽ. Hãy can đảm theo dân Ba Lan, nghe lời dạy của Đức Giáo Hoàng Jean Paul II: “Hãy can đảm, hy vọng và đừng sợ sệt!”
Những câu hỏi đến với chúng ta: Tại sao cách mạng Hoa Lài đến với Tunisie, tràn sang Ai cập, Lybie, Syrie, sang cả Á châu với Miến điện, mà không sang Việt Nam?
Dân tộc Việt còn đợi đến bao giờ? Không lẽ sống hoài trong bóng đêm độc tài cộng sản?
Để trả lời những câu hỏi trên, không phải là một chuyện đơn giản, cần cả bao quyển sách. Nhưng đại để, chúng ta có thể chia làm 2 trường phái khác nhau: 1) Bi quan và 2) Lạc quan.
Trường phái bi quan cho rằng cách mạng dân chủ, nhân quyền không đến hoặc đến thì còn rất lâu với Việt nam, họ viện những lý lẽ sau:
Chế độ cộng sản Việt nam là một chế độ độc tài toàn diện, rất ác ôn, côn đồ, gian manh, giảo quyệt, có lẽ là nhất thế giới hơn cả Nga và Tàu. Nó đã cướp được chính quyền, thì ngày hôm nay nó sẽ làm bất cứ cái gì, để giữ quyền, dù là bán nước.
Thêm vào đó chúng còn dùng thủ đoạn hạ cấp, mafia, du côn, dù kề, đánh phá những người đấu tranh cho dân chủ, đàn áp, vu khống, bắt bớ, thậm chí bỉ ổi như cho công an vứt cứt vào nhà. Có lẽ chưa một chính quyền nào trên thế giới lại vô liêm sỉ như thế.
Chúng hành động theo kiểu “Duy vật hạ cấp”, trên không có trời, dưới không có đất, khác với những chính quyền độc tài hữu, như ở Tunisie, Ai cập, Miến Điện, họ hành động còn có trời, có đất.
Vì gian manh, giảo quyệt, chúng ý thức rất rõ rằng, để làm được cách mạng thì phải có hướng dẫn và tổ chức, nên chúng tìm cách “Đánh rắn, phải đánh bẹp đầu”, chúng bắt giam, cô lập những nhà đấu tranh cho dân chủ như Cha Nguyễn Văn Lý, Hòa thượng Thích Quảng Độ, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Cụ Lê Văn Liêm, luật sư Lê Thị Công Nhân, cô Tạ Phong Tần, anh Điếu Cày và nhiều nhà đấu tranh khác. Đồng thời chúng tìm cách phân tán, chia rẽ tối đa, không cho người này gặp người nọ. Không có lãnh đạo, không có liên lạc thì làm sao gầy dựng tổ chức.
Gần đây trên mạng có người đưa ra một tài liệu đánh giá người Việt gồm 10 điểm như sau:
1) Cần cù lao động, song có tâm lý hưởng thụ;
2) Thông minh, sáng tạo, song thường có tính chất đối phó;
3) Khéo léo, song ít duy trì đến cùng, ít quan tâm đến sự hoàn hảo;
4) Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại nhút nhát;
5) Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít học từ đầu đến đuôi, nên kiến thức không hoàn hảo, mất cơ bản. Ngoài ra học tập không phải là mục tiêu của tạo thân của mỗi người, mà học vì gia đình, vì sĩ diện, vì công ăn việc làm, ít khi vì đam mê, nên học xong là bỏ dở không nghiên cứu, học hỏi thêm tiếp;
6) Vui vẻ cởi mở với mọi người, song không bền;
7) Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những việc vô bổ ;
8) Có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, song hầu như chỉ trong hoàn cảnh khó khăn, bần hàn. Còn trong hoàn cảnh sống tốt hơn, giàu có hơn, thì tinh thần này ít xuất hiện;
9) Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu chiến, háo thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cuộc;
10) Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (Cùng một việc, một người làm thì tốt, 3 người làm thì kém, và 7 người làm thì hỏng.)
Thực ra thì những điều trên, các cụ Việt Nam như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Trọng Kim đã nhìn ra từ lâu.
Và dân tộc nào cũng có tính tốt và xấu. Tuy nhiên, thảm họa của dân tộc Việt là đức tính tốt càng ngày càng giảm, và tính xấu càng ngày càng tăng so với những dân tộc khác, vì từ ngày đảng cộng sản cầm quyền, với những lãnh đạo là những kẻ vô thử, vô thực, không có một nguyên tắc đạo lý nhân bản tối thiểu, miễn sao là thành công, bắt đầu từ họ Hồ cho tới ngày hôm nay.
Nhiều người đặt câu hỏi: Tại sao những cuộc cách mạng Hoa Lài, cách mạng Tím, cách mạng Hoa Hồng, cách mạng Xanh xảy ra ở khắp nơi, mà lại không xảy ra ở Việt Nam.
Có rất nhiều nguyên do, nhưng tôi xin tạm nêu ra 2 nguyên do chính:
Đó là những dân tộc như Tunisie, Ai cập v.v.. họ có tinh thần công lý, công nghĩa, tương thân tương trợ, một người đàn áp bóc lột, bị công an đánh đập vô duyên cớ là cả làng họ cùng nhau đứng lên bên vực người này. Trong khi đó ở Việt Nam, nhà hàng xóm cháy kệ họ, miễn nhà mình không cháy là được rồi. Ở đây tôi không nói xấu người Việt, tôi chỉ nêu lên một sự thật. Có người cho rằng ở Hà nội trường phái “Mackeno” đang thịnh hành, có nghĩa là “Mặc kệ nó”, nó muốn sống chết làm sao kệ nó, miễn ta yên thân là được rồi.
Lý do thứ nhì là dân Tunisie, Ai Cập v.v…, nhất là giới trí thức, họ sống dấn thân, cởi mở, đi nhà thờ mỗi tuần, họ tin Thượng đế, phân biệt rõ ràng tốt xấu, trong khi dân Việt, thì đại đa số “Mũ ni che tai”, giới trí thức, ở đây tôi không vơ đũa cả nắm, nhưng phần lớn quá hèn hạ, có tinh thần “trên đội, dưới đạp”, tinh thần phong kiến xa xưa, và trở nên trầm trọng dưới chế độ cộng sản ngày hôm nay, lâu lâu cũng làm “Thỉnh nguyện thư”, hay lên tiếng phê bình chế độ khi đã về hưu, để cho lương tâm đỡ cắn rứt; nhưng phần lớn chỉ là xu nịnh bạo quyền để được chút canh thừa, cơm cặn do bạo quyền ban cho, mặc dân đói khổ, mặc cho bất công đầy dẫy, mặc cho quê hương đất nước trên thực tế đã bị Tàu đô hộ.
Những người lạc quan cho rằng chưa một dân tộc nào bị đô hộ cả ngàn năm bởi người Tàu và cả trăm năm bởi người Pháp, thế mà vẫn quật cường đứng dậy. Vì vậy ngày hôm nay dù đang bị đô hộ lại bởi người Tàu, với sự toa rập của Đảng Cộng sản, bắt đầu bằng Hồ chí Minh; nhưng sớm muộn dân tộc Việt sẽ đứng lên lật đổ chế độ cộng sản vông nô, vọng ngoại, giành lại độc lập cho nước nhà.
Nhất là chế độ cộng sản, không những Việt Nam, mà cả Trung cộng, chỉ là một chế độ phong kiến, độc tài, còn tồi tệ hơn cả phong kiến, vì giới lãnh đạo không có nhân cách, nhân phẩm và danh dự, có thể làm bất cứ chuyện gì để đạt tới thành công.
Nhà văn Nga, giải thưởng Nobel văn học năm 1973, đã viết:
“Cộng sản là một loại đến từ một hành tinh khác, và chỉ mang trong đầu một ý nghĩ duy nhất: Phá hủy tất, chém giết tất cả những gì thuộc về thế giới con người.”
Đã từ lâu trong Kinh Thánh có câu chỉ những kẻ vô đạo, vô thần, mà ngày hôm nay áp dụng cho lý thuyết cộng sản, cho người cộng sản vẫn còn đúng :
“Nó tự ru ngủ bằng một lý thuyết đơn giản, trái sự thật và sai lầm. Nó tự khoác vào người nó một bộ áo đạo đức giả; nhưng bản chất thật của nó thì vô cùng gian manh, giảo quyệt, ác ôn và côn đồ. Nó đã hạ thấp hình ảnh tốt đẹp và cao thượng của con người xuống hàng súc vật, rắn rết và bò sát.”
Bởi lẽ đó, chế độ cộng sản đã bị đào thải ở ngay cái nôi của nó là Liên sô và Đông Âu, rồi sẽ bị đào thải ở Trung Cộng và Việt Nam. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta khoanh tay ngồi chờ, mà phải tiếp tục đấu tranh.
Vì là một cuộc cách mạng độc lập cứu quốc, nhân bản cứu con người Việt Nam, thoát khỏi bàn tay cai trị của người cộng sản ma quái, và là một cuộc cách mạng dân chủ kiến quốc, nên nó bắt đầu từ bản thân mỗi người Việt, từ người dân thường cho tới trí thức, cố gắng khắc phục từng khó khăn một, từ suy nghĩ, tính tình tới những tập quán xấu, sau đó tìm cách phổ biến những điều hay, lẽ phải cho những người gần chung quanh và cho cả dân tộc.
Đừng thấy những dân tộc khác họ đã làm được cuộc cách mạng dân chủ nhân quyền, mà chúng ta nóng lòng, trở nên bi quan; nhưng cũng đừng quá lạc quan, cho rằng cộng sản nhất định sẽ đổ, rồi khoanh tay ngồi chờ.
“Hãy cứu mình trước, rồi Thượng đế sẽ cứu mình sau!”
Chu Chỉ Nam.
mandag 15. oktober 2012
Abonner på:
Legg inn kommentarer (Atom)
Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar