søndag 9. januar 2011

Buông Súng Nhưng Không Ðầu Hàng

Buông Súng Nhưng Không Ðầu Hàng.

Những ai còn sống sót đến ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn màng để cảm ơn họ. Người Lính chết oan khiên chẳng những ngoài chiến trường khi phải đối mặt với kẻ thù hung ác, mà còn chết lãng nhách nơi hậu phương bởi những cái lưỡi tắc kè xanh xanh đỏ đỏ, giờ này nhìn lại cũng đỏ đỏ xanh xanh, đâu có thấy đổi màu. Thảm nhất là trên đầu lính, gần hết là bọn lãnh đạo tồi, thứ này giờ đã hết răng để mà ăn, nhưng lúc nào cũng muốn chường ra giữa bia miệng, chọc cho thuộc hạ và con cháu khinh nhờn, khi cứ xưng chức, đeo huy chương và trả lời những phỏng vấn cuội, như mới đây có đám việt gian ở hải ngoại về Sài Gòn phỏng vấn lũ tướng đầu hàng VC, trong đó có Nguyễn Hữu Hạnh và Triệu Quốc Manh, thuộc hàng tép riu, không quân, không đơn vị trước khi Dương Văn Minh được làm tổng thống hai ngày, để bắt QLVNCH buông súng rã ngủ.

Người lính Miền Nam bi hùng là thế đó, như vậy làm sao bảo họ phải chiến thắng khối cộng sản đệ tam quốc tế, trong đó có Liên Xô và Trung Cộng ? Người lính đã ở lại tới giờ phút cuối cùng vào trưa ngày 30/04/1975, đã là anh hùng thử hỏi có quân đội nào anh hùng hơn, kể cả quân Pháp, Ðức, Anh trong Thế chiến 2.

Sau khi Hoa Kỳ cùng Bắc Việt đồng thuận ngụy tạo cuộc ngưng bắn bịp vào tháng 2/1973, chấm dứt sự hiện hữu của Mỹ tại chiến trường. Cũng từ đó, QLVNCH bị đem con bỏ chợ, chiến đấu trong thiếu thốn, thiếu cấp chỉ huy trên thượng tầng, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng nhớt, các quân dụng khiến cho nhiều phi cơ, chiến xa phải nằm ụ vì không cơ phận sửa chữa hay thay thế. Tóm lại mọi sự đều do người bạn đồng minh Hoa Kỳ tạo ra, như cắt quân viện, bội ước lời thề" một đỗi một" được chính siêu cường ký nói hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen. Trong khi đó thì Bắc Việt, từ Hồ Chí Minh tới Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng đã đem mãnh giang sơn gấm vóc của tiền nhân, cầm bán thế chấp cho đệ tam cộng sản, nên được cả khối như Liên Xô-Trung Cộng, Ðông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba, các đảng cộng sản Ý, Pháp, Mỹ và những thành phân ăn cơm miền nam lại theo VC miền bắc, giúp đỡ hết lòng, từ cây kim hột gạo, cho tới bom đạn, tăng, máy bay, tiền bạc và những cái lưỡi tắc kè đỏ đỏ xanh xanh đảo lộn sự đời. Tệ nhất là lũ hề hữu danh vô thực, trong cái gọi là Liên Hiệp Quốc, lúc nào cũng bưng bợ Hà Nội, như muốn đổ dầu vào biển lửa thống hận trùng hằng tại Miền Nam.

Không chịu nổi cái cảnh ứa gan, hiếp người ngã ngựa, nhà bỉnh bút quân sử thế giới lương thiện và nổi tiếng là Louis A Fanning, đã phải viết lời chửi Mỹ:" Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300.000 bộ đội cộng sản quốc tế, được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lãnh thổ của nước khác. Ðó là Miền Nam VN, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, quốc hội và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, VNCH là một đồng minh với Mỹ từ khuya, lại bị chính Mỹ phản bội, lường gạt, cắt viện trợ và sỉ nhục mọi điều. Ðúng là thái độ của bọn con buôn chính trị, hèn chi người Mỹ đã bị thế giới tự do coi thường, vì đã bội tín với nhiều đồng minh của mình".

Viết về tình trạng đồng bào VN, sống giữa cảnh chết chóc của chiến tranh mạt kiếp, đáng lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu không có đảng cộng sản Hà Nội, khiến cho đất nước sau khi Nhật đầu hàng, thay vì sẽ có hoà bình như nhiều nước trong vùng Á Châu, lúc đó cũng đang là thuộc địa của bọn thực dân da trắng. Ðể diễn tả sự bất hạnh này, nhà báo người Tây Ðức Une Siemon Netto, đã viết trong tờ International Herald Tribune: " Giờ thì mọi người đã biết rõ cái thực chất cách mạng cứu nước, mà cộng sản Hà Nội luôn dùng làm chiêu bài, để có cớ gây nên một cuộc chiến vô luân, nồi da xáo thịt. Tiếc thay trước tháng 05/1975, nhiều trí thức khoa bảng và nhà báo Tây Phương, đã biết rõ cộng sản đệ tam quốc tế gây chiến tranh chỉ vì ý thức hệ và trên hết chúng rất dã man tàn bạo. Nhưng vì họ ích kỷ, hám danh và trên hết nhiều kẻ đã táng tận lương tâm, nên muối mặt, bẻ cong ngòi bút, viết láo sai sự thật, để đầu độc mọi người, nhất là dân chúng Hoa Kỳ, đang có nhiều người thân tham dự cuộc chiến thần thánh, bảo vệ tự do cho nhân loại tại Ðông Dương, đang bị Ðệ tam cộng sản quốc tế tàn sát nhuộm đỏ". Hành động vô lương của bọn bồi bút, đã gây nên nhiều nổi oan khiên tội nghiệp, khiến bao oan hồn lương dân vô tội, đã bị bộ đội cộng sản miền bắc tàn sát dã mang trong tết Mậu Thân, nhất là tại Huế. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972 trên đại lộ kinh hoàng, từ Ðông Hà về Huế, trên quốc lộ 14 Dakto-KomTum, đường 13 An Lộc-Bến Cát và đoạn đường số 1, từ Tam Quan-Hoài Nhơn-Phù Mỹ về Qui Nhơn, qua những Lai Giang, sông Côn, sông Cả. Nhưng bi thảm nhất cũng vẫn là những ngày cuối cùng di tản tại Vùng I, vùng II trên đường số 7, dân chúng lánh nạn gục chết như ra vì đạn kích pháo của giặc, không cần biếy hay thương hại cho mạng người lá rụng, dù những mạng sống đó vốn cùng bộ đội VC, chung cháu Lạc Con Hồng. Tóm lại tất cả đều vô lý, đã khiến cho nhiều nhà báo ngoại quốc sau này, phải kêu trời không ngớt, vì tự vấn lương tâm khi họ đả vô tình hay cố ý, câm nín trước những thảm trạng của nam VN. Trong lúc đó vụ Mỹ Lai (Quảng Ngãi), do chinh Hà Nội giật dây đạo diễn, đẩy dân lành vô tội ra làm bia đỡ đạn cho lính Mỹ, thì được bao chi Tây phương làm lớn chuyện, tuyên truyền không công cho Hà Nội, trong suốt cuộc chiến.

Sài Gòn đã bắt đầu xáo trộn từ tháng 03/1975, từ lúc miền Trung bị mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và II của TT.Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21/04/1975, Tổng Thiệu qua áp lực của Mỹ, muốn thay ngựa theo ý của cộng sản Bắc Việt, để hoà hợp hoà giải, nên ông phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc đất nước nguy ngập, ngàn cân treo chỉ mành và đã cùng Thủ tướng Khiêm, được Toà Ðại Sứ Mỹ, đưa ra khỏi Sài Gòn, tới Ðài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự. Việc bỏ nước ra đi của TT. Thiệu, khác với trường hợp của Thủ Tứơng Khiêm hay Ðại Tướng Viên, vì hai người này chẳng hề bị đe dọa hay bắt buộc. Trái lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ thứ 25 của VNCH trong tháng 04/1975, giống như cái chết của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ngày 02/11/1963, được quyết định bởi bàn tay của người Mỹ. Tổng Thống Diệm không cho người Mỹ đem quân vào VN nên bị giết trong danh dự. TT Thiệu khôn ngoan từ chức ra đi, nên được sống những ngày thừa nơi quê người, chịu bia miệng nguyền rủa, vì ham sống sợ chết, dù rằng con kiến cũng muốn sống. Ðó là sự thật của lịch sử, của thân phận nhược tiều VN, mà các tài liệu Mỹ đã hé mở cho mọi người cùng đọc, trong vài năm trước đây và còn được lưu trữ phổ biến khắp mọi văn khố, kể cả VC. Ngoài ra, cũng theo sử liệu, chính Tổng Thống Trần Văn Hương, muốn người Mỹ đem Tổng Thống Thiệu ra khỏi nước, mà theo TT Hương, đó là kỳ đà cản mũi, nên ông ta không thể trị nước hay chống Cộng được.

Thương nhất là Cụ Trần Văn Hương lúc đó, đã gần đất xa trời, thêm mắt mũi kém, lại bị Mỹ bắt làm Tổng Thống VNCH, theo điều kiện của Bắc Việt. Nguyên thủ như vậy, nên miền Nam bị mất là cái chắc, dù sớm hay muộn cũng thế thôi. Sau đó lại màn thay ngựa cuối cùng, để Dương Văn Minh danh chánh ngôn thuận, kết thúc cuộc chiến từ đầu cũng do VC sắp đặt và cuối cũng cũng do VC quyết định, qua miệng kẻ cầm quyền của miền Nam, dù chỉ có hai ngày ngắn ngủi.

VNCH đang lúc lâm nguy vì thù trong giặc ngoài. Cả triệu quân, công, cán chính lúc đó đang xã thân, dùng xác người thay súng đạn Mỹ, làm công sự cản xe tăng hứng đạn pháo của cộng sản khắp mọi nẻo đường dẫn vào thủ đô, thì cũng lúc đó nhưng sâu bọ nơi hậu trường chính trị, hăng say toắc mồm, áo thụng vái lạy ông, bày ra những trò hề tác tệ, để tự phong quan gắn chức, làm nản chí những người lính đang xả thân nơi chiến trường, bắt QLVNCH phải tan hàng rã ngũ trong tức tủi oan khiên và cuối cùng làm cho cả nước phải sống đọa đày thương đau, trong cùm gông xã nghĩa từ ấy cho tới bây giờ, vẫn không hề thay đổi, vẫn không có tự do dù chút tự do để nói lời chân thật trong đáy hồn mình.

Nhưng dù gặp khó khăn nguy hiểm, các lộ quân còn lại của VNCH vẫn cản nổi quân xâm lăng Bắc Việt, trên khắp các tuyến đường dẫn vào Sài Gòn. Chính hành động phi thường này, nên dù VNCH không còn nửa, vẫn được thế giới ngợi khen và kính phục, như Peter Kohn đã viết trên tờ the Wall Street Journal :"Quân đội VNCH là một quân đội can đảm và chiến đấu lão luyện. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi trên nhiều địa danh, mà người Mỹ hoặc thế giới biết hay chưa biết tới. Quân đội ấy đã hào hùng ngạo nghễ với địch, qua hàng ngàn chiến trận, tiền đồn hẻo lánh hiu hắt. Quân đội ấy không được trang bị như quân Mỹ hay bộ đội cộng sản Hà Nội. Thế nhưng từ khi Hoa Kỳ rút quân về nước hay lúc đầu quân Mỹ chưa vào VN, vẫn hiên ngang chiến đấu trong suốt 20 năm khòi lửa, gần như bảo toàn trọn lãnh thổ của cha ông, từ phía bên này vỹ tuyến 17 cho tới Cà Mâu, đến khi bị Việt gian đâm sau lưng, VC bắn trước mặt, mới đành để mất non sông vào tay đệ tam cộng sản quốc tế.

Cũng vì phải chiến đấu khắp các mặt trận, nên đã có hằng trăm ngàn người lính phải chết, hằng triệu thương phế binh, cô nhi quả phụ. Tới giờ phút cuối cùng, đã biết nước sắp mất, chết chỉ thêm uổng mạng nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi, Biên Hoà và Sài Gòn. Tất cả đều là những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt

Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đã xử sự một cách mã thượng anh hùng. Thay vì dùng vũ lực bắt trọn Toà Ðại Sứ và Cơ Quan Dao làm con tin, như Iran đã từng làm, để gây áp lực, bắt Hoa Kỳ phải giữ lời hứa, dùng B52 đuổi bộ đội cộng sản rúr về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp định Geneve năm 1954 và 1973. Nhưng họ vẫn không làm như vậy, vẫn tôn trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời của một dân tộc có văn minh, văn hóa VN, khi cố gắng phòng thủ và tiếp tục chiến đấu khắp nơi, giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách an toàn, trước khi giặc Hồ vào Sài Gòn trưa 30/04/1975. Họ đáng được ca tụng và kính phục".

Tỉnh Phước Tuy và Ðặc Khu Vũng Tàu, trong đó có quốc lộ 15 được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, SD3BB phối họp với các lực lượng DPQ + NQ của Phước Tuy và Bình Thuận di tản từ miền trung tới. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SDTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàu. Riêng SD3BB từ vùng 1CT di tản vào, quân số kể luôn SD1BB cộng được hơn 1000 người, lập thành 2 tiểu đoàn thuộc Trung Ðoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ và Lữ Ðoàn 1 Dù, bảo vệ QL15, thị xã Bà Rịa-Vũng Tàu.

Tỉnh Biên Hoà và phi trường do Lực lượng III xung kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn 147 và 258 TQLC phòng thủ. Từ ngày 28/04/1975, để bảo vệ thành phố Biên Hoà, Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh QDIII. Một TD/TQLC thuộc Lữ Ðoàn 2 bảo vệ BTL.QDIII, các thành phần còn lại của Lữ Ðoàn, phòng thủ mặt nam BTL. Quân Ðoàn. Lữ Ðoàn Nhảy Dù giữ hai Cầu Mới và Sắt cùng các nút chận vào thị xã. Riêng Lực Lượng III Xung kích gồm Chiến Ðoàn 315phòng thủ từ Ngã ba Hố Nai đến Ngã tư Lò Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngã tư Lò Than tới cổng phi trường Biên Hoà và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu Mới.


Về phía bắc Sài Gòn có SD25BB của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá được tăng phái thêm hai Liên Ðoàn 8 và 9 Biệt Ðộng Quân, trách nhiệm Tây Ninh và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh Bình Dương là trách nhiệm của SD5BB của Chuẩn Tướng Lê NguyênVỹ, kể cả Trung Ðoàn 8/5 của Ðại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi ở Hưng Lộc, vừa được trả về. Phòng tuyến phía nam Sài Gòn là Long An, có SD22BB ở Bình Ðịnh di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn Chận của Hải Quân và DPQ+NQ.Long An, từ lâu nổi tiếng là kiêu dũng thiện chiến, không kém gì quân chủ lực. Như vậy trừ ba SD7,9 và 21BB của QDIV phải bảo vệ lãnh thổ của các tỉnh thuộc Vùng 4/CT. Phía VNCH chỉ còn lại : sáu Sư Ðoàn gồm SD5,18,22,25 bô binh + Hai Lữ Ðoàn 1 và 4 Nhảy Dù + Sư đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích +Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù + 4 LiênÐoàn BDQ + DPQ và NQ + 625 chiến xa đủ loại và 400 pháo, tất cả chừng 240.000 người, để bảo vệ Sài Gòn. Trong khi đó VC tung vào 5 lộ quân với quân số trên 280.000, gồm 15 Sư đoàn BB + 5 Lữ đoàn biệt lập + 4 Lữ đoàn thiết giáp + 6 Trung Ðoàn Ðặc công.Tất cả được trang bị đầy đủ với các vũ khí bom đạn hiện đại, không thua gì quân đội Mỹ.

5 giờ chiều ngày 29/04/1975, các mặt trận, lính vẫn chiến đấu không ngừng nghĩ. Tại Biên Hoà, TQLC, Biệt Cách Dù và các Chiến Ðoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đã ngăn chống VC tại các phòng tuyến vô cùng đẫm máu kinh hoàng.

Chiều ngày 29/04/1975, tướng Vĩnh Lộc được TT Minh cử làm Tổng Tham mưu trưởng thay Cao Văn Viên, còn Nguyễn Hữu Có thì gắn ba sao, xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra còn có VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh, cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đã bị giải ngũ từ lâu. Mới đây VC lại cho các tên hề Có, Hạnh và Triệu Quốc Mạnh làm cuộc phỏng vấn cuội tại Sài Gòn, do bọn Việt gian hải ngoại từ Canada về thực hiện, rồi đem phát trên đài để lừa bịp người Việt trong và ngoài nước, một cách trơ trẽn vì câu chuyện lãng xẹt của đám sâu bọ, từng làm xấu hổ danh dự và thể thống của người lính VNCH năm nào.

Khôi hài nhất là lúc mà người lính đang nối tiếp nhau ngã gục khắp các chiến trường, để bảo vệ cho thủ đô Sài Gòn và cuộc di tản bằng máy bay trực thăng của Mỹ, trên các mái nhà tại Cơ quan Dao và Toà Ðại Sứ, thì gần hết tướng lãnh bỏ chạy trước. Còn Chính phủ Dương Văn Minh vừa mới nhậm chức, thì đã sai Nguyễn Văn Huyền vào Trại David, để thương thuyết với giặc xin đầu hàng, nhưng bị Võ Ðông Giang làm nhục và bắt giam luôn bọn Việt Gian Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng, từ chiều ngày 29/04/1975, khi vào làm sứ giả hoà bình.

Thế rồi 09 giờ 30 sáng ngày 30/04/1975, trong lúc mọi người đang mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, thì Dương Văn Minh vì quá nghe lời xúi dại của bọn thân Cộng như Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, nên lợi dụng chức vụ tổng thống tổng tư lệnh quân đội, ép QLVNCH buông súng rã ngủ, trong khi tất cả còn đang tử chiến với giặc ngoài biên đình.

Cả một dân tộc chịu cảnh lầm than nô lệ từ ba chục năm qua và không biết tới bao giờ mới thoát khỏi xích xiềng tù ngục. Tất cả đều là ý trời, là số mệnh, là hậu quả tất yếu của một hậu phương miền Nam vô tình bạc nghĩa, chỉ biết hưởng thụ cá nhân, nên chẳng bao giờ chịu chia xẻ nỗi đau cùng cực của người lính, đã vì họ mà vong thân hay tàn phế nữa đời.

Giặc chiếm được nước, tất cả dân lính cùng chịu cảnh tan tác phân ly không chừa hay bỏ sót một thành phần nào, kể cả những người một thời theo giặc. Lính bỏ súng vào tù, dân không còn được lính bảo vệ, nên bị đe dọa mạng sống và mất hết tự do kể cả quyền sống làm người dân thường bên vệ đường.

Ðúng 12 giờ 30 trưa ngày 30/04/1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị giặc tước bỏ. Dương văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc, nhốt giữ tại chỗ, dù từ lớn tới nhỏ, đã sùi bọt mép nịnh bợ ca tụng chúng. Nhục nhã muôn đời là cả đám bị thu hình trước ống kính của hằng trăm nhà báo ngoại quốc. Cũng vào giờ phút mà Dương văn Minh bị còng tay gục đầu, thì tại Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Nguyễn văn Cung, thuộc SD18BB khi nghe tin đầu hàng đã tự sát. Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 kết liễu đời trai trước Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị. Trong trại Hoàng Hoa Thám, một toán lính Nhảy Dù, nắm tay làm thành vòng tròn, rồi mở chốt lựu đạn để cùng chết tập thể. Một Ðại Úy Cảnh Sát tự bắn vào đầu chết trước Quốc Hội. Trong khi đó các tướng lãnh Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỷ, Phạm Văn Hai cũng quyên sinh khi thành mất. Ðó là những hình ảnh tuyệt vời, ngàn đời khắc sâu trong tâm khảm của người Việt và những trang sử bất diệt của dân tộc.

Sài Gòn đã chết từ đó, dân chúng thành đô dửng dưng trước chủ mới. Cùng lúc, có nhiều con khỉ trong sở thú, vừa được sổ chuồng, cổ quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của lính bõ bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp đường phố, cổ võ, làm oai, hoan hô, đã đảo một cách lố bịch.

Nhưng sự thật đã làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chì là sự tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cộng sản, mục đích để cho thế giới có thành kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng một chiều cuộc xâm lăng miền Nam của Bắc Việt, mà không cần phải tìm hiểu sự thật.

Ba triệu dân miền Nam nhìn chúng bằng thái độ lãnh đạm. Vậy mà Trần văn Trà, Nguyễn Thị Bình đi đâu cũng tuyên bố rằng, chính nhân dân miền Nam đã tổng nổi dậy, để lật đổ chính phủ VNCH".

Nhưng cay cú nhất, phải là lời viết của Jean Larteguy, một nhà báo Pháp từng cuồng nhiệt ca tụng Hồ Chí Minh và VC như thần thánh trong nhiều năm qua. Ông viết "Sài Gòn mất bởi đạo quân Bắc Việt. Nhìn đoàn quân chiến thắng đang hồ hởi trên những chiếc tăng T54 hay PT46, treo cờ máu, đâu có khác gì cảnh quân Sô Viết đàn áp, xâm lăng Hung Gia Lợi, Tiếp Khắc, Ba Lan tai Ðông Âu năm nào".

Ba mươi sáu năm qua, hầu hết đồng bào VN trong cũng như ngoài nước tan nát cửa nhà sau cuộc đổi đời không bao giờ dám nghĩ là sẽ có. Nên cứ mỗi lần tháng tư quốc hận tới, cho dù ai chăng nửa, đại đa số người dân sống thầm lặng bên vệ đường thời gian hay thiểu số dấn thân trên con đường đấu tranh quang phục đất nước, đều mang chung tâm trang bi thương, tức tưởi, ngậm ngùi.

Tất cả đều là sự thật vì mọi bí mật của cuộc chiến đã được các phe phái, chính người trong cuộc hay các sử gia tìm hiểu, như giáo sư Morris" cộng sản Hà Nội đã thắng cuộc xâm lăng miền nam, nhờ tuyên truyền, đẻ và thổi phồng bịa đặt các huyền thoại chính trị mà hầu hết, đều là chuyện trên trời dưới biển. Có như vậy, VC mới dụ dỗ và phỉnh gạt được, nhiều trí thức khoa bảng nhà báo trong và ngoài nước. Nhờ thế suốt cuộc chiến, chính thành phần này đã góp phần chiến thắng cho Hà Nội, không phải ở chiến trường, mà là tại Paris, Luân Ðôn và Hoa Thịnh Ðốn".

Ba mươi sáu năm rồi, xin hãy trả lại cho người lính trận miền nam những gì họ đã mất từ lâu, do những kẽ cứ hay tự xưng mình là trí thức, đã cướp đoạt. Người lính VNCH không cần bất cứ ai phải vinh danh, vì chính cái phẩm cách tuyệt luân phi thường của lính, đã có một vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc

Mong ước sao cho đất nước sớm có tự do cuộc đời trở lại như thuở nào, để dân-lính lại thỏa tình cá nước, lính từ dân mà có và dân sống được nhờ sự bảo vệ thần thánh và chân thành của lính, điển hình như các cuộc di tản khỏi vùng chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa 1972, cuộc di tản tại Bình Thuận, Xuân Lộc và những ngày Sài Gòn hấp hối, cuối tháng 04/1975.

Ta về cúi mặt đầu sương điểm
nghe nặng từ tâm lượng đất trời
cám ơn hoa đã vì ta nở
thế giới vui vì mọi lẻ loi"

Xóm Cồn.

Ingen kommentarer: