lørdag 29. januar 2011

Nguyên Nhân & Những Hệ Lụy

Nguyên Nhân & Những Hệ Lụy Của Cuộc Chiến 1954-1975.

Mục đích của cuộc chiến:
Qua các tài liệu liên hệ giữa Việt cộng và Trung cộng đã được phía Trung cộng tiết lộ, ngày nay, mọi người đã nhìn ra cái mặt thật làm tay sai bán nước của Hồ chí Minh và tập đoàn Việt cộng. Ngoài việc Hồ chỉ thị Phạm văn Đồng ký công hàm năm 1958 để biểu lộ tinh thần nô lệ với chủ nhân Tàu. Hồ còn dã tâm lớn, đẩy cả nước vào cuộc chiến tranh nhằm hai mục tiêu: thứ nhất, tiêu diệt tiềm năng phát triển về Dân Trí và Độc Lập cũa dân Tộc Việt. Thứ hai, mỡ rộng biên giới cho cộng sản xuống vùng Dông Nam Á
1. Tiêu diệt tiềm năng phát triển về Dân Trí và độc Lập:
Với Hồ, thành phần có học, có nhận thức về chủ nghĩa độc lập, có trình độ lịch sử, hoặc đã trướng thành trước mùa 1954 không thể đem lại lợi ích cho xã hội chủ nghĩa. Đơn giản là thành phần này đã tiếp cận với cuộc sống của những môi trường trước đây. Họ có ý thức, biết làm cuộc xo sánh. Đặc biệt, khi được học về lịch sử dân tộc một cách đứng đắn, họ biết cái hiểm họa xâm lăng của Trung Quốc, họ không quên mối thù của ngàn năm đô hộ xưa. Như thế, thành phần này rất khó chấp nhận sự hiện diện của tàu trên nhiều mặt khi xuất hiện tại Việt Nam. Nên có để lại thì cũng chỉ để lại mối họa hay là tiếp tay cho cái họa mà thôi. Theo đó, nếu có chíến tranh, dĩ nhiên thành phần đã trưởng thành phải tham gia đi đầu. Thành công hay thất bại chưa luận đến và ngày lớp tuổi này trở về cũng không cần phải lo. Vì có trở về số lượng cũng giảm đi nhiều. Khi đó nhà nước xã hội đã mạnh và sẽ nương tựa vào lớp tuổi còn cắp sách đên trường hay sinh vào cái thời 1945 và mới được đào tạo mà thôi.

Bằng chứng cho mưu tính này của Hồ là khá rõ ràng. Sau cuộc đại đấu tố “Trí Phú Địa Hào” với khẩu hiệu “đào tận gôc, trốc tận rễ” được hai đại văn nô Tố Hữu và Xuân Diệu cổ võ là “ giết, giết, giết, những bàn tay không ngừng nghỉ, tố hữu” “ Hãy lôi đầu chúng ra đây mà đấu tố, xuân diệu” là chiến dịch “ trăm hoa đua nở” nhằm tiêu diệt cho bằng hết những thành phần dân trí có tư tưởng độc lập của Việt Nam (có còn lại thì cũng chỉ là những xu nịnh kiếm sống mà thôi). Trong đợt này có những nhà trí thức khoa bảng, nhà văn, nhà báo như Phùng Cung, Nguyễn mạnh Tường, Văn Cao, Nguyễn hữu Đang dã phải chấp nhận hẩm hiu cho đến hết đời.

Không ngờ, chuyện thâm độc của Hồ chí Minh lại gặp thời khi chiến tranh mở rộng. Nó đã giúp vốn cho Hồ chí Minh và Việt cộng không những chĩ nướng bớt đi thành phần đã trưởng thành trước mùa đấu tố. Đã thế còn biến những bản tin tuyên truyền láo lếu của cộng thành sức mạnh, khả dĩ huy động toàn dân miền bắc lao vào cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Đó lả bước thành công khá bất ngờ của Hồ trong mưu toan tiêu diệt tiềm năng Dân Trí và Độc lập của người Việt Nam.

Khi lao đầu vào cuộc chiến mở đường cho Tàu xâm lược miền nam, Hà Nội đã không còn đủ nhân sự phục vụ trong các ngành sản xuất thực phẩm và nhu yếu phẩm, khiến toàn thể đất bắc đã rơi vào trong cơn cùng khốn, làm cho nền kinh tế hoàn toàn bị kiệt quệ. Dân chúng không có đủ lương thực và các mặt hàng cần dùng như may mặc. Để giải quyết nỗi khó khăn này, Việt cộng thay vì ngưng chiến tranh để quay về sản xuất, chúng lại bóc lột thêm sức lao động của người dân trên đất bắc bằng một chiến dịch tuyên truyền ghê tởm: “Hạt gạo cắn làm tư, một phần giữ lại, một phần nuôi quân, phần viện trợ cho các nước anh em Lào, Cam pu chia và một phần chi viện vào nam để nuôi đồng bào đói khổ”.

Cuộc tuyên truyền sảo trá này ra rả hết ngày sang tháng, hết tháng sang năm, ngưòi dân không có bất cứ một phương tiện nào khác để tìm hiểu sự thật. Kết qủa là sau này người ta đã kể lại cái đoạn cuối ra nước mắt ấy như sau:
“ Bây giờ nghĩ lại, chúng em thấy không hiểu tại sao thời ấy cả miền bắc lại ngu ngốc đến như thế. Phần chúng em còn trẻ thì không nói làm gì, khi vào lớp chỉ nghe thầy cô bảo là trong nam vô cùng đói khổ vì bọn Mỹ xâm lược. Người dân nhiều khi phải ăn cả lá cỏ như nạn đói ở ngoài bắc vào năm 1945. Đã thế, không có vải che thân, phải lấy những túi bóng (ý nói những túi nylong để đựng đồ đi chợ) mà quấn vào người thay quần áo. Các em ở đây, tuy có khó khăn, có ăn ít hơn một tý, nhưng vẫn có cơm gạo, có bác và đảng chăm lo, bảo vệ cho đời sống, nên đời sống còn sung sướng và hạnh phúc gấp trăm ngàn lần đồng bào ta ở trong nam. Nên chúng ta phải nhất trí thi đua, phải hoàn thành chiến dịch một chén gạo cho đồng bào ruột thịt miền nam như bác đã đề ra… Nghe thế là chúng em tin ngay, cả lớp òa lên khóc, rối bảo nhau về nhà vận động không được thì lấy trộm gạo đem vào lớp để mà hoàn thành kế hoạch nuôi quân và cứu đói miền nam.”
“Anh biết rồi đấy, gạo thì nhà nào có hộ khẩu thì được mua theo tiêu chuẩn người lớn, trước là bẩy ký, sau còn có năm, còn trẻ em thì 3 ký. Gạo bán theo tiêu chuẩn như thế, dĩ nhiên là phải ăn đói, nhưng chúng em vẫn cứ nghe cô thầy nói, về nhà lấy trộm gạo đem vào lớp gởi cho qũy cứu đói miền nam.” Người kể là một học sinh lớp tám vào niên khoá 74-75 tại trường trung học phổ thông tại Hà Nội. cô đã đi vượt biên năm 81 và đang định cư ợ hải ngoại.

“Đến sau ngày cái gọi là giải phóng, chỉ có mấy hôm thôi, cả trường chúng em xôn sao lên vì bản tin ở chợ Đống Đa có bán gạo từ trong nam mang ra. Giời ơi, chúng em, đến giở nghỉ, bỏ trường, chen lấn nhau vào hàng gạo để nhìn xem, Cả thầy, cả cô rồi mọi người đều kinh ngạc, mỏ toét cả mắt ra mà nhìn những hạt gạo dài, đầy đặn, trằng phau để trong những cái bao lớn. Thật tình là cả đời chúng em ở ngoài bắc chưa bao giờ nom thấy những hạt gạo trắng như thế. Có người nhanh chân mua chui sớm được vài ký. Nhưng ngay buổi chiều thì công an đến thu hết. Họ bảo, gạo của ngụy trong nam để lại có tẩm thuốc độc, nhà nước phải đem về điều tra xử lý. Gời ơi, chỉ có nói phét thôi anh ạ. Chúng cướp về chia nhau mà ăn đấy. Riêng bà bán gạo thì được đi cải tạo cả mấy tháng sau mới tha về. Rồi ít lâu sau thì đến cán bộ nhớn nhỏ, chở từng xe cam nhông hàng lấy ở miền nam ra. Nào là tivi, tủ lânh, máy quạt, đài, cho đến bàn ghế, giường tủ, không thiếu một thứ gì. Ai nhìn thấy cũng lấy làm lạ, xầm xỉ hỏi nhau xem nó là cái gì. Mà có ai biết nó là cái gì đâu. Dễ thường cả đời chưa nhìn thấy lần nào thì làm sao mà biết nó là cái gì! Khi đi xem về rồi mọi người đều bảo nhau. Gỉỏi, gìoi thật, chúng nó nói láo gỉỏi thật! Vậy mà bảo rằng hạt gạo cắn làm tư và người trong ấy phải lấy túi giấy bóng mà mậc thay quần áo!”

Chuyện người trong nam phải lấy túi bóng che thân là do tác giả “ vang bóng một thời” Nguyễn Tuân sáng tác ra đấy. Nhưng sau này, Nguyễn Tuân vào nam, mắt mở toét ra mà nhìn hàng vải cao cấp dệt bằng sợi nylông ở trong nam là gi? Tuân biết sư thật, nhưng không có liêm sỷ đẽ nói lên một lời tạ lỗi. Mả nào có riêng một Nguyễn Tuân láo lếu đâu! Bọn Dương thu Hương, Nguyễn Mạnh Hảo, bon văn nô cho cộng thì cũng một phường!

2. Giải toả áp lực chết chóc và phẫn uất của toàn thể nhân dân miền bắc sau mùa đấu tố:
Sau cuộc phóng tay mở mùa đấu tố và giết hàng trăm ngàn đồng bào miền bắc, và hàng trăm ngàn khác bị đày lên các vùng rừng thiêng nước độc, Hồ, khả dĩ lĩnh ấn đồ tể của thời đại mới, nhưng vẫn không thể giải thích thỏa đáng cho việc giết người diệt chủng này. Theo đó, con đường khơi mở chiến tranh như là ván bài triệt buộc Hồ phải đi theo. Bởi vì chiêu bài, giải phóng dân tộc, xoá đói giảm nghèo không còn khả năng truyên truyền trong dân chúng nữa. Bởi vì, tất cả mọi sự thật đã phơi bày ra trước mặt ngừoi dân đất bắc. Sau ngày 20-7-1954 ai cũng nhìn biết những sự việc này:

A- Sau 1954, không còn cảnh người giàu bóc lột ngưòi nghèo, nhưng chỉ có cảnh nhà nước và đảng bóc lột nhân dân mà thôi. Ngày xưa, dân nghèo bị những nhà phú nông bóc lột còn cơm ăn áo mặc còn thời giờ thảnh thơi vui thù chuyện trò, to nhỏ bên nhau. Ra đồng thì có trâu bò kéo cày. Ngày nay dân ta đã được bác đảng giải phóng nên phải kéo cày thay cho trâu bò trên khắp các cánh đồng. Phận người được giải phóng làm chủ đất nước thì kéo cày thay trâu, trong lúc đám đầy tớ công bộc của nhân nhân là những đoàn đảng viên cán bộ của nhà nước thì cầm roi đứng trên dàn bừa!

B- Sự thật là ngày xưa sống dưới sự hà khắc của chế độ phong kiến và thực dân, người dân quê còn nuôi được con gà con vịt để có miếng thịt trong ngày giỗ chạp, hay ngày mùa, hoặc giả, làm cỗ bàn trong những ngày tiệc tùng đám xá khi con cái lập thân. Nay giải phóng rồi, tất cả những xa hoa giả tạo phù phiếm ấy đều kiếu hết. Trai gái thành thân lập gia đình không cần phải theo lệ làng, không cần phải cưới xin, theo hủ tục, chỉ cần xin phép úy ban lạy đôi dép râu là được thuận. Phần cán bộ thì theo gương Hồ hủ hóa, rồi khoác cho nạn nhân cái án vợ con, cháu chắt của thành phần xấu, khiến bao người ở nông thôn phải sống dở, chết cũng vì bị chà đạp hãm hiêp bởi lớp cán bộ của Hồ.

3. Mộng làm tay sai, mở đường nam tiến cho Trung cộng
Ước mơ là thế, nhưng sau khi Hồ giết Nông thị Xuân, (người trùng họ với Nông đức Mạnh) y bị báo oán, thổ huyết mà chết, nên việc mở đường nam tiến cho Trung cộng bị chậm lại một thời gian. Mãi đến cuối thế kỷ trước, Việt cộng mới thực hiện được nửa công tác đã dự trù. Sang đầu thế kỷ này, chúng tiếp tục thực hiện cuộc xuôi xuống vùng Đông Nam Á cho Trung cộng qua các phương án cụ thể hơn: Ký hai bản hiệp định và hiệp thương biên giới vào các năm 1999 và 2000 để nhượng đứt vùng thác Bản Dốc, ải Nam Quan, bãi biển Tục Lãm và vùng núi Lão Sơn cho Trung cộng. Sau đó giúp Trung cộng đặt nền móng hành chánh trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa của Việt Nam bằng cách ngăn cấm tất cả mọi thành phần dân tộc, sinh Viện học sinh trong nước biểu tình phản đối quyết định thết lập hành chánh trên hai quần đảo này vào năm 2007. (nếu vùng đất này thuộc Trung cộng theo lịch sử, theo chân biển cấu trúc, nới rộng từ đất liền như lời tên Ung văn Khiêm nói thì tại sao chúng không dám thiết lập nền hành chánh trên đó trước năm 1975 mà phải đợi đến năm 2007, dù rằng Phạm văn Đồng đã ký giấy thừa nhân chủ quyền của chúng từ năm 1958?)

Tuy thế, qua những liên hệ giữa Việt cộng và Trung cộng, người ta khám phá ra rằng: chuyện Việt cộng dâng Hoàng Sa, Trường sa, Bản Dốc, Nam Quan, Tục Lãm, Lão Sơn và hàng vạn cây số vuông vùng biển bắc bộ cho Trung Quốc vẫn là chuyện nhỏ. Nó được coi là chuyện nhỏ, không đáng quan tâm là bởi vì, ngày nay các cấp lãnh đạo đảng và nhà nước Việt cộng ở Hà Nội xem ra còn khoanh tay, cúi đầu hơn trong việc dẫn Trung Quốc xuôi nam bằng cách thết lập những đặc khu do chúng quản trị ngay trong lòng nội địa Việt Nam. Mở đầu chương trình bàn đạp này là hai vùng chiến lược Đắc Nông và Tân Rai.
Gọi đây là vùng bàn đạp cho Trung cộng xuôi nam và chiếm nước ta là vì hai vùng đất chiến lược này không có văn kiện nào quy định rõ diện tích khai thác chiếm bao nhiêu cây số vuông, cũng không có luật lệ rõ ràng ấn định về quy chế cho những chú khách đến và làm việc trong vùng là bao nhiêu năm và như thế nào. Trái lại, mọi việc đều do phía quan thày Trung cộng quyết định, bọn tay sai ở Hà Nội không được biết đến việc điều hành. Như thế, người ta sẽ phải tự đặt câu hỏi rằng, sau khi hai vùng đất này đã hoàn toàn được Trung cộng giải phóng, “ di dân “ở đây có tiến về Hà Tiên, Cà Mâu, Tây Ninh mở vùng quy hoạch mới, dưới một l lá chắn khác, thay vì cái tên khai thác Bauxite? Hay là chúng sẽ qủay trở về Trung quốc?

Chẳng ai tin là chúng sẽ quay về. Hơn thế, còn biết là việc bị nô lệ tàu không còn xa. Bởi lẽ, hiện nay Trung Cộng, ngoài nhãn hiệu khai thác Bauxite, chúng đã trúng thầu rất nhiều dự án gọi là xây dựng, kiến thiết từ hạ tầng cơ sở đến sản xuất rải đều trên bình diện cả nước. Hầu như chẳng có tình, thành, thị xã nào không có chương trình xây dựng mà nhà thầu Trung cộng không trúng thầu.(bắt buộc là phải trùng thầu rồi, có thằng nào dám ngăn cản đâu) còn có cả hàng chục ngàn, hoặc gỉa, cả trăm ngàn di dân bất hợp pháp Trung cộng đã sang làm ăn và sinh sống rải rác trên khắp mọi vùng của đất nước, mà không có một tên công an hay chính quyền địa phương nào dám đụng đến. Hỏi thử xem, một ngày kia, chúng tụ họp lại vài ba điểm hẹn, rồi đòi được tự trị, hay là hưởng những quy chế riêng như dân tộc ít người thì Việt cộng bảo sao? Việt cộng đã ngăn chặn đàn áp đồng bào thượng, nhưng có dám ngăn chặn và đàn áp đồng bào tàu hay không? Hoạ mất nước hay hoạ bị đô hộ có xa lắm không?Như thế, việc mở rộng chiến tranh vào miền nam trước kia có phải là phưong án mà những thái thú Việt cộng phải thực hiện để trực tiếp giúp Trung cộng xuôi nam theo mộng bành trướng, mở rộng biên giới về phương nam hay không? Chẳng lẽ những “ chuyên viên” di dân Trung cộng này sang đây để xin làm đầy tớ cho bọn Dũng Mạnh Triết Trọng hay sao?

B. Việt cộng và công cuộc tàn phá tại miền nam.
1. Cuộc phá hoại, tạo ra sợ hãi.

Sau năm 1963, người dân miền nam Việt Nam bắt đầu cảm nhận được mức độ chến tranh và nhận ra chữ sợ Việt cộng đã hiện lên trên trán mọi người. Khởi đầu người dân sợ vì tầm vóc chiến tranh lan rộng, nhưng rồi họ tái mặt vì những chuyến xe đò liên tỉnh bị trúng mìn Việt cộng nổ tung trên đường với máu thịt phơi bày. Và người dân quê, đêm đêm đã mất ngũ, rồi mặt đã không còn chút máu khi nghe loan truyền miệng những bản tin Việt cộng về làng, về xóm thôn bắt người nọ người kia dẫn đi. Lại cũng có tin chúng về chặt đầu những viên chức xã, ấp trong những vùng xa xôi hẻo lánh. Đầu người còn phơi, đấp mô ở ngà ba, ở đầu làng, mà quan quân bên ta chưa một ai dám vế giải toả. Rồi thêm những tin tức trên đài phát thanh cho biết trường học náy, nhà thờ kia ăn đạn giải phóng. Kết qủa. chữ Sợ ở trên trán tự nhiên chảy dọc xuống trong tim, trong máu mọi người, Cứ nghe thấy tin Việt cộng mò về chồ nào là dân làng cuốn quần cuốn áo bỏ chạy tản cư, chạy trốn.

Khi chiến tranh chấm dứt. Hết chỗ chạy. Cuộc sợ hãi thành hoảng loạn. Lớp người may mắn, ra đi kịp thời. Lớp quay trở về, nằm chờ thần dao mã tấu giải phóng. Kết qủa, người dân miền nam trở thành những con cá nằm trên thớt chờ những nhát dao băm vằm xuống. Khởi đầu là lệnh tập trung cải tạo cho quân, cán miền nam cơm nắm cơm gói vào tù không một tin hơi. Kế đến là đổi tiền đợt một, đợt hai, đến đánh tư sản mại bản. Dĩ nhiên, không có điều kiện cho kẻ chiến bại, dân miền nam mền ra như sợi bún cho cộng quyền dày xéo.

Nay sau ba mươi năm rồi, lớp trẻ sinh ra hôm ấy đã lớn khôn, trưởng thành. Nhưng nỗi sợ như vẫn còn đeo dính vào người. Hơn thế, bài học về lý lịch như vẫn là một rào cản qúa lớn để người miền nam e dè sợ Việt cộng hơn người ở miền bắc. Điều ấy cũng dễ hiểu, Bởi vì, dù sao thì Việt cộng cũng nhờ cái nôi ấy mà rêu rao chiến thắng. Theo đó, người bảo không sợ Việt cộng chỉ có hai trường hợp. Thứ nhất nói phét, thứ hai ở nhà thương điên.

2. Cuộc phân hóa, mất niềm tin.
Tôi gọi đây là cuộc phân hóa hơn là sự phân hóa. Bởi vì tôi tin rằng cuộc phân hóa thường có tính cách giai đoạn và có nhiều cơ may chấm dứt hơn là sự phân hóa.
Cuộc đảo chính ngày 01-11-1963 nổ ra và kết thúc với cái chết của anh em Tông Thống Ngô đình Diệm, được coi là bước khởi đầu của cuộc khủng hoảng niềm tin của quân dân miền nam trong công cuộc, không phải chỉ là chống cộng, nhưng còn là việc xây dựng một xã hội dân chủ và độc lập nữa.

Theo Liên Thành, cựu trưởng ty cảnh sát Thừa Thiên, người chịu trách nhiệm công tác an ninh ở Húế vào giai đoạn 1966-1974, người đã có nhiều thẩm tra đặc biệt, cũng như có trong tay những báo cáo về những sinh hoạt của một số tu sỹ phật giáo như Thích trí Quang, Thích đôn Hậu, Thich nguyên Trực cho thấy rằng, họ đã theo lệnh của Việt cộng để dẫn Phật Giáo vào con đường không phải do người Phật tử muốn đi. Trái lại, hoàn toàn trái với chức năng và đời sống của nhà Phật cũng như của phật giáo đồ. Chính thành phần này đã tạo ra cuộc biến loạn miền trung từ 1963-66, đã làm phân hóa lòng ngưòi ngay từ trong gia đình, lan rộng đến của Phật và lây lan sang mọi thành phần trong quốc gia. Có thể nói, nhóm này đã gây ra một cuộc phân hóa rất nghiêm trọng trong mọi giới ở miền nam Việt Nam và kẻ hưởng lợi chính là Việt cộng, kẻ thù của dân tộc Việt Nam.

Dĩ nhiên, vào thời gian đó, chuyện họ theo Việt cộng với công tác phá nát niềm tin, an bình của miền nam không mấy ai biết, nếu có biết cũng không một ai dám nói ra. Bởi vì nhóm này tự mặc cho mình cái lớp áo bảo về đạo pháp, và bằng sự điên cuồng, hung bạo, họ có thể khóac cho bất cứ một nhân vật nào đó cái mũ, “ mật vụ của Nhu Diệm”, “đàn áp Phật Giáo” để gây hoạ chết chóc hay tù đày cho nhân vật đó. Đây cũng là một điểm dị thường của những người đã bước vào ngưỡng cửa tu trì, dù là nhà Phật hay bên nhà thờ. Chẳng cần nói đâu xa, ngay phía ôn hoà do thượng toạ Thích Tâm Châu lãnh đạo cũng không dám có phản ứng. Nay sự việc đã phơi bày, mọi người có thể nhìn họ bằng một ánh mắt nghiêm túc, biết về họ như đọc một cuốn sách, nên viết về họ chỉ là một sự nhận định về vai trò, hoặc đánh gía sức phá hoại do họat động của họ hơn là công kích tôn giáo. Tôi tin rằng gia đình phật tử cũng rộng lượng chấp nhận cái nhìn đánh gía này hơn là ôm lòng tự ái vốn dĩ có ở trong mỗi con người, để tạo thêm sự phân hóa không cần thiết.

Cuộc đảo chính của mấy viên tướng tham tiền, mê lợi ở miền nam cũng góp công sức lớn vào việc phá nát niềm tin xây dựng một miền nam trong thái hòa. Vì ấu trĩ họ không biết thế nao là xây dựng, nên chỉ có khả năng phá hoại. Phá hoại suốt một đoạn đường dài từ 63-75. Kết qủa, là đem lại thê lương và phân hóa cho mọi thành phần dân tộc, kể ở cả trong quân đội. Từ đó niềm tin vào cuộc chiến thắng cộng sản giảm dần, Niềm tin vào việc xây dựng một xã hội Tụ Do, Dân Chủ ở miền nam càng ngày càng bị đánh phá, đánh phá từ miền bắc, từ những cuộc biểu tình phản chiến và từ những công cụ “ tranh ăn “ ở miền nam không được thì quay ra hoạt động nằm vùng cho Việt cộng. Và niềm tin vào một ngày mai tười sáng, mà dân miền bắc từng ngửa cổ ngóng trông ấy, đã hoàn toàn chết vào ngày 30-4-1975.

Sau ngày đó, toàn dân đã bị xích hóa dưới vòng xích nô lệ cho cộng sẳn. Người ta không còn thấy các “thầy” Thích Trí Quang, Thích đôn Hậu, Thích Nguyên Trực hô hào phật tử xuống đường bảo vệ đạo pháp nữa, dù rằng không bao giờ có tự do tôn giáo dưới ách bạo tàn Việt cộng. Nhưng người ta chỉ thấy những tên đao phủ của thành phố Huế năm xưa, chúng tồn tại dưới cái dù “bảo vệ đạo pháp” của các thầy như bọn Phan, Tường, Xuân, Cường… vụt sáng lên như những vì sao đỏ máu, nổi lềnh bềnh lên trên bầu trời tội ác đang ra sức tiêu diệt cho bằng hết tình người Việt Nam.
Thảm cho dân tộc tôi! cuộc phân hoá chưa có cơ hội chấm dứt, tình người lại chết ngấm từ bao giờ!

Theo đó, có thể nói một cách không qúa đáng là người Việt Nam đang phải sống một đời làm nô lệ cho cộng sản ở ngay trên quê hương của mình. Là nơi mà những kẻ dấu mặt Việt cộng làm lãnh đạo, chúng đả và đang áp đặt những loại luật lệ không thuộc về thế giới nhân bản của con người để buộc đồng bào ta phải tuân thủ, hòng dìm dập người Việt Nam vào vòng nô lệ cho cộng sản ngoại bang.
Thật vậy, cuộc nô lệ này đã khởi đầu từ miền bắc vào sau ngày 20-7-1954 và đổ úp xuống trên miền nam sau ngày 30-4-1975. Sau những ngày định mệnh rủi ro ấy, người Việt Nam đã phải chấp nhận nguyên tắc bất thành văn của nhà nước Việt cộng là: Không nói, không thấy, không nghe để mà tồn sinh.

1. Không nói: Người dân Việt Nam nếu còn muốn được thở khí trời, là loại không khí trong lành, Trời ban cho muôn vàn sinh vật cũng như cỏ cây dưới ánh nắng của mặt trời được hít thở để tồn sinh thì phải biết một điều là : Không Nói. Nghĩa là không được nói ra bất cứ một điều gì theo ý nghĩ của một con người cần phải nói ra về đời sống. Nhưng phải biết rống lên như những con bò, con ễnh ương, được nuôi trong lồng cũi như những cán bộ đoàn đảng viên của nhà nước đã và đang biểu diễn. Đi trái chiều với nguyên tắc này, thì xà lim, và mùi xú uế trong các nơi ấy sẽ đón nhận họ. Điển hình là trường hợp của LM Nguyễn văn Lý, LS Lê thị Công Nhân, Ls Nguyễn văn Đài, và cả Giám Mục Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám Mục Hà Nội cũng không có ngoại lệ. Hãy nhìn cuộc chúng đấu tố Ngài sau ngày 19-9-2008 thỉ hiểu ra sự thật.

2. Không thấy, Phải sống như những người mù, dù đôi mắt vẫn mở. Hoặc phải biết sờ một ngón tay trước mặt và bảo đó là đỉnh cao chói lọi của cụ hồ, của bác để ôm ấp vào lòng mà hưởng lộc. Hoặc gỉa, hãy như những người mù, để không nhìn thấy bất cứ việc bất nhân bất nghĩa của Hồ của mọi cấp lảnh đạo đảng và nhà nước Việt cộng đã làm thì sẽ được yên thân

3. Không nghe. Hãy gỉa đíếc, coi như không nghe được bất cứ điều gì khác ngoài những điều bác đảng nói thì hy vọng được sống. Được sống thôi, chứ không phải là sống hạnh phúc đâu.

Từ ba nguyên tắc này, ai cũng thấy là: Dưới chế độ cộng sản, tự do nhân bản không thể phát sinh. Trái lại, dưới thể chế tự do, cộng sản tự do sinh sản, nhưng lại không tồn tại.

Cũng thế, sau muôn vàn những bất hạnh vì bị trá tấn, từ tinh thần đến thể xác, thái độ thụ động một thái độ tiêu cực, lỗi thời, tưởng rằng không thể tồn tại trong thời đại khoa học và dân chủ hóa toàn cầu này. Không ngờ, lại là một thái độ chính yếu mà mọi người Việt Nam ngày hôm nay phải biểu lộ. Nóí cách khác, người ta không có chọn lựa nào khác nếu phải sống dưới chế độ duy vật biện chứng. Nghĩa là: người sao ta vậy, chúng nói gì mặc mẹ chúng. Chúng cho gì thì hưởng nấy, chúng ban gì thì nhận nấy. Chúng nói gì nói theo như thế.

Dĩ nhiên, cuộc sống như thế thì không đáng sống vì nó dần dần biến xã hội của ta thành một xã hội phải biết nói láo, lừa đảo nhau mà sống và vì nó sẽ triệt tiêu đời sống luân lý và đạo đức xã hội. Nhưng nói cho cùng, dưới cái chế độ cộng sản thì đạo nghĩa và luân lý xã hội không thể tồn sinh, và người ta vẫn phải sống. Đây không phải là một xã hội mà người Việt Nam ta muốn xây dựng, muốn sống. Nhưng trước cảnh bọn Việt cộng làm thái thú, đày ải người dân làm nô lệ cho ngoại bang bằng muôn ngàn gian trá, người Việt Nam, dù có muốn, cũng chưa thể đổi khác thái độ được. Âu cũng là một điều đáng buồn.

Phần cá nhân, khi viết đôi hàng về thái độ của người Việt ta hôm nay, tôi rơi nước mắt và tôi chỉ viết lên sự nhận xét của tôi, tôi không hề có một sự chỉ trích hay phê phán nào hết, xin qúy độc giả thông cảm cho. Hoặc giả, có những điều chói tai, bất như ý, xin cũng tha lỗi cho vậy.

Bảo Giang.

Hàng made in China

Hàng made in China.

Làm thế nào để phân biệt những sản phẩm được sản xuất tại Mỹ, hoặc ở Philippines, Đài Loan, hoặc ở Trung Quốc?
Dưới đây là cách để biết nguồn gốc cuả các sản phẩm:
Có 3 chữ số đầu tiên của mã vạch xác định mã quốc gia trong đó sản phẩm được thực hiện.
Ví dụ: tất cả các mã vạch bắt đầu bằng 690, 691, 692, vv...
lên đến và bao gồm 695 là tất cả các LÀM TẠI TRUNG QUỐC.
Mã vạch bắt đầu bằng 471 được in trên các sản phẩm xuất xứ Đài Loan.

Bạn có quyền được biết, nhưng chính phủ và ngành liên quan không bao giờ thông báo hoặc giáo dục công chúng.

Hôm nay, các doanh nhân Trung Quốc biết rằng người tiêu dùng sẽ
không lựa chọn sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc. Vì vậy, họ cố gắng
để không làm hiển thị tên của quốc gia sản xuất các sản phẩm
Tuy nhiên, bạn có thể biết được xuất xứ của các sản phẩm nhờ những
số đầu tiên của mã vạch.
Sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc có mã số bắt đầu bằng 690 đến 695.

CÁC MÃ VẠCH:
00 ~ 13 USA & CANADA
30 ~ 37 FRANCE
40 ~ 44 CHLB Đức
49 ~ NHẬT BẢN
50 ~ Vương quốc Anh
57 ~ Đan Mạch
64 ~ Phần Lan
76 ~ Thụy Sĩ và Liechtenstein
628 ~ Ả-Rập Saudi
629 ~ United Arab Emirates
740 ~ 745 - Trung Mỹ
Sản phẩm xuất xứ từ Philippine mang mã số 480
Xin vui lòng thông báo cho gia đình và bạn bè của bạn.
HÃY CẨN TRỌNG KHI MUA THỰC PHẨM-

LƯU Ý LÀ HÀNG TRUNG QUỐC CÓ SỐ MÃ VẠCH BẮT ĐẦU BẰNG CÁC SỐ:
690................
691................
692................
693................
694................
695................

Lê Hiền.

Năm Mão Kể Chuyện Mèo



Năm Mão Kể Chuyện Mèo.

Theo Hán tự, chữ Mão cũng được ta phát âm là Mẹo, tên của chi thứ tư trong 12 địa chi. Theo âm lịch nước ta Mão có con mèo làm biểu tượng, khác với các nước khác dùng con thỏ làm vật chủ của năm Mão. Nhân ngày đầu năm Mão, chúng tôi có cũng cố công tìm hiểu về con vật cầm tinh trong năm này, như “lấy câu chuyện làm quà” Tết, để quý vị biết thêm về con mèo, theo khoa học, trong ngày đầu Xuân mới.

Nguồn gốc loài mèo.

Các nhà khoa học đã tin rằng, giống mèo có nguồn gốc từ một loài động vật nhỏ mà các nhà động vật học gọi là Miacis, đã có từ năm mươi triệu năm trước. Con vật thuộc giống mèo đầu tiên đã xuất hiện trên trái đất cách nay cũng đến bốn mươi triệu năm. Không ai biết chính xác mèo đã được thuần hoá trước tiên tại nơi nào và vào thời điểm nào. Nhưng nhiều tác giả tin rằng mèo nhà là dòng dõi từ một giống mèo hoang Phi châu, do nguười Ai-cập thuần hoá vào khoảng năm 3500 trước Dương lịch. Những con mèo hoang được thuần hoá này đã giúp người giệt các loại chuột và rắn, nên đã ngăn chận được nạn dịch hạch tại các nông trại Ai-cập và bảo vệ được các kho ngũ cốc. Mèo đã trở thành con vật được trọng dụng và người Ai-cập đã vinh danh mèo trong các tranh vẽ và các tác phẩm điêu khắc.

Người Hy lạp và các thương buôn đã đem mèo đến châu Âu và miền Trung Đông vào khoảng năm 1000 trước Tây lịch. Những người cổ Hy lạp và La-mã đã nuôi mèo để giệt loài gặm nhấm. Tại Rôma, mèo đã là biểu tượng của tự do và được coi là thần bảo hộ cho các bà nội trợ.

Từ Trung Đông, mèo được lan đến châu Á, lúc đó mèo được nuôi nhiều để giệt chuột tấn công phá hoại các kén tằm dùng lấy tơ dệt lụa. Người Đông phương hâm mộ vẻ đẹp và sự huyền bí của mèo. Con vật này trở thành chủ đề hấp dẫn các nghệ sĩ và văn sĩ tại Trung Hoa và Nhật Bản.

Thế kỷ thứ 17, châu Âu đi chiếm thuộc địa, các thương buôn đem mèo đến Tân thế giới khoảng những năm 1600 đến 1700. Những năm 1800 dân Mỹ làm một cuộc tây tiến khi mở rộng bờ cõi đến miền Viễn tây, họ cũng mang mèo theo. Như vây hầu hết mèo tại Mỹ và Canada ngày nay đều thuộc dòng dõi của những con mèo từ châu Âu mang đến.

Tại Anh quốc, con mèo đầu tiên đến Luân-đôn vào năm 1871, chỉ 16 năm sau, 1887, Câu lạc bộ Vương quốc Anh về mèo đã được thành lập. Thú vui nuôi mèo được tiến mạnh. Ngày nay việc nuôi mèo thành phổ thông, nên kỹ nghệ cung cấp dịch vụ và phẩm vật cho mèo cũng như cho chủ nhân của chúng đã lên đến hàng tỷ mỹ kim.

Mèo thần mèo quỷ.

Khoàng năm 1500 trước Công nguyên, người Ai-cập đã bắt đầu coi mèo là con vật huyền bí. Họ đã thờ thần tình ái Bastet bằng một pho tượng đồng người phụ nữ có đầu là đầu mèo. Nếu ai giết một con mèo, người ấy sẽ bị tử hình. Khi con mèo họ nuôi bị chết, người Ai-cập xưa cạo đôi lông mày như một dấu hiệu để tang cho mèo. Họ đem ướp xác con mèo đó và chôn cất tử tế. Các nhà khoa học đã tìm được tại Ai-cập một nghĩa địa cổ chôn đến hơn ba trăm ngàn con mèo, đã được ướp xác cẩn thận.

Trái lại với người Ai-cập cổ, người Âu châu thời Trung cổ lại coi con mèo là hình ảnh của ma quỷ. Những người mê tín cho rằng mèo, nhất là mèo đen, là một loại phù thuỷ có pháp thuật và chính là quỷ dữ. Vì những lý do đó mà người ta đã giết đến hàng trăm ngàn con mèo.

Vì sự mê tín mù quáng đó số mèo tại Âu châu đã hầu như tuyệt chủng, mất cân bằng hệ sinh thái. Lũ chuột không còn bị săn bắt nên sinh sôi nẩy nở tràn lan, không gì ngăn cản nổi. Ngoài mùa màng bị phá hại, chuột còn mang dịch bệnh đến sát hại con người, đã có đến một phần tư dân số Âu châu bị tử vong vì dịch hạch, giữa những năm 1300.

Hai, ba trăm năm sau, vào thế kỷ thứ 17, người Âu châu mới bắt đầu nhận thức lại tầm quan trọng của mèo. Có mèo nạn chuột bọ, chồn sóc mới bị chế ngự, lương thực, dịch tễ mới đỡ là mối lo của cư dân. Mèo lại được người ta đón tiếp hoan hô, việc nuôi mèo được cổ võ khuyến khích.

Hình thể cấu tạo con mèo.

Nhiều người hằng ngày tiềp xúc với con mèo, nhưng có mấy ai đã biết rõ về con mèo thế nào. Theo các nhà khoa học thì một con mèo trưởng thành cao khoảng từ 20 đến 25 centimet (từ bàn chân trước đến vai). Đa số mèo cân nặng từ 2,7 kg đến 7 kg. Tuy nhiên có con nặng tới 9 kg, cũng có con chỉ đạt được hơn 2 kg.

Xương mèo: Mèo có bộ xương và lục phủ ngũ tạng giống như ở các động vật ăn thịt khác. Bộ xương mèo có 250 cái xương lớn nhỏ, số xương chính xác mỗi con còn tuỳ theo đuôi nó dài hay ngắn. Xương là khung sườn và là vật che chờ cho các cơ quan nội tạng của mèo. Các bắp thịt của mèo phần lớn là dài, mỏng và dễ đàn hồi, khiến mèo có thể hoạt động dễ dàng và nhanh chóng. Người ta tính tốc độ mèo ở khoàng cách ngắn có thể tới 30dặm một giờ.

Sự sắp đặt của bộ xương và các khớp xương ở mèo khiến nó có thể xoay tứ phía: Khác với những con thú khác, mèo bước đi cùng lúc cả chân trước và chân sau ở mỗi bên, đó là lý do tại sao mèo có thể chạy nhanh như lướt. Khớp nối xương hông mèo khiến mèo dễ dàng nhảy vọt. Các khớp nối đặc biệt khác làm cho mèo có thể quay đầu đến phần lớn các nơi trên thân mình nó.

Chân mèo: Mèo có 4 chân, mới trông chúng ta tưởng chân mèo có 4 ngón, nhưng thật ra hai chân trước mỗi bàn chân có 5 ngón, như ngón tay dể giữ mồi. Ngón như ngón cái ẩn vào trong da, chỉ được giương ra khi bắt con mồi. Mỗi chân sau có 4 ngón, có con có thêm ngón đặc biệt ở cao hơn phía sau, ta gọi là móng huyền đề.. Mỗi ngón chân mèo có một cái móng cong như lưỡi câu, gọi là cái vuốt. Móng vuốt này khi không dùng đến thì mèo giấu vào trong lớp da. Khi mèo muốn giương vuốt ra, một bắp thịt đặc biệt nhanh chóng co lại đễ đẩy cái vuốt ra. Mèo dùng móng vuốt này để leo cây, để bắt con mồi và để tự vệ.

Dưới bàn chân mèo có những cái đệm bằng da dầy, nhờ những cái đệm này, mèo đi nhanh và không gây tiếng động.

Đuôi mèo: Đuôi mèo là do xương sống nối dài, mèo có đuôi dài để giữ thăng bằng. Khả năng thăng bằng của mèo rất giỏi, nó có thể đi trên đỉnh hàng rào hay mép tường hẹp. Khi mèo té, đuôi mèo sẽ uốn lái thế nào cho 4 chân mèo bao giờ cũng đáp xuống đất trước, vì thế mèo luôn được an toàn, mặc dẩu bị té từ nơi cao.

Đầu mèo: Đầu mèo nhỏ, có bộ hàm ngắn, nhưng rất khoẻ, lúc dưới 6 tháng tuổi mèo có 26 cái răng sữa nhọn. Khi được sáu tháng, răng tạm đó được thay thế bằng răng khôn. Mèo trưởng thành cò 30 cái răng để cắn, giữ mồi, đề cắt để xé mồi thành miếng nhỏ. Mèo không có răng hàm để nghiền đồ ăn, nhưng dạ dầy và ruột mèo có thể tiêu hoá đồ ăn chưa được nghiền nát. Lưỡi mèo rất nháp, vì có những gai móc, khiến mèo có thể gặm sạch thịt dính sát xương và giúp mèo dùng lưỡi chải lông cho mượt.

Mũi mèo: Mèo có cái mũi nhỏ hình chữ V Đầu mũi được phủ bằng một lớp da đặc biệt. Da mũi mèo có những mầu khác nhau, da đó luôn ẩm ướt và lạnh. Khi mèo bệnh da mũi nóng và khô.

Mèo có khứu giác rất nhạy bén. Những con mèo con chưa mở mắt vẫn nhận ra được ổ khi lỡ nhoai đi xa, bằng cách đánh hơi biết hướng ổ mà bò về. Để hỗ trợ cho khứu giác, mèo còn có cơ quan đánh hơi ở miệng, giúp mèo phân biệt được mùi gì một cách chính xác.

Mắt mèo: Phần có mầu ở mắt mèo là tròng mất, thường là mầu xanh hoặc vàng, cam, đồng, xanh lá. Mèo có hai tròng mắt mầu khác nhau gọi là mèo có mắt lẻ, có thể là một mắt mầu xanh, một mắt mầu lơ.

Phía sau mỗi con ngươi mèo có một cơ phận đặc biệt như kính soi gọi là bộ phận chỉnh quang, dùng để điều khiển con ngươi cho ánh sáng vào mắt, như ta điểu khiển cho ánh sáng vào máy chụp hình. Bộ phận này điều chỉnh để mắt mèo có thể trông rõ vật trong ánh sáng lờ mờ, hoặc nếu sáng chói, con ngưoi cũng khép chỉnh cho sáng vừa đủ. Bộ phận chỉnh quang cũng làm tăng thêm tầm nhìn của mắt mèo. Trong mắt mèo còn có mí mắt thứ ba ở khoé mắt, khi chớp mí mắt thứ ba chạy trùm hết cà mắt, rồi kéo nhanh về lại khoé mắt, mí mắt thứ ba dùng đề bảo vệ mắt cũng như làm trơn cho tròng mắt.

Tầm nhìn của mèo không được tinh tường như ở mắt người. Nhìn vào mầu sắc, nhưng mèo chì thấy mầu râm và mầu xám. Tuy nhiên mèo có thể chỉnh mắt sáng để giúp nó săn bắt mồi. Nó nhìn được cả trong ánh sáng lờ mờ, nhưng không thấy gì khi hoàn toàn là bóng tối.

Tai mèo: Hai tai mèo ở sát hai bên đỉnh đầu. Mỗi tai đều có thể cử động độc lập. Mèo có thể chỉnh tai cho hướng về phía tiếng động để tiếp nhận nhiều âm thanh hơn. Mỗi tai có thể cùng lúc quay theo hướng khác nhau để mèo phân biệt được âm thanh phía nào gần hơn mà thích ứng.

Tai mèo rất thính, có thể nghe được hầu hết những âm thanh ta nghe được. Ít có con mèo nào lại điếc. Nếu có điếc chăng là thường ở loại mèo trắng, đặc biệt là mèo có mắt lẻ

Râu mèo: Râu mèo là những sợi lông cứng và dài, mọc ở hai bên mép mèo và ở trên mắt mèo, nơi ta gọi là lông mày. Đây là một loại lông có nhiệm vụ đặc biệt như xúc giác ở tay ta. Khi những sợi râu mèo đụng phải vật gì, nó liền báo về óc cho mèo biết. Lông dài trên mắt mèo là để bảo vệ mắt mèo, trong đêm tối khi lông chạm vào đâu mèo liền biết để tránh ngay sang hướng khác.

Đời sống con mèo.

Một con mèo mạnh khoẻ bình thường có đời sống từ 12 đến 15 năm. Có những con mèo sống được 18 hay 19 năm. Đặc biệt có con sống lâu nhất đến 30 năm.

Truyền đời: Khi con mèo cái được từ 5 đến 9 tháng tuổi, mèo đực ở tuổi từ 7 đến 9 tháng, chúng có thể giao phối để truyền giống. Mèo đực có thể gieo mầm sống vào bất cứ thời gian nào trong năm, nhưng mèo cái thường chỉ hứng thú tìm bạn tình trong mùa xuân hay mùa thu. Đây là mùa mèo gặp gỡ tình tứ. Những ngày xốn xang của cô mèo kéo dài từ 6 đến 10 ngày. Nếu không có cơ hội mang thai, cô mèo phải đợi sau ba tuần lể mới có thể tìm vui trở lại. Cô mèo nào trong mùa tình tứ gặp được “tình quân”, cô trở nên trầm tĩnh vì sắp thành mèo mẹ.

Mèo cái mang thai chín tuần lễ. Khi cảm thấy sắp đến ngày đặp bầu, mèo cái tìm nơi nào vắng vẻ, an toàn để xây tổ ấm cho bầy con nhỏ. Thông tường mỗi lứa mèo đẻ từ 3 đến 5 mèo con. Tuy nhiên có trường hợp một con mèo đẻ một lứa tới 14 mèo con. Trong khi mèo đẻ, mèo mẹ tự mình lo cho mèo con chu tất mọi việc mà không cần bất cứ sự giúp đỡ nào.

Mèo con: Phần lớn mèo con mới đẻ chỉ nặng khoảng 99 gam (chừng 3 ounces rưỡi), mèo mẹ liếm lông từng con cho khô ráo, rồi kích thích cho mèo con thở, cũng như cho mèo con cử động. Như loài động vật có vú khác, mèo mẹ cũng nuôi con bằng sữa của mình. Mèo con mới sinh không nghe, không thấy được gì, vì mắt và cả tai chưa mở, nên hoàn toàn lệ thuộc vào mèo mẹ: cho bú liếm dọn cho mèo con sạch sẽ, và đùm bọc cho mèo con. Trong khi mèo đực không hề biết gì đến đàn con nhỏ.

Mèo con cứ thế lớn dần, mỗi ngày đều tăng cân. Sau khi sinh khoảng từ 7 đến 10 ngày mèo con mở mắt. Theo kinh nghiệm của người Việt Nam xưa thì ngày mở mắt của mèo (hoặc chó) còn tuỳ theo số con cùng lứa, đem cộng thêm 10 ngày, như lứa mèo có ba con thì 13 ngày sau khi đẻ, mèo con mở mắt. Sau đó ít ngày tai chúng được mở ra để nghe, và răng chúng bắt đầu mọc cái đầu tiên. Sau ba tuần lễ, mèo con bắt đầu biết đi, chúng nhoai đi làm quen với quang cảnh chung quanh ổ. Mèo mẹ luôn trông chừng chúng và tha chúng về khi chúng đi xa ổ.

Khi được 5 tuần tuổi, mèo con đã mọc gần đủ răng sữa. Chúng bắt đầu tập ăn thức ăn cứng và táp nước. Đó cũng là lúc mèo mẹ cai sữa cho chúng, và chấm dứt không cho bú sau khi chúng được 7 tuần.

Day mèo con: Đối với chủ nuôi, muốn tập cho mèo quen với người thì khi mèo được chừng 4 tuần tuổi, ta nên dùng tay đề tiếp xúc với mèo con, vuốt ve nâng niu trên tay v.v…Những con mèo được cưng chiểu sớm sẽ dễ dạy để trở thành con vật ngoan, không sợ hãi người lạ. Nếu muốn mèo con sau này không sợ chó, cũng cho nó tiềp cận với chó trong tuần tuổi này.

Khi mèo được 6 tuần tuổi, óc và thần kinh của nó đã phát triển đầy đủ, lúc ấy có thể tách khỏi mèo mẹ. Tuy nhiên nếu được, nên để mèo sống chung với mẹ và mèo cùng lứa cho đến khi được 9,10 tuần tuổi thì tốt hơn.

Mèo phát triển về sự khôn khéo được nhiều khi sống chung, chúng học được những kỹ năng ở những con mèo khác. Hơn nữa chúng tiến triển nhanh vài năng khiếu, nhát là về cách săn bắt mồi bằng cách quan sát và bắt chước mẹ nó. Khi được một năm tuổi, mèo thật sự trưởng thành.

Cách mèo giao tiếp.

Mèo giao tiếp với đồng loại, với các con vật khác hay là với người bằng nhiều cách khác nhau. Mèo dùng tiếng kêu, bằng biều hiện của thân thể và bằng mùi đặc biệt của nó làm phương tiện để giao tiếp.

Bằng tiếng kêu: Người ta đã thử nghiệm và thấy rằng mèo có thể phát ra hơn 60 âm thanh khác nhau, từ tiếng gừ gừ nhẹ nhàng tới tiếng ngao ngao to lớn… hay có lúc ta nghe mèo gào như khan tiếng… Những tiếng này phát xuất từ thanh quản ở cổ họng mèo, phát lên khoang mồm. Tiếng mèo được phối hợp giữa âm thanh và độ rung khi âm thanh thoát qua cửa thanh quản, tuỳ theo nhu cầu mà mèo điều chỉnh.

Tiếng kêu của mèo biểu hiện nhiều nghĩa khác nhau tuỳ theo trường hợp: tiếng “meo” có khi là lời chào hỏi, có khi là lời kêu cứu, hoặc kêu khi đói hay lúc cô đơn… Tiếng mèo “gừ gừ” thường tỏ vẻ bằng lòng hay khi bị bệnh mà phải rên lên…Khi mèo gào hay rít lên là tỏ vẻ sợ hãi hoặc giận dữ.

Bằng cử chỉ: Mèo cũng biểu lộ cách giao tiếp như dùng đuôi, dùng đầu, dùng nét mặt…Một con mèo đang thoải mái thường nằm áp ngực xuống và lim dim đôi mắt. Muốn rủ bạn chơi hay tỏ vẻ âu yếm, có con mèo lăn tròn một vòng rồi đưa chân quào quào vào không khí… Để tỏ vẻ sợ hãi hay khi phải tự vệ mèo thường giương vuốt, nhìn chằm chằm, vành tai vảnh lại đàng sau.

Một con mèo thân thiện với người thường làm quen bằng cách vươn cao đuôi, dúi đầu cọ vào chân người, có khi còn liếm tay họ. Một con mèo ngoan ngoãn thường cúi đầu xuống, tai cúp lại và tránh không nhìn thẳng vào người chủ. Trái lại khi con mèo giận dữ, nó quất đuôi qua lại, cong lưng lên, lông xù ra, có thể còn nhăn răng, trợn mắt…

Bằng mùi hương: Mèo cũng tỏ dấu giao cảm bầng mùi hương của nó. Mèo có tuyến mùi hương đặc biệt của nó nằm ở trên trán, ở quanh miệng và ở khấu đuôi.

Mèo tiết ra mùi hương này để đánh dấu người mà nó thích, cũng như các con vật khác mà nó ưa có thẻ chơi đùa, Khi nó chọn đối tượng nào, nó xịt mùi hương của nó vào đối tượng ấy. Mỗi khi nó ngửi được mùi của nó, nó biết đó là đói tượng thân. Chỉ có mèo và một số rất ít con vật khác có thể cảm nhận được mùi hương ấy.

Mèo đực còn dùng nước đái của nó để làm ranh giới lãnh địa của nó, Khi các mèo đục khác thấy mùi bất khả xâm phạm ấy thì nên tránh để khỏi xảy ra tranh chấp.

Người tuổi mèo.

Theo các nhà khoa học thì mèo đã sống chung với con người từ 35 thế kỷ trước Công nguyên. Nói cách khác. người ta đã nuôi mèo từ rất xa xưa, cách nay đến 5.500 năm. Vì dáng điệu con mèo dịu dàng, nhanh nhẹn khôn khéo, coi như nhàn hạ và hiền hậu, nên tổ tiên ta đã chọn con mèo làm biểu tượng cho chi Mão trong 12 địa chi, đề tính thời gian theo âm lịch. Giờ Mão từ 5 giờ đến 7 giờ sáng, giờ con mèo no nê ngơi nghỉ sau khi săn mồi, giờ rạng đông và bình minh của một ngày mới. Ngày Mão thường là những ngày có nhiều điều nên làm mà ít điều cấm kỵ. Tháng Mão là tháng giữa mùa Xuân, thời tiết mát mẻ cây cối đâm chồi nẩy lộc xanh mầu xanh non lá mới, cũng là tháng mà mèo cái xốn xang muốn được truyền giống. Năm Mão là năm thứ bốn theo cách tính âm lịch, qua chu kỳ 12 năm lại tới năm Mão, năm có vũ điều phong thuận, khiến nhà nông được mùa, không phải cái cảnh “năm Thìn năm Tỵ, chị chẳng nhìn em”.

Chi Mão có con mèo cầm tinh, nên để đoán thời vận cho người tuổi mão, người ta tìm ra những tính nết của con mèo, rồi bàn rộng ra áp dụng cho cái gọi là vận mệnh của người sinh năm mão. Trong 12 con giáp, mèo là con vật dịu dàng nhất. Ảnh hưởng của thiên nhiên vũ trụ dường như cũng theo chu kỳ mà lặp lại, khiến cho người sinh ra trong năm Mão tuy không thuộc loại nghiêng nước nghiêng thành, nhưng lại toát ra một khí chất đặc biệt, rất dịu dàng, không thích gây gỗ, luôn mong muốn mọi người đều là bạn, nên cũng được nhiều người thương mến. Tuy nhiên, người tuổi mão cũng rất hiếu động, quyết không ngồi yên khi họ bị chèn ép, mà ngay lập tức họ có phản ứng thích hợp. Đó là một số những nhận xét của những nhà tướng số khi đoán vận mệnh cho người tuổi mão, tin hay không tin là tuỳ theo nhận thức của từng người.

(Tài liệu dựa theo Tự diển World Book)
Tri Chi.

Trung Tâm Sài Gòn 'Run Bần Bật' Vì Ðộng Ðất




Cao Ốc Trung Tâm Sài Gòn 'Run Bần Bật' Vì Ðộng Ðất.

Khoảng 14 giờ 30 chiều 26-1, nhiều du khách, nhân viên đang ở, làm việc tại các khách sạn, cao ốc ở trung tâm Sài Gòn bỏ chạy ra khỏi tòa nhà vì cảm nhận nền nhà bị rung lắc, đồ đạc trong phòng bị lắc lư, chao đảo.

Khu vực quận 1, Sài Gòn tập trung nhiều cao ốc nên người dân cảm nhận rõ nhất sự rung lắc, chao đảo. Gần một giờ sau dư chấn, một số nhân viên các tòa nhà Diamond Plaza, Centec, WASECO Building (cùng thuộc quận 1) vẫn tập trung trước tiền sảnh, chưa dám lên lầu.

Một người làm việc tại cao ốc Centec kể: phòng làm việc rung bần bật, các bóng đèn, đồ đạc treo trong phòng bị rung lắc. Tôi tưởng mình bị hoa mắt, chóng mặt nhưng ngay sau đó có nhiều tiếng la “động đất” nên tôi theo cầu thang bộ rời khỏi tòa nhà.

Một người khác (ngụ quận Tân Bình) thuật lại: Tôi đang đi xe máy trên đường Cộng Hòa thì thấy người bị rung, cứ như có người từ phía sau đâm trúng xe mình. Đến khi về tới công ty, nghe mọi người bàn tán, tôi mới biết đó là do dư chấn động đất.

Ông Lê Ngọc Tài (ngụ phường 1, quận Bình Thạnh) cho hay, đang xem phim, bỗng thấy căn nhà rung, cứ tưởng ai đập tường không ngờ đó là dư chấn động đất.

Tại khu vực vườn hoa phía sau nhà thờ Đức Bà (quận 1) có khá nhiều du khách nước ngoài tập trung. Một hướng dẫn viên du lịch thuộc Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn (Saigon Tourist) cho biết, đó là những du khách đăng ký trú tạm một số khách sạn cao tầng, do tòa nhà bị rung lắc nên bỏ ra ngoài và chưa dám quay trở lại phòng.

Không chỉ khu vực Sài Gòn, trên nhiều diễn đàn, mạng xã hội, người dân các tỉnh, thành phía Nam như Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Thuận, Long An khẳng định cảm nhận rõ dư chấn. Chị Lan (ngụ TP Biên Hòa, Đồng Nai) cho biết, tòa nhà nơi chị làm việc bị rung lên khiến nhiều người giật mình.

Nhiều người khẳng định động đất làm xuất hiện hai đợt dư chấn, trong đó đợt sau mạnh nhất, kéo dài khoảng 5 giây.

Theo thông cáo chính thức từ Viện Vật lý Địa cầu, lúc 7 giờ 24 phút 30 giây (giờ GMT) tức 14 giờ 24 phút 30 giây (giờ Hà Nội) ngày 26 – 1, một trận động đất có cường độ 4.7độ Richter xảy ra ở ngoài khơi biển Vũng Tàu tại tọa độ 9,94 độ vĩ Bắc, 108, 33 độ kinh Đông, dưới độ sâu khoảng 10km.

Tâm chấn động đất cách TP Phan Thiết 113 km và cách Sài Gòn 200km. Động đất gây ra rung động cấp 5 (theo thang MSK-64) ở khu vực ngoài khơi biển Vũng Tầu. Nhiều người trong đất liền gần chấn tâm động đất cảm thấy được và đồ vật treo bị đung đưa.

Viện Viện Vật lý Địa cầu khẳng định đây là trận động đất yếu, không có khả năng gây thiệt hại và hiện nay đang được Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo có sóng thần.

Hà Anh.

Bệnh Quái Lạ







Bệnh Quái Lạ vì Nước Máy Hà Nội-Sài Gòn-Cà Mau Nhiễm Ðộc.

Thời gian gần đây VN có nhiều chứng bịnh ung thư rất kỳ lạ mà các Bác si ở VN cũng bó tay không biết bịnh gì đành phải gọi "bịnh lạ", và con số viêm mũi, viêm họng càng ngày càng gia tăng khủng khiếp !!!

Những chứng bịnh nổi lên ngoài da như thế này thì chúng ta thấy được, nhưng những chứng bịnh ung thư đang âm thầm hành hạ trong cơ thể thì sao ???!!!

Hệ thống thoát nước thế nào chúng ta đã biết rồi, vậy thì hệ thống nước sạch,
nước máy mà người dân Sàigon sử dụng hàng ngày như thế nào? Hànội thì còn tệ hơn Saigon nhiều. Dù sao Sàigon còn văn minh nhất VN nên cũng tốt hơn các thành phố kia gấp mấy lần.

Nước, chúng ta có từ nhà máy nước, vậy nhà máy nước lấy nước cho chúng ta sử dụng hàng ngày từ đâu ra? chúng ta nên thắc mắc và tìm tòi vì với nước này mình tắm, đánh răng, rửa mặt, xúc miệng, nấu ăn cho gia đình, chúng ta biết rỏ là nước không phải vặn vòi là có từ đó nhưng nó phải từ đâu chạy vào hệ thống nước này.

Ngọc Anh.

Quà Lạ Ngày Tết Ở VN






Quà Lạ Ngày Tết Ở VN.

Bưởi Hồ lô với dòng chữ Tài, Lộc hai bn có giá bán phổ biến từ 450.000 đồng đến hơn 1 triệu đồng một cặp.

Năm nay, ngoài hai loại bưởi thông thường, còn có bưởi hồ lô loại VIP với trọng lượng trên 1,5 kg một quả, giá đắt hơn so với bưởi loại một khoảng 30- 50%. Dù giá đắt, nhưng vẫn có khách gọi điện đến đặt hàng. Mới đưa tin rao vặt lên được khoảng 4 ngày, số đơn hàng đăng ký mua bưởi hồ lô đã lên đến gần hai chục.

Khách mua hàng chủ yếu làm quà biếu Tết cấp trên hoặc người thân trong gia đình, cũng có người mua về bày trên bàn thờ vào dịp Tết. Khách mua thích vì loại quà này độc đáo, kiểu dáng lạ, đẹp và được cho là sẽ mang lại an bình, may mắn trong năm mới.
Hình dáng hồ lô của quả bưởi là nguyên nhân khiến loại quả này hút khách. Nhiều người quan niệm, hồ lô là biểu tượng của sự ấm no và an lành. Trong phong thủy hồ lô là vật để hóa giải hung khí và tăng cường sức khỏe nên người ta cố tìm mua về trưng trong nhà dịp Tết để cầu ấm no, tài lộc.

Dưa hấu hình vuông cũng là mặt hàng hút khách trong dịp Tết vài năm trở lại đây vì kiểu dáng độc đáo, lạ mắt.

Giá bưởi tăng so với năm ngoái, ly do lấy từ vườn đã cao nên cũng phải bán tăng lên, loại bưởi hồ lô chế từ bưởi Năm Roi đã là 300.000 đồng một cặp. Năm nay vì nhập hàng giá phải bán cao lên. "Nghe đồn cả vườn mới có được khoảng 4.000 quả, nhiều người mua quá nên giá cao lên cũng là điều khó tránh".

Quà Tết "độc" và hút khách trong thời gian qua trên các chợ còn kể đến loại dưa hấu hình vuông, hình thỏi vàng do nông dân Trần Thanh Liêm (phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ) sáng tạo.
Giá bán một cặp dưa thỏi vàng một, hai năm trước chỉ khoảng 2 triệu đến 3 triệu đồng một cặp. Nhưng dịp Tết năm nay, trên các chợ, giá dưa đã đẩy lên đắt gấp đôi, gấp ba.
Giống dưa Kim Hồng vỏ vàng ruột đỏ cân nặng từ 2,2 đến 2,4 kg có giá bán lên tới 6 triệu đến 6 triệu 500 nghìn đồng.
Loại nhẹ cân hơn, giá rẻ hơn khoảng 500.000 đồng một cặp. Dưa hình vuông giá rẻ hơn dưa hình thỏi vàng, chỉ từ 3 triệu đến 3 triệu 500 nghìn đồng một cặp. Đây là loại dưa được nén lại trong khuôn hình vuông, ruột đỏ vỏ vân xanh hoặc vàng đều, dán thêm giấy điều thì giống như hình chiếc bánh chưng ngày Tết.

Dưa hấu hình thỏi vàng vỏ vàng ruột đỏ được quan niệm sẽ đem lại tiền tài trong năm mới có giá bán khá cao, có khi lên tới 6 triệu 500 nghìn đồng một cặp.

Nguyễn Xuân.

Ông Phản Ðảng Cò Mồi-Hòa Hợp Hòa Giải

Ông Phản Ðảng Cò Mồi-Hòa Hợp Hòa Giải.

Cứ mỗi lần trong nước có “sự cố” xảy ra có thể làm lung lay chế đô là cứ y như rằng từ bên xứ Phú-lang-sa tiếng kèn “hoà giải, hòa hợp” từ “ông phản đảng cò mồi” của chế độ miền Bắc và ông kỹ sư bắt “tổ quốc phải ăn năn” của chế độ miền Nam lại cất lên. Và từ “melting pot” Hoa Kỳ, ông lý thuyết gia của tổ chức “miệng hô hòa giải mà miệng nói phục hưng nước nhà” lại trỗi lên “tiếng sáo Trương Lương” để hòa tấu cứ y như là khúc “tiếu ngạo giang hồ” giữa Khúc Dương Trưởng Lão của Ma giáo và Lưu Chính Phong của Chính giáo trong truyện kiếm hiệp “Tiếu Ngạo Giang Hồ” của Kim Dung!

Nhưng mà “HÒA GIẢI, HOÀ HỢP” là cái gì vậy?

Tại sao cái gọi là bọn “Việt kiều phản động”, bọn đã từng bị Đảng và Nhà Nước ta gọi là “bọn đĩ điếm, trộm cướp, bọn ôm chân thực dân, đế quốc” dạo nào, bây giờ lại được Đảng và Nhà Nước trìu mến gọi là “khúc ruột ngàn dặm” đa số lại không chiụ “hoà hợp hòa giải”?

Chuyện gì kỳ cục vậy?

Nhớ cách đây mấy năm, “nhà chống Đảng” Hoàng Minh Chính được bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi bảo lãnh ra hải ngoại chữa bệnh tiền liệt tuyến, ông hô hào “Tiểu hội nghị Diên Hồng” gồm 3 bên, 4 phía với sự phụ hoạ của các đảng phái ở Bắc California rất là rôm rả; nhưng, rốt cuộc cũng chả ra làm sao cả khi ông này “bị” ông Kiêm Ái, Tổng Thư Ký của tuần báo Tiếng Dân phỏng vấn và “trong phút sự thật” đã phải xác nhận “BÁC HỒ CÓ TỘI” vì đã ra lệnh cho Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Cộng.

Nhưng mà HOÀ GIẢI, HOÀ HỢP là cái gì vậy?

-Hòa giải có nghĩa là giải hòa, giàn xếp cho êm.

-“Hòa hợp” còn gọi là “hoà hiệp” là thỏa thuận sống chung như: Vợ chồng hòa hợp, hai nước hòa hợp.

Chỉ là mấy chữ dản dị nhưng khi dùng NHƯ MỘT CHIÊU BÀI lại sinh ra lắm chuyện.

Chuyện hoà giải, hoà hợp không phải tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam mới có. Cũng không phải tới bây giờ, đầu tháng 9 năm 2010 mới có, mà chiêu bài này đã có ngay trước khi:

“Tin đâu như sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần!” (thơ Bút Tre)

-HÒA GIẢI, HOÀ HỢP TỪ THỜI “CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT”:

Chiêu bài kêu gọi hòa giải, hoà hợp giữa những “đảng viên cũ” và “những đảng viên mới” đã có sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất được Sửa Sai.

Theo sách “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc”, học giả Hoàng Văn Chí đã viết về chuyện Hòa Giải Hoà Hợp trong dịp Sửa Sai trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất như sau:

“Trong khi cố gắng vỗ về nhưng “đảng viên cũ” bằng cách đền bồi cho họ một vài thiệt hại tinh thần hoặc vật chất mà họ đã phải chịu đựng một cách oan uổng, Đảng vẫn cố tình che chở các “đảng viên mới”, vì chính những đảng viên này mới thực sự thuộc thành phần vô sản. Đảng thấy cần thiết phải có một số “vô sản chính cống” để trang trí cho cái mà Đảng mệnh danh là “vô sản chuyên chính”. Lý do thứ hai mà Đảng muốn có một số “thiên lôi chỉ đâu đánh đấy” để bảo vệ Đảng phòng khi có những phong trào chống Đảng do những phần tử khác gây nên.

Trong ba năm làm mưa làm gió trong xã thôn, các “đảng viên mới” được mặc sức hà lạm nên dân chúng rất oán ghét. Vì họ thiếu học nên họ chỉ hành động theo những kích thích tự nhiên. Do đó, Đảng cho rằng họ là những thành phần dễ chìu và đáng tin hơn những phần tử phi vô sản đã gia nhập Đảng vì lý tưởng. Những “đảng viên cũ” đã giúp Đảng rất nhiều nhưng vì họ là những con người “lý tưởng” nên rất có thể mắc phải những “khuynh hướng sai lầm”. Còn bần cố nông thì trái lại không cần lý thuyết mà chỉ biết lợi cho bản thân. Ngày nào mà họ còn quyền lợi thì họ vẫn trung thành với Đảng. Do đó, Đảng thấy cần thiết phải bắt hai nhóm đố kỵ lẫn nhau phải hoà giải, hoà hợp chung sống hòa bình và hợp tác với nhau.”

Nhưng, theo bài phóng sự “Sau Những Ngày Sóng Gió” đăng trong báo Thời Mới xuất bản ở Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 19 tháng 4 năm 1957 thì:

“Sau 7 năm, dù Đảng đã nhận sai lầm, dù báo Đảng cố viết để khêu gợi tình đồng chí “lần đầu tiên… họ cùng nhịp giơ cánh tay trái lên chào lá cờ Đảng” nhưng, Đảng không biết rằng họ “giơ tay cùng một nhịp” chứ lòng của họ đã lạc nhịp từ lâu!”

-HOÀ GIẢI, HOÀ HỢP TỪ 30 THÁNG 4 NĂM 1975 ĐẾN NAY:

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, thay vì kêu gọi HOÀ GIẢI, HOÀ HỢP thì Đảng phát động chiến dịch tập trung cải tạo đem giam hàng trăm ngàn quân, công, cán, chính của .

miền Nam vào các trại tù tập thể mà họ đã sơn phết bằng mấy chữ hoa mỹ “trại cải tạo”; kế đó là đuổi dân đi “Vùng Kinh Tế Mới” và phát động chiến dịch đánh tư sản mại bản (đúng ra phải gọi là hành động “cướp ngày” của Đảng CSVN đối với dân miền Nam) v.v… Khi mọi việc xong xuôi thì Đảng mới lên tiếng kêu gọi… hòa giải, hoà hợp đưa ra chiêu bài ĐỔI MỚI, XOÁ BỎ HẬN THÙ để xây dựng đất nước!

-Năm 1993, cố Thủ Tướng VC Võ Văn Kiệt đến Paris kêu gọi người Việt hải ngoại “hãy thôi đứng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ để tranh đấu thì tiếng nói sẽ có trọng lượng hơn [sic!]”.

Và, gần đây nhất, Thứ Trưởng Ngoại Giao VC Nguyễn Thanh Sơn “nhờ” Dân biểu Liên Bang Cao Quang Ánh “nói giúp” để ông ta có cơ hội “nói chuyện phải quấy?” với người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại.

Trong quá khứ, đã có những ông trí thức “bạc đầu, đen óc” ra rả kêu gọi hòa giải, hoà hợp.

-Năm 1991, một ông giáo sư và là một nhà văn đã từng đoạt giải thương Văn Chương Toàn Quốc của chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà là nhà văn Nhật Tiến đã in sách “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” đem về nước xum xoe bợ đỡ VC; nhưng báo chí VC đã viết như sau:

“Thật là lố bịch, những kẻ đã từng làm bồi bút phục vu chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam trước đây, khi nhân dân phá bỏ chế độ thực dân năm 75, thì chạy trốn ra nước ngoài sống lưu vong, tiếp tục phản bội lại lợi ích dân tộc. Họ đã tự nguyện nhận tiền, nhận vàng, đô-la của các thế lực quốc tế, tự nguyện làm công cụ thực hiện mọi mưu đồ chính trị đen tối của chúng, nay lại tự nhận mình là bạn đồng hành đi tìm tự do, dân chủ với những người cầm bút trong nước, những người từng vào sinh ra tử với sự sống còn của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ”

Thật đau đớn! Thật bất ngờ cho những kẻ xin xỏ để hoà giải, hoà hợp để xây dựng đất nước với VC mà lại bị chúng chê là hôi mùi thực dân, đế quốc. Vậy mà vẫn cứ lao đầu vào mà xin xỏ hoà giải, hòa hợp!

-Năm 1993, trong Đại hội Việt kiều lần thứ nhất, có ông cố giáo sư “bạc đầu, đen óc” Phó Bá Long làm thơ con cóc:

“Mười tám năm rồi các bạn ơi
Lòng tôi chua xót dạ bồi hồi!”

Làm thơ con cóc xong ông ta lại xin (cố) Thủ Tướng VC Võ Văn Kiệt “ban” cho nhân dân miền Nam một cái “luật đại xá”. May mà ông Thủ Kiệt chưa ban “lệnh đại xá” thì ông giáo sư này đã biết thân ba chân, bốn cẳng chuồn về Mỹ và chết già ở tại đây.

-Năm 2004, lại một ông giáo sư “bạc đầu, đen óc” là ông Lê Xuân Khoa viết sách kêu gọi hòa giải hoà hợp, xóa bỏ hận thù để xây dựng lại đất nước.

-Gần đây, giọng kèn, tiếng sáo “hoà giải hòa hợp” lại trổi lên.

Xin không kể đến những vị đã từng lãnh đạo chế độ Việt Nam Cộng Hoà, chỉ huy Quân Lực VNCH lại đi làm nhục cái chế độ mà mình đã lãnh đạo, làm nhục cái quân đội mà mình đã chỉ huy, phản bội lại những người lính đã là những kẻ đã phải hy sinh mạng sống để các ông ấy “nhất Tướng công thành vạn cốt khô” như các ông Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm.

Xét cho cùng, đây chỉ là CHIÊU BÀI để nhà cầm quyền VC lần lần xâm nhập vào cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại và họ sẽ tung tiền cho bọn tay sai, nằm vùng tìm mọi cách lũng đoạn cộng đồng, dùng chính sách “củi đậu nấu đậu” cũng như thủ đoạn “minh cưu” để phá nát các cơ chế cộng đồng, cho tay sai và bọn nằm vùng mua chuộc các vị dân cử người Mỹ gốc Việt thực hiện những mưu đồ chính trị của họ.

Tình trạng phân hóa cộng đồng tại Nam Bắc California, tại Houston là những thí dụ điển hình.

Phần nào, VC đã bước đầu thành công vì sự tiếp tay của một thiểu số trí thức hoạt đầu, hèn hạ bất cố liêm sỉ. Và nhất là bằng tiền bạc, bằng rỉ tai tuyên truyền xảo trá làm dư luận trong cộng đồng hoang mang. Và nhất là bọn âm binh, tên ma tuổi quỷ kết bè, kết phái gây rối loạn ảo trên các diễn đàn và các báo điện tử. Và nhất là hiện nay, những tên tay sai, nằm vùng đã lộ mặt ngang nhiên thách thức công đồng người Việt tỵ nạn cộng sản với những cơ quan truyền thông như báo, đài phát thanh, đài truyền hình công khai trình chiếu những chương trình của đài tuyền hình VTV4 của VC ở trong nước

HOÀ GIẢI HOÀ HỢP chỉ là một chiêu bài lừa bịp của VC.

-Với chiêu bài “hòa giải hòa hợp” sau chiến dịch Sửa Sai Cải Cách Ruộng Đất cách đây hơn 50 năm, VC đã dùng trò “vắt chanh, bỏ vỏ” để những “đảng viên mới” và “đảng viên cũ” “giết nhau, ghìm nhau” để Đảng thủ lợi!

Giữa những đảng viên của họ với nhau mà Đảng còn lừa bịp như thế thì thử hỏi đối với những kẻ mà báo chí của họ gọi là BỌN HÔI MÙI THỰC DÂN, ĐẾ QUỐC – như họ đã gọi ông nhà văn “bạc đầu, đen óc” thì Đảng và Nhà Nước sẽ đối xử như thế nào?

Tất cả những gì đến từ VC đều là những trò trí trá, gian xảo. Hơn lúc nào hết, người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại cần phải tỉnh táo trước những âm mưu, thủ đoạn HÒA GIẢI HÒA HỢP của VC mà bọn “bồi thần” (*) của chúng đang ra rả kêu gọi từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, từ năm này qua năm khác.

Nguyễn Thiếu Nhẫn.

Du Ðảng Việt Nam Trở Thành MAFIA

Du Ðảng Việt Nam Trở Thành MAFIA.

Các tập đoàn cho vay nợ nặng lãi bên trên sự qui định của pháp luật đã mướn các tay dung đãng phần lớn đến từ Việt Nam và Ðài Loan đến Singapore để sách nhiễu các con nợ cứng đầu.

Các kẻ cho vay nợ lãi cắt cổ đã đi thuê du đãng ở nước ngoài với hy vọng họ có thể không bị khám phá để bắt vì những người này đến đây với các chiếu khán nhập cảnh du lịch ngắn hạn và cũng có thể không có chỗ ở nhất định.Các kẻ cho vay nợ lãi cắt cổ đã đi thuê du đãng ở nước ngoài với hy vọng họ có thể không bị khám phá để bắt vì những người này đến đây với các chiếu khán nhập cảnh du lịch ngắn hạn và cũng có thể không có chỗ ở nhất định.

Theo tin của cảnh sát, trong năm 2010, có 50 người phần lớn đến từ Ðài Loan và Việt Nam hoạt động cho các tổ chức cho vay cắt cổ, đã bị bắt. Năm 2009, chỉ có 22 người đã bị cảnh sát bắt.

“Bọn du đãng hoạt động cho các chủ nợ cho vay cắt cổ thường được tuyển dụng từ nước ngoài. Họ thường lưu lại Singapore chỉ một thời gian ngắn và có thể không có chỗ ở nhất định.” Cảnh sát Singapore cho báo chí biết như vậy trong buổi thuyết trình hàng năm về tình hình tội phạm ở địa phương.

Bọn du đãng của các tổ chức cho vay cắt cổ thường sách nhiễu các con nợ trả trễ hạn bằng cách đổ sơn lên nhà hay bêu xấu công khai bằng cách viết tên, địa chỉ, số nhà và điện thoại của kẻ nợ tiền trên tường các khu tòa nhà cao ốc.
Trong một số trường hợp quá quắt, chúng còn quăng phân người hay thú vật, nước tiểu hay dầu hôi lên bậc cửa nhà hoặc hộp thư của con nợ.

Phụ tá cảnh sát trưởng Hoong Wee Teck, giám đốc Sở Ðiều Tra Hình Sự, cho hay các tập đoàn cho vay cắt cổ “đã lầm lẫn khi cho rằng họ có thể qua mặt được luật pháp bằng cách đưa các người ở nước ngoài đến để phạm pháp theo ý họ muốn.”

Cho vay bất hợp pháp và sách nhiễu là các tội hình sự ở Singapore. Lần đầu tiên, người ta thấy có tin ở một xứ rất nhỏ và luật pháp nghiêm minh như Singapore lại cũng có những tổ chức cho vay cắt cổ, và lại còn sử dụng cả du đãng ở nước ngoài để đòi nợ.

Trần Hùng.

Ðài BBC Tiếng Việt Ngưng Làn Sóng Phát Thanh

Ðài BBC Tiếng Việt Ngưng Làn Sóng Phát Thanh.

Sau hơn nửa thế kỷ phát sóng truyền thanh tiếng việt vào VN, Đài BBC chương trình Việt ngữ chính thức ngưng phát thanh. Và sẽ chỉ còn trang mạng trên Internet.
Bản tin từ Đài BBC hôm Thứ Tư 26-1-2011 đã viết như sau.

BBC Tiếng Việt cùng 12 ban ngôn ngữ khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nga sẽ ngừng phát chương trình trên làn sóng ngắn từ tháng 4 năm nay để tập trung vào truyền thông trên Internet.

Trong buổi công bố kế hoạch tiết kiệm ngân khoản và cải tổ toàn diện cho các ban ngôn ngữ hôm 26/1 tại London, Ban lãnh đạo BBC World Service đưa ra dự án ngưng toàn bộ các chương trình radio truyền thống bằng tiếng Việt và 12 ngôn ngữ khác.
Đây là thay đổi chiến lược lớn nhất từ trước đến nay, với tác động lâu dài cho sự hiện diện của đài BBC ở các thị trường nước ngoài.

Hiện chương trình trên sóng ngắn của BBC Tiếng Việt là 15 phút mỗi ngày, nhưng toàn bộ nội dung và cả các phần âm thanh như phỏng vấn, lời trích được phát và lưu trữ đều đặn trên mạng Internet ở địa chỉ bbcvietnamese.com.

Các ban ngôn ngữ khác trong nhóm 13 ngôn ngữ sẽ đóng cửa chương trình phát thanh hiện vẫn có nhiều giờ trên sóng ngắn hơn ban tiếng Việt, ví dụ như tiếng Trung là 4 giờ mỗi ngày.

Phát thanh từ 1952, chương trình trên sóng của BBC Tiếng Việt mà lúc cao nhất là 1 tiếng 30 phút mỗi ngày đã trả qua nhiều bước thăng trầm cùng cuộc chiến Việt Nam và thời kỳ hậu chiến.

Tuy nhiên tác động của việc đưa tin qua sóng ngắn giảm đi khi xu hướng truyền thông toàn cầu chuyển sang mạng Internet.
Ngược lại, nhờ chủ động đầu tư, phát triển từ 5 năm qua, trang bbcvietnamese.com hiện có trên 20 triệu lượt người đọc mỗi tháng, có tác động mạnh vào loại hàng đầu trong toàn các ban ngôn ngữ của BBC về Internet.

Các tiêu chí về bài dạng video, hay tin nhắn qua điện thoại di động cũng tăng đều, 17-20 phần trăm trong vòng 12 tháng qua trên trang này.
Ngoài nhu cầu tiết kiệm chừng 30 phần trăm ngân khoản của BBC Tiếng Việt trong vòng ba năm tới thì BBC nhận thấy rằng phát triển thông tin qua mạng toàn cầu là tương lai của ngành truyền thông.

Đây là cách BBC sẽ áp dụng để tác động đến những thị trường như Việt Nam, Trung Quốc hay Ấn Độ hiện vẫn có vị trí quan trọng dù không phải là cốt yếu về an ninh như vùng Trung Đông hay Thế giới Hồi giáo vốn chiếm vị trí số một.
Trước hết về bối cảnh chung, BBC Thế giới vụ trong vòng ba năm tới khi vẫn còn là bộ phận của BBC lớn nhưng nhận khoản tiền của Bộ Ngoại giao Anh, phải tiết kiệm 20 phần trăm ngân sách.

Từ 2014, các ban ngôn ngữ sẽ về với BBC chung, vừa về mặt ngân sách, quản lý và về địa điểm.
Từ năm sau, các ban ngôn ngữ, gồm cả tiếng Việt sẽ chuyển về một toà nhà mới cùng BBC nội địa tại khu Tây London.

Tuy nhiên, trong đợt cắt giảm này, các ban phát thanh tiếng Macedonia, Albania và Serbia sẽ bị đóng cửa, cùng với ban tiếng Anh cho khu vực Caribbean và tiếng Bồ Đào Nha cho khu vực châu Phi, nhằm tiết kiệm 46 triệu bảng Anh/năm.

Tổng Giám đốc BBC, ông Mark Thompson nói đây là "một ngày đau đớn cho BBC" sau khi có công bố chính thức là chừng 650 nhân viên sẽ mất việc tại các bộ phận quốc tế thuộc World Service.

Ðỗ Minh.

Nụ Cười Tất Niên

Nụ Cười Tất Niên.

Tết đến nhà kia đủ thứ kiêng
Sắm chi cũng sợ gánh ưu phiền
Mua chuối: sợ làm ăn khó "ngóc"
Mua lê: sợ mách lẻo xóm giềng
Mua bom: sợ suốt năm toàn "nổ'
Mua xoài: sợ thiếu thốn triền miên
Mua cam: sợ âm thầm chịu đựng
Mua táo: sợ rồi bón cả niên
Ô hô ! đã vậy đừng sắm sửa
Trụi lủi trụi lơ, khỏi tốn tiền.

hahaha! chí lý chí lý!

Vậy thì bàn cúng sẽ trống không
Chỉ cần bình lọ với bó bông
Dưa thì cũng sợ dây dưa mãi
Bánh tét sẽ bị rách cả năm
Xin xâm lại càng nên kiêng cữ
Vì ngại năm mới sẽ bị xiêng
Sầu riêng càng nên không dám rớ
Măng cụt thì bị ngẹt ngõ ra
Ngoài ra cần cử trái thanh long
Bởi vì vận số sẽ long đong
Trái tắc lại càng nên kiêng đấy
Bế tắc mọi điều xui cả năm
Bánh ít không được ăn ngày Tết
Cử gì đây nữa hỡi người ơi!!!

Xuân đến Xuân đi, ba ngày Tết
đở lo bánh trái, mừng ra phết
thôi thì ta chưng hoa với quả
Cầu cho Đủ Xài khỏi lo xa!

Vũ Khiêm.

mandag 24. januar 2011

Đa Ðảng Hay Là Chết?

Đa Ðảng Hay Là Chết?

1 – Độc đảng là tự diệt.

Sau 70 năm cai trị đất nước, ngày nay người cộng sản mới thấy rằng đã đưa đất nước đi “chệch hướng”, và đưa đầu vào ngõ cụt. Sau bao nhiêu năm tự hào và cướp công của toàn dân trong công cuộc chiến đấu giành độc lập, rồi độc quyền tự áp đặt chế độ XHCN lên đầu toàn dân Việt Nam trong khi cả ông cán bộ lão thành nhiều huy chương như cụ Tô Hải còn chưa ai hỏi cụ có chọn XHCN không thì huống hồ gì người dân bình thường mà bảo rằng ý dân. Theo nhận định của luật sư Lê quốc Quân một nhà trí thức trẻ thì:

“Đảng đã từng chui vào cái rọ XHCN và thấy sắp chết ngạt nên quyết định “ đổi mới” chui ra, càng chui ra càng khen mình tài giỏi”.

Cựu trung tá Trần anh Kim, nguyên bí thư tỉnh ủy Thái Bình hiện đang thọ án tù vì chống đảng, ông đã nói về cái đảng cộng sản của ông như sau:

“Khi đảng hình thành, họ thu nạp phần lớn kẻ khố rách áo ôm, kém học vấn, rất vô văn hóa, rồi đảng dạy cho lũ cốt cán cách “vu oan gía họa”, “ngậm máu phun người”…Những thành phần trên được tập hợp lại thành một tổ chức gọi là “Đảng cộng sản Việt Nam”.

“Thời kỳ đổi mới, đảng CSVN lộ nguyên hình là một đảng ăn cướp. Hành vi ăn cướp của đảng càng ngày càng thô thiển, trắng trợn, dã man, tàn bạo… sự suy đồi về đạo đức cũng ngày càng tồi tệ!”.

Cái lạc hậu của đảng CSVN là đã chưa tìm được con đường nào đưa đất nước tiến lên cho xứng tầm thời đại. Con đường “tiến lên” XHCN đã quá mù mờ, ngay cả những nhà cách mạng trí thức lão thành cũng không định hình được nó là cái chủ nghĩa gì. Giáo sư Trần Phương, nguyên phó thủ tướng chính phủ đưa ra nhận xét về CNXH và chủ nghĩa Mác-Lênin trong dự thảo cương lĩnh như sau:

“Ông đưa ra một cái cương lĩnh, cương lĩnh tức là cái đảng này phải tiến lên đến đâu, nó đi theo con đường nào.Thế mà cương lĩnh của ông, ông nói chủ nghĩa Mác-Lênin, thì chủ nghĩa Mác-Lênin có điều đúng và có điều sai, nhất là những dự đoán của Mác và Lênin về cái gọi là CNXH, sai rồi mà rõ ràng là thực thi 70 năm đã thất bại rồi”.

Cái lỗi lầm trước tiên của đảng CSVN là chủ trương gian dối trong mọi hành động. Tất cả từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên đều gỉa dối, ngay cả trong tiểu sử của ông Hồ chí Minh cũng đã gỉa dối lừa gạt cả dân tộc và lừa gạt cả thế giới như tướng Trần Độ trong “ Nhật ký Rồng Rắn” viết:

“Chế độ này bắt con người phải đóng trò, bắt tất cả các trẻ con phải đóng trò, bắt nhiều người gìa phải đóng trò. Đặc điểm này đã góp phần quyết định và việc tạo ra và hình thành một xã hội dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn gỉa dối, giáo dục dối lừa, bằng cấp gỉa dối, đến gia đình cũng lừa dối, lễ hội lừa dối, tung hô lừa dối, hứa hẹn lừa dối. Ôi, cay đắng thay!”.

Trong bài “Việc hệ trọng hàng đầu hiện nay” của tiến sĩ Nguyễn thanh Giang có dẫn lời ông Bùi đức Lai, nguyên cán bộ Ban tổ chức TW đảng cho chúng ta thấy rằng cái độc quyền của đảng CSVN đã đưa đất nước và dân tộc đi “chệch hướng”, sau bao nhiêu năm đau thương bây giờ trở về cái “man rợ” cũ trong khi tư bản đã chỉnh đốn và tiến xa như sau:

“Đã có một bộ phận miệng nói XHCN, nhưng chân bước đi theo con đường man rợ mà chủ nghĩa tư bản bắt buộc phải đi qua vào một thời điểm lịch sử khác, trong giai đoạn tích lũy ban đầu: bóc lột, tàn phá thiên nhiên, bóc lột sức lao động, chiếm đoạt đất đai, của cải, tài sản nhà nước, lũng đoạn quyền lực. Đối với nó, XHCN là một khái niệm hoàn toàn trống rỗng, nhưng nó muốn lợi dụng đến cùng để che đậy bản chất thật và trục lợi, trước khi công khai xé bỏ hoàn toàn khi đủ điều kiện”.

Bám trụ độc đảng, độc tài, độc đoán nên đảng đã không còn được đảng viên hay nhân dân nể trọng nữa và đảng CSVN chỉ còn là cái hình nộm cho miệng thế chê cười như giáo sư Lê Nhân thầy của Nguyễn phú Trọng và Nguyễn khoa Điềm trong bức thư gửi hai học trò cũ, ông viết:

“Đảng của chúng mày là cái đảng gì mà đểu gỉa khốn nạn, lưu manh phản động, mà căm thù con người, muốn huỷ diệt dân tộc và nhân loại như thế hởi bọn quỷ vương mang mặt người do con hồ ly tinh đào tạo kia?”.

Sai lầm của đảng CSVN là kết tình hữu nghị với Trung quốc qua 16 chữ vàng, tình hữu nghị này không hữu hảo chút nào. Trung quốc đã không ngừng bành trướng qua những thái độ hống hách, hung hăng của kẻ bá quyền muốn làm bá chủ biển Đông và toàn khu vực Đông Nam Á châu này. CSVN vì muốn bảo vệ đảng mà cam tâm làm tay sai cho giặc, cúi đầu thần phục thiên triều, tội này rất lớn. Tội thứ hai là tham nhũng lãng phí phá hoại nền kinh tế quốc gia, do đó mà một cao trào đòi lại quyền dân tộc tự quyết, giành lại quyền làm chủ đất nước để cùng nhau ra sức bảo vệ. Bọn bào thủ chỉ biết còn đảng còn mình nên chúng không thể tự cải tổ hay tự trả lại quyền lãnh đạo đất nước về tay nhân dân mà phải theo như luật gia Lê hiếu Đằng, hiện là Phó chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc UBTƯMTTQVN nói:

“Cách làm ăn của chúng ta liệu có khác gì thời kỳ tư bản man rợ: xua đuổi nông dân để chiếm đất, bần cùng hóa một bộ phận dân cư để công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bàn tay lông lá của các tập đoàn lợi ích ngày càng thọc sâu vào các chính sách quốc gia. Thật hết sức đáng lo. Lòng dân đang bất an, dân không thể tiếp tục tin yêu chế độ nếu tình hình cứ tiếp tục thế này.

“Toàn dân không thể thụ động ngồi chờ chính quyền thay đổi. Trong đời hoạt động của mình tôi luôn được dạy rằng: không có người cai trị nào tự nguyện bỏ quyền lực, ghế ngồi của mình. Dân chủ chỉ có được qua đấu tranh”.

Trong một bài phát biểu của linh mục Phan văn Lợi từ Huế được phát thanh qua đài Little Saigon ở California ngày 22-7-2007, ông đã hùng hồn kêu gọi giải thể chế độ cộng sản bạo tàn:

“Tố cáo trước nhân dân Hoa kỳ cái tập đoàn CS đầy tội ác, kết án trước hoàn vũ năm châu cái lũ cầm quyền CS lắm bạo hành. Nhưng không chỉ có thế. Chúng ta sẽ hun đúc quyết tâm, củng cố ý chí giải thể cho bằng được chế độ Cộng sản gian tà độc ác đang từng ngày tàn phá quê hương, hà hiếp dân lành, tiêu huỷ sinh lực giống nòi và đẩy đất nước đến chỗ tuyệt diệt”.

Hơn ba năm sau cũng tại nơi nầy, linh mục Nguyễn văn Lý, một nhà tu kiên cường bất khuất cũng đã cất tiếng kêu gọi giải thể chế độ cộng sản:

“Hôm nay, ngày Hòa bình thế giới đầu năm 2011, hỡi toàn thể Đồng bào, mỗi người hãy góp một tay, quyết tâm hiệp lực chấm dứt vĩnh viễn chế độ cộng sản phi nhân, bạo tàn, gian manh để cùng giúp nhau thiết lập một Chế độ Dân chủ Hòa bình, Đạo đức, Nhân ái cho Dân tộc Việt Nam”.

Hòa nhịp cùng tiếng gọi của hai nhà tu yêu nước, lão thành cách mạng trí thức Tô Hải cũng đã lên tiếng kêu gọi giải tán đảng cộng sản Việt Nam, cái đảng mà cụ đã trọn đời phục vụ nhưng cuối cùng cái đảng đó không đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân như cụ từng ấp ủ nên ông vô cùng bức xúc:

“Các vị không tin vào quần chúng là khi chính các vị tuyên bố Giải tán đảng Cộng sản thì sẽ được hàng triệu người kể cả những đảng viên từ lâu rồi không dám nhận mình là đảng viên hoan hô, hưởng ứng nhiệt liệt”.

Tiến sĩ luật Cù huy Hà Vũ, trong một lần trả lời phỏng vấn của Thomas Việt trên diễn đàn Dân Luận ông đã hiên ngang cách khẳng định lời báo tử cho đảng CS độc tài:

“Nếu đảng cộng sản mà không bỏ điều bốn Hiến pháp thì việc đó đồng nghĩa với cái chết. Cái chết đó không còn bao lâu nữa, cái chết đó trước hết đến với ban lãnh đạo đảng cộng sản. Đảng cộng sản đừng có nghĩ rằng đã vơ vét được nhiều rồi đến khi chế độ cộng sản sụp đổ thì họ trở thành những ông chủ mới”.

2 – Đa đảng là tự sát.

Đứng trước sự băng hoại của đảng CSVN và sự tan rã của khối cộng sản Liên xô và các nước Đông Âu, ông Trần xuân Bách, một ủy viên BCT`sớm nhận ra là cần phải đổi mới theo lời của ông Vũ cao Đàm kể lại:

“Về kinh tế thị trường, anh Trần xuân Bách luôn khẳng định, đó là con đường duy nhất dẫn đến dân giàu nước mạnh, về đa nguyên chính trị, anh luôn khẳng định, đó là một đảm bảo thực tế cho việc hình thành một nền kinh tế thị trường thực thụ, và con đường tất yếu khắc phục sự mất dân chủ trong xã hội, xóa bỏ những nhóm độc quyền thao túng chính quyền”.

Ông Trần xuân Bách đã đi một bước hơi sớm làm chạm vào quyền lợi của đám bảo thủ nên ông đã bị khai trừ một cách không thương tiếc. Một con én chưa làm nên mùa xuân nhất là vị TBT Nguyễn văn Linh lúc đầu thì ủng hộ ông, nhưng sau rồi rút lại sự ủng hộ đó làm cho ông đơn thương độc mã gánh chịu mọi hậu quả đắng cay. Tuy nhiên đề nghị của ông đã làm cho bọn bảo thủ đâm lo mất đảng và mất địa vị nên kể từ đó từ ngữ đa nguyên đa đảng đã trở thành cấm kỵ, họ đã ra lệnh cho quốc hội mà thực chất là “đảng hội” năm 1992 ghi vào hiến pháp Điều 4 để giành quyền cho một mình đảng cộng sản cai trị đất nước mà không có đảng nào nữa cả, nhưng khả năng của đảng CSVN hiện nay theo cụ Trần Lâm thì:

“Không ai trong nhóm cầm quyền có những tố chất của một chính khách: toàn đảng hiện nay lỏng lẻo đến mức chỉ còn những người cầm quyền; bao nhiêu năm vẫn giữ đất nước trong vòng lạc hậu; nếu để tiếp tục cầm quyền thì nhất định nước ta sẽ bị nước ngoài thôn tính”.

Đảng CSVN lợi dụng cái điều 4 hiến pháp này để làm ô dù cho nhóm lợi ích tự tung tự tác. Đứng trước tình thế ngày càng bi đát, ngày càng lộng quyền của đảng CSVN, nhiều nhân sĩ trí thức, những nhà tôn giáo đồng thanh lên tiếng yêu cầu bỏ điều 4 này để cho toàn dân tham gia điều hành đất nước chớ không đóng khung chỉ có mấy tên trong bộ sậu CS thay nhau mà đè đầu cỡi cổ nhân dân. Linh mục Chân Tín, người đã từng chống chế độ VNCH nay ông lại chống chế độ cộng sản và kêu gọi:

“Phải huỷ bỏ hiến pháp năm 1992 vì nó vô gía trị, không phản ảnh ý muốn của toàn dân. Nó chỉ do sự độc quyền của đảng CSVN nặn ra và được các dân biểu được đảng chỉ định chấp thuận làm theo chỉ thị của đảng.

“Thiết lập đa đảng đa nguyên để mọi người dân được tự do chọn lựa một chế độ chính trị và nói lên những đòi hỏi chính đáng của mình”.

Trước cao trào đòi đa nguyên đa đảng, mấy lão già nguyên là TBT đảng CSVN như Đỗ Mười sợ bi khui vụ cầm nhằm 1 triệu mỹ kim hồi còn tại chức, Lê khả Phiêu thì sợ bị khui vụ qua Tàu bị mấy á xẩm dụ ký hiệp định dâng đất dâng biển cho Tàu cộng, chẳng những thế hằng năm cứ mỗi độ xuân về đàn em tấp nập quà cáp để ông dưỡng già. Hai ông sợ rằng bọn đàn em để mất đảng không còn ai bảo vệ sẽ sớm theo vợ chồng chủ tịch Rumani Ceaucescu lên đoạn đầu đài hay nhẹ hơn như TBT Đông Đức Erich Honecker bị lôi ra tòa lãnh án khi thống nhất mất đảng.

Vì quá bức xúc và nhiều trăn trở với nhiều âu lo cho số phận của dân tộc Cụ Trần Lâm thổ lộ tâm tình qua bài viết “Chia hai là nhân đôi” của tiến sĩ Nguyễn thanh Giang ông nói:

“Việc thiết lập thể chế đa đảng, là việc làm không thể đừng được. Ta hiện nay suy thoái nặng nề không lối thoát, còn có con đường nào khác đâu. Cả thế giới một đường một mình ta một hướng thì quả thật là quá lạ, mà cái hướng của ta lại mù mờ, ngay cả nội bộ cũng không thông suốt. Thiết lập thể chế đa đảng là việc làm sáng suốt, một lựa chọn đúng đắn”.

Trước đây trong quá khứ hồi còn Hồ Chí Minh thì lực lượng giải phóng cũng đã có sự tập hợp của các đảng phái ngoài đảng cộng sản. Và Sau khi thống nhất đất nước mãi đến năm 1988 thì đảng cộng sản tranh công và ép hai đảng Xã hội và đảng Dân chủ đã cùng sát cánh trong thời chống Pháp, chống Mỹ phải tự giải tán với lý do là nhiệm vụ đã hoàn thành, thế mới biết trò vắt chanh bỏ vỏ hay còn gọi là hột múi cắn hai cục đường nuốt tuốt. Do đó tiến sĩ Cù huy Hà Vũ phát biểu:

“Tôi khẳng định đa đảng là truyền thống của Việt Nam từ trước cho đến nay. Tuy nhiên tôi vẫn lên án sự độc tài của đảng CSVN.

“Nên mục tiêu đấu tranh của tôi, cái đầu tiên là buộc nhà cầm quyền Việt Nam phải thực hiện đa đảng”.

Khát vọng đang nguyên đa đảng đã ngày càng lộ rõ, những nhà lãnh đạo bảo thủ sợ rằng một ngày nào đó đảng sẽ bị giải tán thì không còn chỗ dựa trước khi về cõi nên họ đã hè nhau lên tiếng chống đối và bảo vệ quyền độc đảng. Ông Đinh thế Huynh, ủy viên ban chấp hành TW đảng đã hùng hổ lên tiếng “tử thủ độc đảng”:

“Việt Nam không có nhu cầu đa nguyên đa đảng và dứt khoát không đa nguyên đa đảng.”

Để đáp lại cao trào đòi bỏ điều 4 hiến pháp năm 1992 thì Nguyễn minh Triết vội vã lên đài truyền hình VTV3 hô hào và khẳng định:

“Dù ai có nói ngã nói nghiêng, dù có ai muốn bỏ điều 4 hiến pháp gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố: tự sát”.

3 – Đổi đảng là tự tồn.

Theo tiến sĩ Nguyễn thanh Giang thì tuy không rõ rệt, nhưng trong thực tế đảng CSVN đã tồn tại hai phe: bảo thủ và cấp tiến.

Phe bảo thủ thì ngày nay được lãnh đạo bởi một tân TBT là Nguyễn phú Trọng, người vừa được đảng CSVN để cử là vì có tinh thần “ thân” Trung quốc của ông được đảng đánh giá cao.

“Ngày nay “phe bảo thủ” biểu hiện bởi đường lối đối nội kiên trì CNXH, đường lối ngoại giao thần phục Trung quốc;“phe cấp tiến”biểu hiện bởi đường lối đối nội đổi mới triệt để, đường lối đối ngoại hướng theo thế giới tiên tiến”.

Đứng trước sự chọn lựa, độc đảng cũng chết, đa đảng cũng chết, như vậy đảng CSVN cần sáng suốt và can đảm tìm ra một sinh lộ tuy khó khăn nhưng có thể an toàn và danh dự. Theo sự ấp ủ của cụ Trần Lâm, người đảng viên già nhiều ưu tư cho vận mệnh đất nước thì điều chuyển đổi nhẹ nhàng là tách đảng CSVN ra làm hai để đảng chọn lọc, cái xấu sẽ bị đào thải và cái tốt sẽ được tồn tại trong cộng đồng đa đảng, cụ giải thích:

“Tách ra là một biện pháp một chủ trương táo bạo nhưng giữ được ổn định xã hội. Luật pháp giữ nguyên, bộ máy giữ nguyên, mọi hoạt động vẫn bình thường, sự thay đổi sẽ từ từ theo một chiến lược rõ ràng từ toàn trị sang đa nguyên đa đảng là môt sự tiệm tiến lấy nâng cao dân trí làm gốc.

“Đảng tách ra làm hai là đảng vẫn còn, đảng chấm dứt độc tài, độc đoán, độc quyền chân lý Đảng sẽ là đảng của dân tộc, của nhân dân một cách đích thực. Đảng mạnh lên, đất nước phồn vinh, dân tộc có chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc tế”.

Cụ Tô Hải thì rất mạnh dạn kêu gọi giải tán đảng CS độc tài toàn trị nhưng cụ vẫn thấy được nhu cầu trước mắt là đảng CS phải thay đổi cách làm, cách nghĩ và tự lột xác để sinh tồn nên cụ cũng vẽ đường cho hươu chạy:

“Đổi tên đảng cộng sản thành đảng Nhân dân hoặc đảng Dân chủ, đảng Cần lao, đảng Xanh, đảng Tím, đảng Vàng gì đó. Lẽ tất nhiên điều lệ, đường lối, tiêu chí của đảng các vị sẽ phải thay đổi, nhưng đó là chuyện sau.

“Hô hào động viên mọi ngưòi tài trí gia nhập đảng mới của chính các vị hoặc thành lập những đảng khác để cùng nhau tranh cử một quốc hội không do“đảng” cơ cấu, chỉ định rồi bắt dân đi bầu nữa!”.

Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang, nhà trí thức thường âu lo cho vận mệnh của nước nhà, ông đã dũng cảm ra “báo lậu” để nói lên ý nguyện của toàn dân, trong bài “Đa nguyên đa đảng là tất yếu” ông đã diễn đạt lại cái ý của Nguyễn văn An như sau:

“Ông không chỉ phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn cho rằng:“Chính những người cộng sản chân chính cũng muốn giải tán đảng đã biến chất để xây dựng đảng mới, để sửa lổi hệ thống, để làm lại từ đầu”.

Luật sư Lê quốc Quân, nhà trí thức trẻ cũng vẽ ra cho đảng CSVN một lối thoát nhẹ nhàng và ôn hòa để ra khỏi sự bế tắc hôm nay, trong bài “Đảng cộng sản cần canh tân”, ông viết:

“Năm Canh Dần và Tân Mão là thời điểm để chúng ta sám hối và Canh Tân. Là đảng cầm quyền lãnh đạo dân tộc, đảng CS phải đi đầu trong nhiệm vụ khó khăn nhưng tốt đẹp đó”

“Hiến pháp mới phải mở rộng tối đa nhân quyền và phải được cụ thể hóa chi tiết trong các điều luật. Tên đảng phải thay và tên nước phải đổi. Các điều luật lập lờ, nước đôi, tối nghĩa phải triệt để loại bỏ. Luật hội, luật biểu tình, luật trưng cầu dân ý vốn đã bị “quy hoạch treo” tại điều 69 của hiến pháp gần 20 năm nay phải được nhanh chóng ra đời”.

Đảng CSVN nên nhớ rằng phải canh tân theo công thức: bình mới rượu “pha”. Giải pháp ổn định nhất là thành lập một đảng mới với tinh thần Dân chủ Nhân dân, mục tiêu phục vụ Tổ quốc và Dân tộc, dứt khoát đoạn tuyệt với CNXH mù mờ, phải hoàn toàn lột xác, phải chấp nhận đa nguyên trong đảng, còn về tên đảng là gì tôi không lạm bàn miễn không phải là cộng sản. Những đảng viên trong đảng mới này không phân biệt thành phần, giai cấp xã hội nào miễn họ có tâm có lòng phục vụ đất nước. Đảng phải biết lắng nghe và cứu xét cẩn thận những lời phản biện với thực tâm “nói và làm” chớ không phải “nói và lờ”, không chụp mũ, trả thù, trù dập và phục vụ theo nguyện vọng đích thực của toàn dân, mọi nhân quyền phải được thực thi theo đúng tinh thần luật pháp của nhà nước và công pháp quốc tế, không được vụ lợi cá nhân bao che bè phái. Như vậy, trước mắt đảng sẽ tập hợp được sự đoàn kết của dân tộc, và lúc bấy giờ dù có đa nguyên đa đảng gì đi nữa đảng cũng vẫn sống mạnh sống hùng.

Đây là việc cần làm ngay chớ không cần làm ngơ.

Đại Nghĩa.

Tuyên Cáo Của Chính Phủ VNCH 1974

Tuyên Cáo Của Chính Phủ VNCH Liên Quan Tới Hoàng Sa (1974).

Ngày 19/1/1974 trong trận hải chiến không cân sức diễn ra giữa hải quân Trung Quốc với hải quân Việt Nam cộng hòa đang canh giữ quần đảo Hoàng Sa, 58 người lính Việt Nam Cộng Hòa đã ngã xuống nhưng không giữ được biên cương của Tổ Quốc.

Bắc Việt khi đó đã giữ im lặng cả lời nói lẫn hành động để người “anh em” phương Bắc chiếm giùm Hoàng Sa. Sự im lặng đó còn kéo dài nhiều thập niên sau cho tới khi có loạt bài của Bùi Thanh đăng trên báo Tuổi Trẻ (năm 2007) dư luận trong nước mới biết tới trận chiến oanh liệt và những hy sinh của phía Việt Nam Cộng Hòa trong việc bảo vệ lãnh thổ của ông cha.

Sắp tới ngày 19/1, chúng tôi sẽ giới thiệu một số tư liệu, bài viết liên quan tới Hoàng Sa để rộng đường dư luận và như một nén nhang thắp cho những người đã ngã xuống vì đất nước.

TUYÊN CÁO CỦA BỘ TRƯỞNG NGOẠI GIAO VIỆT NAM CỘNG HÒA VỀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG GÂY HẤN CỦA TRUNG CỘNG TRONG KHU VỰC ĐẢO HOÀNG SA
(Ngày 19.1.1974)

Nguyên văn:

Sau khi mạo nhận ngày 11.1.1974 chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng – Sa và Trường-Sa của Việt Nam Cộng-Hòa, Trung cộng đã đưa Hải-quân tới khu vực Hoàng- Sa, và đổ bộ quân lính lên các đảo Cam -Tuyền, Quang -Hòa và Duy -Mộng.

Lực lượng Hải -quân Trung -Cộng gồm 11 chiến đỉnh thuộc nhiều loại và trọng lượng khác nhau, kể cả một tàu loại Komar có trang bị hỏa tiễn.

Để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền an ninh quốc gia trước cuộc xâm lăng quân sự này, các lực lượng Hải quân Việt-Nam Cộng-Hòa trấn đóng trong khu vực này đã ra lệnh cho bọn xâm nhập phải rời khỏi khu vực.

Thay vì tuân lệnh, các tàu Trung-Cộng, kể từ 18.1.1974, lại có những hành động khiêu khích như đâm thẳng vào các chiến đỉnh Việt-Nam.

Sáng ngày nay, 19.1.1974 hồi 10 giờ 20, một hộ-tống hạm Trung-Cộng thuộc loại Kronstadt đã khai hỏa bắn vào khu vực hạm “Trần Khánh Dư” mang số HQ-04 của Việt-Nam Cộng-Hòa. Để tự vệ, các chiến hạm Việt-Nam đã phản pháo và gây hư hại cho hộ tống hạm Trung Cộng. Cuộc giao tranh hiện còn tiếp diễn và đang gây thiệt hại về nhân mạng và vật chất cho cả đôi bên.

Các hành động quân sự của Trung Cộng là hành vi xâm phạm trắng trợn vào lãnh thổ Việt-Nam Cộng-Hòa, và một lần nữa vạch trần chánh sách bành trướng đế quốc mà Trung Cộng liên tục theo đuổi, đã được biểu lộ qua cuộc thôn tính Tây Tạng, cuộc xâm lăng Đại Hàn và Ấn Độ trước kia.

Việc Trung Cộng ngày nay xâm phạm lãnh thổ Việt Nam Cộng-Hòa không những chỉ đe dọa chủ quyền an ninh của Việt Nam Cộng Hòa mà còn là một hiểm họa đối với nền hòa bình và ổn cố của Đông Nam Á và toàn thế giới.

Với tư cách một nước nhỏ bị một cường quốc vô cớ tấn công. Việt Nam Cộng Hòa kêu gọi toàn thể các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình trên thế giới hãy cương quyết lên án các hành vi chiến tranh thô bạo củaTrung Cộng nhằm vào một quốc gia độc lập và có chủ quyền để buộc Trung Cộng phải tức khắc chấm dứt các hành động nguy hiểm đó.

Làm ngơ để cho Trung Cộng tự do tiến hành cuộc xâm lấn trắng trợn này là khuyến khích kẻ gây hấn tiếp tục theo đuổi chánh sách bành trướng của chúng và sự kiện này đe dọa sự sống còn của những nước nhỏ đặc biệt là những nước ở Á Châu.

Trong suốt lịch sử, dân tộc Việt Nam đã đánh bại nhiều cuộc ngoại xâm. Ngày nay, Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa cũng nhất định bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia.

(Tài liệu ronéo của Bộ Ngoại Giao, Sài Gòn, Số 015/BNG/ TTBC/ TT)

TUYÊN CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA TRÊN NHỮNG ĐẢO Ở NGOÀI KHƠI BỜ BIỂN VIỆT NAM CỘNG HÒA

Nguyên văn:

Nghĩa vụ cao cả và cấp thiết của một chánh phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của quốc gia. Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết làm tròn nghĩa vụ này, bất luận những khó khăn trở ngại có thể gặp phải và bất chấp những sự phản đối không căn cứ dầu phát xuất từ đâu.

Trước việc Trung Cộng trắng trợn xâm chiếm bằng vũ lực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa thấy cần phải tuyên cáo long trọng trước công luận thế giới cho bạn cũng như thù biết rõ rằng:

Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là những phần bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền của mình trên những quần đảo ấy.

Chừng nào còn một hòn đảo thuộc lãnh thổ ấy của Việt Nam Cộng Hòa bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình.

Kẻ xâm chiếm phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi tình trạng căng thẳng có thể do đó mà có.

Trong dịp này, Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên những hải đảonằm ở ngoài khơi bờ biển Trung Phần và bờ biển Nam Phần Việt Nam, từ trước tới nay vẫn được coi là một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa căn cứ trên những dữ kiện địa lý, lịch sử, pháp lý và thực tại không chối cãi được.

Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những đảo ấy bằng mọi cách.

Trung thành với chánh sách hòa bình cố hữu của mình, Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết bằng đường lối thương lượng những vụ tranh chấp quốc tế có thể xảy ra về những hải đảo ấy, nhưng nhất định không vì thế mà từ bỏ chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên những phần đất này.

Làm tại Saigon, ngày 14 tháng 2 năm 1974.
.
Nguồn: Tập san Sử Địa, tập 29.

Bộ Luật Ứng Xử Tại Biển Đông

ASEAN-Trung Quốc Sẽ Bàn Về Bộ Luật Ứng Xử Tại Biển Đông.

Ngoại trưởng của ASEAN và Trung Quốc sẽ họp trong hai ngày 24 và 25/1 tại Côn Minh, Trung Quốc và trong cuộc họp này, họ cũng sẽ bàn về việc thiết lập một bộ luật ứng xử trên Biển Đông nhằm duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực quần đảo Trường Sa đang có tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam và một số nước ASEAN khác. Cuộc họp này do Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì triệu tập nhân kỷ niệm 20 năm hợp tác Trung Quốc-ASEAN.

Trong một buổi tiếp tân ngày (21/1) nhân Tết Nguyên đán sắp tới, đại sứ Trung Quốc tại Manila cho biết là các giới chức trong nhóm làm việc về bộ luật ứng xử sẽ soạn thảo văn bản này dựa trên các biện pháp được nêu ra trong bản Tuyên bố chung về Nguyên tắc Ứng xử trên Biển Đông ( DOC ) năm 2002.

Trong bản tuyên bố ký vào năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã cam kết giữ nguyên trạng quần đảo Trường Sa. Mặc dù đã ký tuyên bố DOC, nhưng Trung Quốc vẫn đẩy mạnh việc xây dựng các cơ sở quân sự trên quần đảo Trường Sa, khiến các nước có liên quan phản đối và đòi phải thương lượng bộ luật ứng xử tại Biển Đông, một văn bản có tính chất ràng buộc hơn.

Ngày (21/1), đại sứ Trung Quốc tại Manila khẳng định là Bắc Kinh vẫn ủng hộ một bộ luật ứng xử trên Biển Đông dựa trên thỏa thuận mà nhóm làm việc sẽ đạt được. Nhưng bộ luật này có vẻ khó mà thành hiện thực do Trung Quốc vẫn bác bỏ những điều khoản mà các nước ASEAN đề nghị cho bộ luật. Trở ngại chủ yếu vẫn là Trung Quốc vẫn không muốn thương lượng với ASEAN với tư cách một tập thể, mà chỉ chấp nhận thương lượng với riêng từng nước ASEAN có liên quan đến tranh chấp chủ quyền.

Ngày 17/01/11, Ngoại trưởng Indonesia, quốc gia hiện giữ chức chủ tịch luân phiên của ASEAN, đã thúc giục Trung Quốc và các nước Đông Nam Á gấp rút đạt đến thỏa thuận về bộ luật ứng xử trên Biển Đông, vì theo ông, nếu không làm gì, tình hình sẽ thêm phức tạp.

Thanh Phương.

Truyền Thống Gia Ðình Trong Đảng

Truyền Thống Gia Ðình Trong Đảng.

Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam vừa bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 200 tên.

Trong đó, có một số tân ủy viên là con các lãnh đạo cao cấp. Một số người được dư luận nói đến, một số người khác gần như ít biết.

Điểm qua các nhân vật được gọi nôm na là "Hạt giống đỏ" trong Ban Chấp hành lần này, có Nguyễn Thanh Nghị (ủy viên dự khuyết), con trai của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Nông Quốc Tuấn, con trai của Tổng Bí thư khóa X Nông Đức Mạnh; Nguyễn Chí Vịnh, con trai Nguyễn Chí Thanh; Phạm Bình Minh, con trai cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch; Nguyễn Xuân Anh (ủy viên dự khuyết), con trai ủy viên Bộ Chính trị khóa X Nguyễn Văn Chi; Trần Sỹ Thanh (ủy viên dự khuyết), cháu Nguyễn Sinh Hùng và Nguyễn Thị Kim Tiến, cháu ngoại Hà Huy Tập.

Trần Sỹ Thanh hiện là Phó Bí Thư Tỉnh Ủy Đăk Lăk. Nguyễn Chí Vịnh là Trung tướng, Thứ trưởng Quốc phòng.

Phạm Bình Minh là Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao và Nguyễn Thị Kim Tiến là Thứ trưởng Bộ Y Tế, người được cho có nhiều cơ hội lên thay Nguyễn Quốc Triệu, người không trúng cử ủy viên trung ương lần này.

Một nhân vật khác xuất thân từ gia đình cao cấp là ủy viên trung ương Trần Bình Minh, Phó Tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, con trai nguyên Tổng Giám Đốc Đài Tiếng nói Việt Nam Trần Lâm.

Ủy viên Trung ương:
Nông Quốc Tuấn, Bí thư Bắc Giang
Nguyễn Thanh Nghị (dự khuyết), Phó hiệu trưởng Đại học Kiến trúc TP HCM
Nguyễn Kim Tiến, Thứ trưởng Y tế
Phạm Bình Minh, Thứ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng
Trần Sỹ Thanh (dự khuyết), Phó Bí thư Đăk Lăk
Nguyễn Xuân Anh (dự khuyết), Bí thư Quận Liên Chiểu, Đà Nẵng
Trần Bình Minh, Phó TGĐ Đài Truyền hình Việt Nam
Người được chú ý nhiều là tiến sỹ Nguyễn Thanh Nghị, 35 tuổi, con trai của Nguyễn Tấn Dũng.

Nguyễ Thanh Nghị được bầu bổ sung ngay tại Đại hội vào vị trí Ủy viên dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.

Sau khi lấy bằng tiến sĩ ngành kỹ sư công chánh (xây dựng) ở Đại học George Washington ở Washington, Nguyễn Thanh Nghị về Việt Nam và trở lại công tác tại trường cũ là Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh.

Ban đầu làm Trưởng ban Sau đại học và Quan hệ quốc tế của nhà trường, rồi nhanh chóng lên chức Phó Hiệu trưởng.

Cùng trẻ tuổi, và cũng là trẻ nhất trong số ủy viên dự khuyết, còn có Nguyễn Xuân Anh, con trai cựu Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Chi.

Nguyễn Văn Chi, quê ở Hòa Vang, Đà Nẵng rời vị trí Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương, chức vụ nắm từ 2002.

Nguyễn Xuân Anh, đi thẳng từ chức Bí thư Quận uỷ Liên Chiểu, Đà Nẵng lên Trung ương Đảng, dù mới là ủy viên dự khuyết, Trần Bình Minh là con của Trần Lâm, cả hai Nghị và Anh đều sinh năm 1976.

Và dù Nông Đức Mạnh rời vị trí Tổng bí thư Đảng, con trai là Nông Quốc Tuấn đã vào Trung ương Đảng.

Sinh năm 1963, Nông Quốc Tuấn lên bằng con đường Đoàn - Đảng, giữ chức Bí thư trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp thanh viên Việt Nam trước khi được bổ nhiệm đột xuất năm 2010 vào chức Bí thư Bắc Giang.

Trước đó, từ tháng 4/2009 đã làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, chuyên phụ trách ngành 'xây dựng Đảng' và cũng là Đại biểu Quốc hội khóa XII, đại diện cho tỉnh Sơn La.

Việc bầu chọn Nông Đức Tuấn hồi tháng 9/2010 diễn ra chỉ hai tuần sau vụ lộn xộn ngay tại trung tâm thành phố Bắc Giang đã thu hút sự chú ý của dư luận.

Việt Nam là nước châu Á và ít nhiều chia sẻ với Trung Quốc có truyền thống để con cái các nhân vật cao cấp hoặc 'công thần' của chế độ cộng sản tiếp nối truyền thống chính trị gia đình, dù không rõ rệt như Bắc Triều Tiên.

Tại Trung Quốc, nhân vật được cho là sẽ lên làm Chủ tịch nước, chủ tịch Đảng nhiệm kỳ tới, Tập Cận Bình, là con của một cán bộ cao cấp Tập Trọng Huân.

Con cháu các nhân vật cao cấp của Đảng và Nhà nước tại Trung Quốc cũng công khai chiếm nhiều vị trí quan trọng trong nền kinh tế và hệ thống quyền lực, tạo ra cái tên 'Thái tử Đảng', đâu có thua chi vua chúa ngày xưa.

Dạ Lan.

Cảnh Báo Gạo Làm Từ Nhựa



Cảnh Báo Gạo Làm Từ Nhựa.

Tuần báo Hong Kong tại Hong Kong trích nguồn truyền thông Singapore cho biết hỗn hợp trên được tạo hình giống như hạt gạo. Đáng sợ nhất là các loại bột khoai tây và khoai lang được kết dính thành “hạt gạo” bằng loại nhựa resin độc hại cho sức khỏe người tiêu dùng.

“Gạo này tất nhiên là khác gạo thường vì nó rất cứng ngay cả khi đã được nấu”, một chuyên gia thực phẩm cho biết.

Một nhà hàng Trung Quốc cảnh báo nếu ai ăn phải lượng “gạo nhựa” tương đương ba bát cơm, họ đã cho vào bụng một túi nilông.

Trong khi đó, giới thương nhân cho rằng vì “gạo nhựa” rất rẻ nên có khả năng nhiều người hám lợi vẫn bán với khối lượng lớn dưới hình thức trộn cùng gạo thật.

Trước đó, truyền hình Trung Quốc từng cảnh báo một công ty ở Tây An, cũng thuộc tỉnh Sơn Tây, đã sản xuất gạo nhái một loại gạo nổi tiếng thơm ngon ở đây bằng cách thêm hương liệu hóa chất.

Hồi tháng 8-2010, tờ Nhật báo Thượng Hải cũng đưa tin Thái Lan tuyên bố điều tra một loại gạo nhái gạo thơm Thái Lan được bán ở Trung Quốc. Quan chức Đại sứ quán Thái Lan cho biết 90% gạo Thái là hàng Trung Quốc làm giả và được sản xuất chủ yếu ở tỉnh Giang Tây. Hai loại gạo này nhìn bề ngoài không phân được nếu chưa nấu.

Phan Anh.