mandag 30. mars 2015

Tiếp Bước Những Anh Hùng Của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa


Ngày 30 tháng 4 là dịp để chúng ta tưởng niệm và vinh danh các anh hùng, tử sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã nêu cao tinh thần chiến đấu chống kẻ thù đến hơi thở cuối cùng. Nhất định không sống dưới chế độ độc tài Cộng Sản.

Những anh hùng vô danh của Quân Lực VNCH được nhắc nhở đến với tinh thần “anh hùng tử, khí hùng nào tử” (Người anh hùng chết nhưng chí khí anh hùng không chết). Các vị tướng lãnh đã tuẫn tiết được nhớ đến như “sinh vi tướng, tử vi thần” (Sống làm tướng, chết thành thần).
Tưởng niệm, vinh danh những anh đã vị quốc vong thân không gì bằng tiếp bước cái ý chí của họ trong cuộc chiến mới. Đó là đấu tranh thiết lập dân chủ, tự do cho đồng bào Việt Nam trong cả nước. Mang những quyền tự do căn bản được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (The Universal Declaration of Human Rights) được Đại Hội Đồng LHQ thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp.

Đảng Cộng Sản Việt Nam không xứng đáng lãnh đạo đất nước vì đảng tham nhũng, nhất là thái độ hèn với giặc, ác với dân, nhưng tội nặng nhất là truyền thống bán nước của Đảng, từ Hồ Chí Minh-Phạm Văn Đồng đến Nguyễn Văn Linh-Đỗ Mười, đến Lê Khả Phiêu và sau đó là Lê Đức Anh, đã dâng những đảo ở Trường Sa cho Trung Cộng.

Tội lớn nhất là đưa cả dân tộc Việt Nam vào chế độ độc tài, tàn bạo Cộng Sản, đã bị kết án về tội diệt chủng và tội chống loài người, một chế độ đã bị lịch sử ném vào sọt rác của nhân loại.
Tấm gương hy sinh của những anh hùng trong Quân Lực VNCH là ngọn đuốc soi sáng để người VN yêu nước nối bước trong cuộc đấu tranh mới là xây dựng dân chủ, tự do và nhân quyền cho đồng bào trong nước.

Cuộc đấu tranh mới trên hai mặt trận. Với Việt Cộng trong nước và với cái đám tay sai bợ đít nâng bi Việt Cộng, thực hiện tuyên truyền và đánh phá các đoàn thể đấu tranh ở hải ngoại.  

Đại Úy Phan Hữu Cương, thà chết chớ không chịu sống chung với kẻ thù.
Đêm 1-5-1975, Đại Úy Phan Hữu Cương cùng vợ là Trung Úy Nữ Quân Nhân Trần Mai Hương uống thuốc độc tử tử.
Bà Phan Cẩm Anh, bạn của Trung Úy Mai Hương cho biết, cặp vợ chồng nầy cùng tự tử vào buổi tối ngày 1-5-1975, nhưng sáng hôm sau Trung Úy Mai Hương được cứu sống. Đó là do người cháu phát hiện và đưa đi cấp cứu. Các bác sĩ đã nổ lực dành sự sống mong manh trong cái chết.
Người bạn của Đại Úy Phan Hữu Cương là Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, tùy viên của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương thuật lại, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì anh Cương đến gặp tôi và nói: “Hôm nay còn được gặp nhau, hãy cùng uống với nhau một vài ly cuối cùng. Ngày mai sẽ không còn có dịp gặp mặt nhau nữa vì tôi không còn ở trên cõi đời nầy”.
Bảy năm sau, bà Trần Mai Hương đã mang ba đứa con trai vượt biên và được định cư ở Hoa Kỳ.
Bà hy sinh cả cuộc đời còn lại, vất vả nuôi con, tất cả đều lớn khôn và thành đạt.
Mấy chục năm sau. Một trong những người con của Đại Úy Cương quyết định trở về quê hương để tìm lại hình ảnh của người cha đã tuẫn tiết khi anh vừa tròn 16 tháng tuổi. Anh phải về vì chỉ có bà nội anh mới biết phần mộ của cha anh ở đâu mà thôi.
Anh trang trọng giữ lấy những hình ảnh của cha mẹ trong ngày cưới.
Về phần mộ, bà nội anh cho biết đã an táng tại một nghĩa trang ở Sài Gòn, nhưng sau đó Việt Cộng san bằng nghĩa trang nên người nhà đem hài cốt đi hỏa thiêu và tro cốt đặt tại một ngôi chùa. Và sau đó đem ra rải trên dòng nước của Sông Đồng Nai.
Người con của Đại Úy Cương là nhà báo Phan Trần Hiếu, ký giả của tờ The Orange County Register, Nam Cali.

Nhiều bài báo nói về người cha của anh đã được quảng bá trong độc giả, nhưng nói chung Đại Úy Phan Hữu Cương là một anh hùng vô danh, đã tự chọn cái chết, quyết không đầu hàng, không sống chung với kẻ thù.

Tổng hợp những thông tin về cái chết của Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long.
Lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh đọc lịnh đầu hàng. Nhiều quân nhân lột bỏ quân phục, súng ống…Trung Tá Nguyễn Văn Long vẫn giữ nguyên quân phục, huy hiệu cảnh sát và bản tên trước ngực với khẩu súng Colt 45.
Một nhân chứng kể lại. Người ta không biết ông từ đâu đến. Ông xuất hiện ở công trường Lam Sơn, dưới tượng đài Thủy Quân Lục Chiến trước tòa nhà Hạ Viện. Ông ngồi trên ghế đá, trầm ngâm hút thuốc. Hai tay ôm lấy đầu. Bất chợt ông đứng dậy tiến đến gần tượng đài, nằm xuống ngay ngắn, kê họng súng colt vào thái dương, bóp cò.
Máu của Trung Tá Long thấm xuống lòng đất mẹ.
Dân chúng bu lại xem. Phóng viên truyền hình Pháp quay cảnh nầy rất kỹ. Trung Tá Nguyễn Văn Long tuẫn tiết trong quân phục, cấp bậc, huy hiệu cảnh sát và tên Long trên ngực. Không biết ai đã đưa xác ông vào bịnh viện Grall (Đồn Đất) của người Pháp. Có thể do phóng viên truyền hình người Pháp đưa vào.

Theo lời thuật của cô Tâm, con gái thứ ba của Trung Tá Long, thì hai tuần lễ sau, bà Long ở Đà Nẵng nhận được giấy báo của bịnh viện Đồn Đất, gọi vào nhận xác chồng.
Cô Tâm cùng chồng vào Sài Gòn nhận xác cha. Cô cho biết, trong túi áo của cha có thẻ căn cước ghi địa chỉ ở số 37 đường Nguyễn Thị Giang, Đà Nẵng.
Ngày 17-5-1975, cô Tâm và người chị thứ hai tên Đào và người em gái tên Thuận, đang làm việc ở Sài Gòn, vào bịnh viện nhận xác cha.

Cô Tâm cho biết, có lẻ nhận được lịnh của ban giám đốc cho nên nhân viên bịnh viện dành mọi dự dễ dàng và đặc biệt giúp đỡ gia đình. Nhân viên phụ trách mở ngăn lạnh, xác vẫn còn nguyên vẹn với quân phục, cấp bậc, huy hiệu cảnh sát và tên đầy đủ.
Nhân viên cho biết, thi hài của người anh hùng phải bảo quản cho tốt chờ thân nhân. Phải giúp gia đình tẫm liệm và mai táng chu đáo. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể một cách nhẹ nhàng, tử tế đến nổi gia đình phải ngạc nhiên.
Ngày chôn cất, có ban hậu sự của bịnh viện với đồng phục và xe tang, nghiêm trang đưa đến mai táng ở nghĩa trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo, với đầy đủ lễ nghi Công Giáo. Có linh mục đến làm phép xác. Tất cả đều miễn phí. Xác của những tướng Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai cũng được gia đình đưa vào bịnh viện Grall, Sài Gòn.
Ít năm sau, gia đình cải táng. Lần nầy thì khăn tang trắng khắp cả một vùng gồm đầy đủ: vợ, các con, các cháu. Xác được hỏa thiêu, tro cốt gởi vào nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế đường Kỳ Đồng, Sài Gòn.
Cái chết của Trung Tá Nguyễn Văn Long được thế giới biết đến nhanh nhất thông qua truyền hình Pháp, trong khi người Sài Gòn ít ai hay biết.
Thế giới xúc động trước cái chết của người anh hùng “vị quốc vong thân”.

Kể từ ngày 29-4-1975 rất nhiều chiến sĩ từ binh sĩ, hạ sĩ, trung sĩ, xã trưởng, chuẩn úy đã bị giết trong những trận tử thủ hoặc tự sát. Họ là những anh hùng vô danh của Việt Nam Cộng Hòa.

Trong khi quân nhân VNCH chết dưới lá cờ Tổ Quốc, cờ vàng ba sọc đỏ, thì Dương Văn Minh từ chối lá cờ nầy. 

Một trong hơn 100 ký giả đã chứng kiến buổi lễ giao quyền hôm 28 tháng 4 năm 1975 tại Dinh Độc Lập, đã tả lại như sau:
“Sau khi cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trở về chỗ ngồi, bục diễn đàn vẫn trống trơn. Dương Văn Minh vẫn ngồi yên không hề nhúc nhích. Một người lính tiến vào dưới hàng đèn phản chiếu và gỡ hai lá cờ đem ra khỏi phòng. Sau đó anh ta trở lại và tháo gỡ Quốc Huy cũ của Việt Nam Cộng Hòa gắn trước bục diễn đàn rồi một người lính khác mang đến gắn huy hiệu mới của Dương Văn Minh, đó là hình hoa mai năm cánh nằm trong dấu hiệu âm dương của người Trung Hoa.
Có nhiều tiếng xì xào trong hội trường. Nền Cộng Hòa đã thay đổi bộ mặt. Dương Văn Minh đứng dậy từ từ tiến về bục diễn đàn, mặt ông ta tỏ ra nghiêm trọng. Ngay lúc đó hai tiếng sét nổ thật lớn ở ngoài trời và tiếp theo là tiếng sấm kéo dài như để đánh dấu ý nghĩa lịch sử của giờ phút đau thương nầy…”.

Trong cuốn Cruel Avril, nhà báo Oliver Todd cũng tường thuật buổi lễ này tương tự như vậy “một người lính trẻ tháo gỡ Lá Quốc Kỳ sau bục diễn đàn rồi gỡ Quốc Huy của Việt Nam Cộng Hòa và thay thế bằng huy hiệu mới của Dương Van Minh“.
Trong cuốn những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa, tác giả Nguyễn Khắc Ngữ đã viết rằng “Cùng lúc ấy, một Binh Sĩ vào phòng, bật đèn cho sáng thêm rồi lấy hai lá cờ lớn đi. Sau đó, anh ta trở lại gỡ Huy Hiệu hai con rồng của Tổng Thống cũ gắn trên bục diễn đàn mang đi. Liền sau đó, một người lính khác mang Huy Hiệu mới có bông mai 5 cánh màu trắng vẽ trên nền xanh, ở giữa có vẽ dấu hiệu âm dương”

Trước kia QLVNCH chống Cộng Sản để bảo vệ Miền Nam, nhưng Miền Nam hiện nay không còn là MN của VNCH trước 1975 nữa. Lọt vào tay CS suốt 40 năm qua, người Miền Nam đã bị Cộng Sản hóa hoàn toàn. Thế hệ 1975 hiện nay ở tuổi 40, 50 là cán bộ đảng viên trong các ngành công an, bộ đội và những tổ chức Cộng Sản. Đời sống và quyền lợi của họ gắn bó chặt chẽ với chế độ họ đang phục vụ.
Không còn Cộng Sản Bắc Việt như trước 75, cho nên có ý kiến cho rằng giải phóng Miền Nam để đuổi bọn CS về Miền Bắc là không có cơ sở nào cả.
Vậy cuộc đấu tranh của người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại là thành lập chế độ dân chủ, tự do và bảo vệ lãnh thổ mà tổ tiên đã khai phá, chiến đấu giữ nước từ Bắc chí Nam.
Quan niệm được hiểu ngầm của đảng CSVN hiện nay là: “Các Vua Hùng có công dựng nước, Đức Trần Hưng Đạo có công giữ nước để bác cháu ta tha hồ bán nước”. Mãi quốc cầu vinh.
CSVN bán nước rõ ràng. Không chối cãi được. Hoàng Sa, Trường Sa, Vịnh Bắc Bộ…còn đó.

Trước năm 1975, chiến tranh súng đạn trên các mặt trận nhằm mục đích bảo vệ Miền Nam, không để lọt vào tay Cộng Sản. Hiện nay, người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại đã và đang tiến hành cuộc đấu tranh vì nhân quyền cho đồng bào Việt Nam trên cả nước.
Trên mặt trận mới, cần xác định mục đích rõ ràng để từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp rất cần thiết cho cuộc đấu tranh.

Nhân quyền là những quyền căn bản của con người được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (The Universal Declaration of the Human Rights) đã được Đại Hội Đồng LHQ thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp.
Những quyền căn bản của con người là: Mọi người tự tự do và bình đẳng không phân biệt sắc tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo…Tự do về các mặt: Tự do ngôn luận, lập hội, cư trú, an toàn cá nhân, tư hữu tài sản, hội họp, lập hội, ứng cử, bầu cử…

Người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại không đấu tranh cho mình, mà cho đồng bào của mình trong nước. Vì người Việt hải ngoại đang sống ở châu Mỹ, châu Âu và châu Úc đã có các quyền tự do và được đối xử bình đẳng trước pháp luật như người bản xứ.

Khi đã xác định được mục đích đấu tranh là cho đồng bào của mình trong nước thì bất cứ những ai mang tự do, nhân quyền đến cho đồng bào đều được hoan nghênh.
Nếu có một Gorbachev, một Yeltsin Việt Nam thì cũng được dân tộc VN ghi công và nhớ ơn.
Việc luận công và luận tội sẽ do người Việt và lịch sử Việt Nam phán xét.
Khi xác định được mục đích như vậy thì bất cứ ai có cùng mục đích đó thì được xem là bạn cùng tranh đấu để có sức mạnh tổng hợp cần thiết sớm đạt thành công.

Trong chiến lược đấu tranh, cần thiết phải phân biệt rõ ràng ba thành phần là: Ta-Bạn-Thù để từ đó tạo ra sức mạnh rất cần cho thành công.

Đối tượng phải đấu tranh là tiêu diệt chế độ độc tài do đảng CSVN áp chế.
Đảng CSVN không xứng đáng quản lý đất nước và nhân dân, vì là đảng tham nhũng, hèn với giặc ác với dân, và có truyền thống bán nước, làm tay sai cho ngoại bang.
Về tham nhũng thì không cần nói nhiều, ai ai cũng biết từ những cán bộ cao cấp ở trung ương đến đảng viên quèn ở địa phương tất cả đều tham nhũng bằng nhiều hình thức khác nhau. Tham nhũng, từ hổ đến ruồi là thuộc tính của các đảng Cộng Sản trên thế giới hiện nay.

Ngày 30 tháng 4 là dịp để chúng ta tưởng niệm những anh hùng, tử sĩ đã ngã xuống trên quê hương, dòng máu của họ đã thấm vào lòng đất mẹ, trong cuộc đấu tranh sáng ngời chính nghĩa của Quân Lực VNCH.
Nối tiếp ý chí kiên cường bất khuất đó trong cuộc đấu tranh hiện tại. So với những nhà dân chủ trong nước, chúng ta đang hoàn toàn có tự do, có an toàn, thoải mái đấu tranh…sao ta không tích cực dấn thân ?.

Ngày nào đảng Cộng Sản VN còn thì lãnh thổ mà tổ tiên đã bao đời khai phá, phát triển và bảo vệ sẽ bị cái đám tay sai đem dâng lên cho quan thầy Trung Cộng.
Đảng CSVN bán nước còn tang chứng rành rành như đã nêu trên. Dân tộc Việt Nam đứng trước nguy cơ trở thành một sắc tộc thiểu số trong “đại gia đình các dân tộc Trung Quốc” mà đảng CSVN đã thỉnh nguyện vào ngày 4-9-1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc.”

Trả lời câu hỏi “Việt Nam còn hay mất ?”. Một người trong nước cho biết, đã mất từ lâu rồi, còn gì nữa mà hỏi mất hay còn !”

Trúc Giang.




Ingen kommentarer: