Chiếc thuyền nhỏ mang theo hơn năm mươi người, một nửa là đàn bà và con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của Nauy trên đường từ Nhật sang Singapore cứu vớt. Hai ngày sống trên tàu chúng tôi có cảm giác như đang ở trên một thiên đàng. Tất cả đều được tận tình hỏi han chăm sóc. Chúng tôi cảm thấy vừa mừng vừa xót xa khi nhận ra thế gian này vẫn còn có đầy ấp tình người. Họ là những kẻ xa lạ, không cùng màu da, màu tóc, không cùng ngôn ngữ, mà lòng thông cảm yêu thương họ đã dành cho chúng tôi lớn lao biết đến dường nào. Trong lúc những “người anh em” cùng một nhà thì lại hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng để phải đành lòng bỏ nước mà đi. Với ân tình đó chúng tôi chọn Vương quốc Nauy là quê hương thứ hai để gởi gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.
Sau
 gần một năm ở trại tị nạn, gia đình chúng tôi được đi định cư. Khi bầu 
đoàn thê tử như một bầy nai vàng ngơ ngác bước xuống phi trường Oslo, 
được nhiều người đón tiếp, trong đó lại có cả mấy ông nhà báo và đài 
truyền hình nhà nước phỏng vấn, quay phim. Gốc nhà quê, nên tôi cũng 
chẳng biết họ quay phim để làm cái gì. Trước khi về nhà, chúng tôi còn 
được mời vào một nhà hàng Tàu, và tha hồ gọi bất cứ thức ăn nào mình 
thích.
Đến
 khi bước vào ngôi nhà, được bà trưởng phòng xã hội trao cho một chùm 
chìa khóa, dẫn đi một vòng xem phòng ốc đã được trang trí xong nội thất,
 cái bếp và cả cái tủ lạnh có sẵn đầy đủ thức ăn nước uống, một cái TV 
màu. Mọi thứ đều mới tinh. Sáu đứa con và hai đứa cháu họ của tôi thì 
ngồi mân mê mấy cái bàn học, và mấy cái ba lô có đầy đủ sách vở trong 
đó. Trước khi ra về bà giới thiệu chúng tôi một cô nhân viên của bà, và 
một cô giáo ở lại hướng dẫn chúng tôi xử dụng mọi thứ tiện nghi trong 
nhà, và mỗi ngày sẽ đến đưa gia đình chúng tôi đi mua sắm, khám bệnh, 
làm răng, còn cô giáo thì đặc trách lo việc học hành cho mấy đứa nhỏ. 
Khi tất cả ra về, tôi nằm dài dưới sàn nhà và chợt khám phá ra rằng mình
 quả là may mắn được đến định cư ở một nước Bắc Âu xa lạ nhưng thơ mộng 
và có quá rộng tấm lòng này, mà lúc xuống biển ra đi chắc chẳng có ai 
bao giờ nghĩ tới.
Buổi
 tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần trước cái TV. Thằng con trai lớn 
ra điều mới học được văn minh, bấm tới bấm lui tìm đài. Cả đám bất ngờ 
nhìn thấy dung nhan của mình trên màn ảnh. Thì ra chương trình phóng sự.
 Họ đang kể về gia đình chúng tôi: “những công dân mới của Nauy, mà ông 
bố đã từng ở tù nhiều năm, giống nhiều người Nauy bị nhốt trong các trại
 cải tạo của Đức quốc xã, cái thời Hitler làm mưa làm gió ở Âu châu, và 
đã can đảm dắt theo sáu đứa con và hai đứa cháu nhỏ vượt đại dương trên 
một chiếc thuyền đánh cá mong manh”. Nghe họ ca ngợi mình mà tôi xấu hổ.
 Dù gì tôi cũng là kẻ bỏ nước tha phương, với họ, ít nhiều gì cũng là 
một cành tầm gởi. Còn chuyện vượt biển, vượt biên, đến bước đường cùng 
thì ai cũng phải liều mạng thế thôi, chứ có hàng triệu người còn can đảm
 gấp vạn lần tôi. Nhiều người đi bằng đường bộ, trèo núi, băng rừng, lội
 suối, bơi sông, qua Cam Bốt, Thái Lan, để vài năm sau mới đến được 
Singapore. Và dĩ nhiên đã có biết bao nhiêu người chẳng bao giờ tới bến.
Cũng
 vì cái chương trình phóng sự bất ngờ này, mà sau đó, mỗi ngày gia đình 
chúng tôi phải tiếp nhiều người khách không mời, và nhận đủ thứ quà. 
Trong số đó, đặc biệt có một người đàn bà Việt Nam, mà lúc bà mới bước 
vào nhà, chúng tôi cứ tưởng là người Nhật, hay là người Tàu gì đó, khi 
nhìn thấy cái vẻ quí phái đặc biệt của bà. Tôi nghĩ có lẽ không có người
 Việt Nam nào sống ở cái xứ Bắc Âu xa lạ này từ lâu để có được nét đẹp 
của một người con gái đông phương pha lẫn âu tây ở cái tuổi còn trẻ như 
bà. Sau đó tôi bất ngờ thú vị khi bà tự giới thiệu tên là Huyền-Trân 
Thomassen, hiện là giảng sư môn nhân chủng xã hội học tại trường đại học
 Oslo, chồng bà là người Nauy, hiện đang làm đại sứ tại Mexico. Bà không
 muốn bỏ nghề bà yêu thích, hơn nữa bà vẫn còn tiếp tục nghiên cứu về 
ngành này, nên không theo chồng mà ở lại Nauy với hai đứa con. Lúc nhỏ 
bà theo cha sang sống ở Thụy Sĩ, khi cha bà là đại sứ của VNCH tại đó. 
Người chồng của bà, cũng thuộc một gia đình có truyền thống ngoại giao. 
Cha của ông cũng một thời là đại sứ của Nauy tại Thụy Sĩ. Hai người con 
của hai ông đại sứ quen nhau từ khi học chung một trường trung học và 
làm đám cưới sau khi tốt nghiệp đại học tại thủ đô Bern, một năm trước 
khi miền Nam Việt Nam thất thủ.
Tôi
 rất ngưỡng mộ người đàn bà trẻ này. Rời Việt nam từ lúc 12 tuổi, nhưng 
bà nói tiếng Việt rất lưu loát, hiểu biết rất nhiều về văn học Việt nam,
 từ truyện Kiều của Nguyễn Du, đến bài thơ Hai Sắc Hoa TyGôn của TTKH. 
Điều đặc biệt hơn hết là bà rất quí mến và giúp đỡ tận tình người đồng 
hương. Gia đình tôi cũng mang nặng khá nhiều ơn nghĩa của bà.
Những
 ngày sống hạnh phúc ở quê người, nhìn con cái ngày một lớn lên và đang 
có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt, lúc nào tôi cũng chạnh lòng 
nhớ lại cái thời mình khốn khó và những bạn bè xưa. Tôi thấy mình nợ nần
 nhiều người mà không biết làm sao trả được. Trong số này, người mà tôi 
thường nghĩ tới nhiều nhất và ân hận chẳng giúp được điều gì là Nguyễn 
Thượng Tâm, người đồng đội và cũng là đứa em kết nghĩa của tôi.
***
Tâm
 ra trường sau tết Mậu Thân. Về trình diện đơn vị tôi khi vừa tròn 18 
tuổi. Mặc dù còn rất trẻ, nhưng được đào tạo từ lúc còn nhỏ tại trường 
Thiếu Sinh Quân nổi tiếng ở Vũng Tàu nên Tâm là một hạ sĩ quan gương mẫu
 trong kỷ luật và gan dạ trong chiến trường. Tâm hiền lành và rất ít 
nói. Nhưng không phải vì vậy mà tôi trở thành thân thiết với Tâm và hai 
thằng kết nghĩa anh em, nếu không có buổi sáng mồng một Tết năm 1969, 
khi đơn vị chúng tôi tạm dừng quân trong một ngôi làng hoang đổ nát nằm 
sâu giữa những động cát nơi giáp ranh hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy 
lúc trước.
Dù
 đang hành quân, nhưng biết hôm đó là mồng một Tết, tôi thức dậy thật 
sớm, thay bộ đồ trận mới, đi một vòng chúc tết anh em. Ngày đầu năm, nằm
 giữa một khu hoang tàn không một bóng người, chắc ai cũng chạnh lòng 
nhớ tới gia đình. Chiếc radio từ một căn lều poncho nào đó đang phát ra 
tiếng hát nỉ non của ca sĩ Duy Khánh, trong bản nhạc Xuân Này Con Không 
Về của Trịnh Lâm Ngân, làm lòng tôi càng thêm lắng xuống. Đến cuối ngôi 
làng, tôi bỗng giật mình khi nghe tiếng sụt sùi. Lại gần tôi mới nhận ra
 Tâm. Anh ta đang quì lạy trước một cái bàn thờ được kê bằng cánh cửa sổ
 của căn nhà nào sập xuống. Trên bàn thờ dã chiến, tôi thấy có mấy cái 
hoa rừng cắm trong cái bi đông nước, hai bát cơm bằng gạo sấy và một lon
 guigoz có lẽ chứa nước trà hay canh nấu bằng lá giang hay lá tàu bay gì
 đó. Tâm khấn vái một lúc, quay lại bất ngờ nhận ra tôi. Tâm đưa tay 
chào và cũng như mọi khi, không nói một lời nào. Có lẽ Tâm biết là tôi 
đã đứng im lặng ở đây từ lâu lắm. Tôi bước tới nắm chặt tay Tâm, kéo anh
 đứng lên. Tâm vội rút tay ra lau nước mắt. Tôi đến trước bàn thờ vái 
một vái, rồi vỗ vai Tâm:
- Em cúng bố mẹ à. Sao đầu năm mà buồn quá vậy em.
-
 Không, bố em còn ở ngoài Bắc, em không biết là còn sống hay đã chết. Mẹ
 em thì đã qua đời lúc em còn bé lắm. Nhà em ở tận Ý Yên, nhưng bố em đi
 làm xa, nên phải gởi hai anh em em xuống nhà ông chú ở Hà Nội học, rồi 
theo gia đình chú ấy xuống tàu há mồm vào Nam luôn.
- Còn anh của em bây giờ ở đâu? Tôi hỏi
-
 Anh ấy chết rồi. Anh là sĩ quan thủy quân lục chiến, tử trận đúng ngày 
mồng một tết Mậu Thân ở ngay Sài gòn. Hôm nay là giổ đầu của anh ấy.
- Anh em tên gì?
- Nguyễn thượng Minh, khi chết anh vừa mới lên trung úy.
Tôi giật mình. Cái tên Nguyễn thượng Minh làm tôi nhớ ngay đến một thằng bạn cùng tên hồi còn tiểu học. Tôi hỏi Tâm:
- Vậy có phải em là cháu của thầy giáo Nguyễn Thượng Cầu?
- Dạ phải, nhưng chú Cầu đã chết lâu rồi. Tâm trả lời rồi nhìn tôi ngạc nhiên.
Năm
 1954, tôi đang học lớp nhì trường huyện Vạn Ninh. Nhập học được vài 
tháng, thì thầy hiệu trưởng Nguyễn công Tố dắt ba đứa học trò lạ vào lớp
 giới thiệu với cô giáo Kiệt rồi dặn dò đám học trò chúng tôi:
-
 Hôm nay trường nhận thêm những em học trò mới, trong đó có ba em vào 
lớp này. Tất cả các em phải biết yêu thương và giúp đỡ những người bạn 
này, vì họ đã vừa phải bỏ quê hương, gia đình ngoài miền Bắc, di cư vào 
đây. Đó cũng là lời kêu gọi của Ngô Thủ Tướng.
Hai
 thằng con trai và một đứa con gái cúi đầu chào cô giáo rồi quay xuống 
chào chúng tôi bằng thứ tiếng lạ hoắc khó nghe. Thằng lớn con nhất được 
cô Kiệt chỉ cho ngồi dãy bàn cuối lớp, ngay phía sau tôi.
Đến
 giờ ra chơi, bọn tôi bu quanh “phỏng vấn” nó đủ điều. Tên nó là Nguyễn 
Thượng Minh. Nó và thằng em nhỏ hơn bốn tuổi, nhà ở quê, mẹ chết sớm, 
ông bố đi làm xa, nên phải gởi anh em nó xuống Hà Nội ở nhà ông chú để 
học hành, hơn nữa ông lại là thầy giáo. Khi có lệnh di cư, ông chú không
 liên lạc được bố nó, nên dắt hai anh em nó xuống tàu há mồm vào Nam 
luôn, rồi được chính quyền phân phối đến định cư ở quê tôi, Vạn Giã, 
cùng với hơn mười gia đình khác. Nó bảo vài hôm nữa ông chú nó cũng sẽ 
được sắp xếp cho vào dạy lớp ba trường này, thay cho một ông thầy thuyên
 chuyển đi nơi khác.
Nó
 lầm lì ít nói, chắc ngại cái tiếng Bắc Kỳ xa lạ của nó. Nhưng không 
phải vì điều đó mà làm cho tôi ghét nó, và đã có nhiều lần đánh lộn với 
nó nữa. Lý do chính là nó đánh bi rất giỏi, giành mất giải quán quân của
 tôi trong lớp. Nó đánh bi khác với chúng tôi. Chúng tôi để viên bi lên 
đầu ngón tay giữa rồi bắn đi, còn nó đặt viên bi trong lòng bàn tay và 
bắn đi bằng ngón tay cái. Vậy mà nó ăn tôi sạch túi. Bọn tôi bảo là nó 
ăn gian, không được chơi kiểu bắc kỳ của nó mà phải chơi theo kiểu trung
 kỳ của bọn tôi. Nhập gia phải tùy tục. Nó cô đơn một mình nên chịu 
thua, phải trả lại cho tôi tất cả viên bi nó thắng ngày hôm đó. Vậy mà 
hai hôm sau nó chơi trở lại, dĩ nhiên với cái kiểu hoàn toàn mới lạ với 
nó, nhưng nó vẫn thắng tôi oanh liệt. Cuộc đấu bi này bây giờ không phải
 chỉ giữa cá nhân hai thằng: tôi với nó, mà giữa hai miền nam-bắc, cho 
nên học trò trai gái cả trường bu quanh làm khán giả. Tôi thua trắng 
tay, mất luôn chức vô địch từ lớp năm đến bây giờ. Dĩ nhiên là tôi ức 
lắm. Điều ghê gớm hơn nữa, là chỉ có cuối tháng đầu tiên nó đứng hạng ba
 trong lớp, lên nhận bảng danh dự sau tôi, nhưng kể từ tháng thứ nhì trở
 đi nó đều chiếm hạng nhất. Tôi đâm ra hận nó, có nó là tôi mất tất cả. 
Mấy lần tôi nhại tiếng Bắc chọc quê nó, nó cũng chỉ cười, tôi nghe lời 
xúi của lũ bạn, bảo nó rờ sau “đít” coi có còn tòn ten cọng rau muống 
nào không, nó chỉ im lặng. Có lần bọn tôi xô nó ngã, nó chỉ cười, đứng 
dậy rồi phủi bụi trên áo quần. Tôi thua nó, nhưng cố làm ra vẻ tự mãn: 
“nó vẫn chỉ là một anh hùng cô đơn, không có ai chơi với nó”.
Đùng
 một cái nó nghỉ học. Chẳng có ai biết lý do. Nhưng rồi vài ngày sau nó 
tới trường, nhưng không phải để học mà để bán bánh mì và cà rem. Cô giáo
 và bạn bè hỏi, nó khóc và bảo là bà thím, sau khi cãi vã với chú nó một
 trận, không nuôi hai anh em nó nữa, nó phải tự “khắc phục” để còn nuôi 
một thằng em nhỏ. Hôm đó bọn tôi nhiều thằng cũng khóc theo với nó. Chờ 
cho tất cả vào lớp, tôi ở nán lại chỉ để ôm nó và nói một lời xin lỗi về
 những điều đã qua. Nó nhìn tôi thân thiện, và bảo là nó chưa hề để tâm 
tới điều ấy. Tôi “tâm phục khẩu phục” nó. Nó còn nhỏ mà thông minh và 
thánh thiện hơn tôi nhiều.
Tôi
 bèn làm ngay một cuộc “quảng cáo” cho bánh mì và cà rem của nó, vì vậy 
hôm nào nó mang mọi thứ tới trường là bán sạch ngay trong giờ ra chơi 
buổi sáng. Sau đó tôi còn kêu gọi một cuộc lạc quyên giúp nó: gạo, tiền 
xu, tiền cắc, áo quần, có thằng còn mang tới cho nó cả buồng chuối và 
một trái mít nữa.
Rồi
 nó cũng được chính quyền giúp đỡ, tôi nghĩ như thế, nên vài tuần sau nó
 trở lại lớp học, và chỉ bán bánh mì trong giờ ra chơi. Nó vẫn học giỏi,
 vẫn đứng đầu lớp, nhưng lần này nó không còn là anh hùng cô đơn nữa mà 
nó có đông đảo bạn bè, mà thằng thân nhất chính là tôi.
Ông
 chú nó, thầy giáo Nguyễn thượng Cầu, cũng đã vào trường dạy lớp ba, 
nhưng bây giờ anh em nó không còn ở chung với ông chú nữa, mà chỉ đến 
thăm ông vào những cuối tuần. Có khi nó dắt tôi đi theo. Vì vậy tôi mới 
bíết ông thầy, chú nó sợ bà vợ Bắc kỳ còn hơn sư tử, nên chẳng dám bênh 
vực nhiều anh em nó, mặc dù ông rất đau lòng xót xa khi bọn nó phải dọn 
ra ở ké nhà một gia đình người di cư khác.
Tôi
 mất mẹ, cha tôi cũng đi làm xa, nên tôi thông cảm hoàn cảnh của Minh, 
nên thường đưa anh em nó về nhà ông bà nội tôi và chơi với đám anh em họ
 hàng của tôi.
Khi
 xong tiểu học, tôi vào Nha Trang học trung học, cũng là lúc phải chia 
tay nó. Bởi Minh cũng vừa theo một số người di cư vào tận khu định cư 
Phước Tỉnh nào đó ở trong nam, người ta bảo trong ấy làm ăn khấm khá hơn
 ở quê tôi nhiều lắm. Từ đó, tôi không gặp lại nó, mặc dù trong ký ức 
tuổi ấu thơ của tôi, lúc nào hình ảnh nó cũng in lên đậm nét.
Không
 ngờ hôm nay, giữa chiến trường xa xôi này tôi lại bất ngờ gặp lại thằng
 em duy nhất của Minh, và lòng tôi lắng xuống khi biết nó cũng từng là 
lính đánh giặc và đã hy sinh đúng ngày này năm trước: ngày mồng một Tết.
 Cái ngày mà lời chúc Tết của ông Hồ Chí Minh trên đài phát thanh Hà Nội
 chính là cái mật lệnh “Tổng Công Kích Tết Mậu Thân” để giết hại bao 
nhiêu người vô tội, đặc biệt hàng vạn người ở Huế bị chôn sống. Cũng là 
cái ngày người ta nhận diện được bọn trí thức, sinh viên phản trắc, đã 
giết hại bao nhiêu thầy, bạn của chính mình.
Sau
 đó, tôi rút Tâm về làm việc bên cạnh tôi, phụ tránh toán quân báo gồm 
toàn những người lính trẻ. Chúng tôi yêu thương nhau như anh em. Rồi vào
 một đêm trăng sáng, dưới sự chứng giám của đất trời, tôi đã nhận Tâm là
 đứa em kết nghĩa, sau lần Tâm liều mình cứu tôi thoát chết trong một 
cuộc phục kích ở Thiện Giáo. Đổi lấy sự an toàn cho tôi, Tâm phải mất 
hai ngón tay của bàn tay trái và nằm bệnh viện hơn một tháng để được 
giải phẩu lấy một mãnh đạn nằm trong sâu trong thanh quản. Sau khi xuất 
viện, Tâm phát âm tương đối khó khăn. Được hội đồng giám định y khoa xếp
 vào loại không còn khả năng chiến đấu, Tâm có thể chọn về một đơn vị 
hành chánh hay tiếp vận nào mà Tâm thích, nhưng Tâm một mực chối từ và 
nằng nặc đòi trở lại đơn vị cũ. Tâm xác nhận là mình vẫn còn khả năng 
chiến đấu, hai ngón tay của bàn tay trái và giọng nói khó khăn một chút 
không gây trở ngại nhiều cho một người lính chiến trường. Cuối cùng Tâm 
được toại nguyện.
Tôi
 vừa vui mừng vừa cảm động khi Tâm trở về trình diện. Tâm bảo sống chết 
gì em cũng muốn ở bên anh. Vì gia đình em có còn ai nữa đâu. Đơn vị này 
là gia đình của em. Tôi sắp xếp cho Tâm một công việc tạm thời ở hậu cứ 
để tiếp tục chửa bệnh. Chỉ sau vài tháng giọng nói của Tâm gần trở lại 
bình thường. Tâm nghe lời tôi xin vào khóa Sĩ Quan Đặc Biệt ở Thủ Đức. 
Tâm được ưu tiên thu nhận vì gốc TSQ.
Ra
 trường đúng vào mùa hè đỏ lửa 1972, Tâm lại xin trở về đơn vị cũ, lúc 
này đang ngày đêm nằm trong lửa đạn ở mặt trận Kontum. Năm tháng sau, 
tôi bị thương, được tản thương về Quân y viện Pleiku nằm điều trị gần 
một tháng. Xuất viện, được điều về Phòng Hành Quân. Cả tháng tôi không 
gặp lại Tâm, nhưng ngày nào chúng tôi cũng liên lạc trên hệ thống vô 
tuyến.
Cuối
 năm 1973, chiến trường lắng dịu. Tâm xin phép về Sài gòn cưới vợ. Vợ 
Tâm là cô bạn nhỏ ngày xưa trong cùng một viện mồ côi. Bây giờ là cô 
giáo. Hai người gặp lại và tình yêu nẩy nở trong thời gian Tâm học ở 
trường Thủ Đức. Cả vợ chồng tôi đều có mặt trong ngày cưới, và làm chủ 
hôn bên họ nhà trai. Đám cưới xong, tôi vận động xin cho vợ Tâm được 
chuyển lên dạy tại một trường tiểu học nằm trong thành phố Pleiku, để vợ
 chồng được gần gũi nhau hơn.
Đầu
 tháng 3/1975 Ban Mê Thuột thất thủ, bản doanh Bộ Tư lệnh SĐ 23 BB bị 
tràn ngập sau một phi vụ bắn nhầm. Ông Tư Lệnh Phó cùng ông tỉnh trưởng 
Đắc Lắc bị bắt. Hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 44 được trực thăng vận nhảy
 xuống đầu tiên ở Phước An, quận duy nhất còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm
 vừa ngăn chặn địch quân tràn xuống Khánh Dương theo Quốc lộ 21, vừa tái
 chiếm thị xã Ban Mê Thuột khi tình hình cho phép. Tâm có mặt trong toán
 quân đầu tiên này. Tôi không gặp được Tâm nhưng có liên lạc nói chuyện 
vài lần trong máy vô tuyến. Tâm rất đau lòng khi phải bỏ vợ và đứa con 
gái ba tuổi trên Pleiku, trước khi gởi gấm cho anh trung sĩ tiếp liệu 
đại đội cố dắt theo cùng đoàn quân triệt thoái về tỉnh lộ 7, bây giờ 
không biết ra sao. Tâm khẩn khoản nhờ tôi tìm mọi cách liên lạc và giúp 
vợ con mình. Tôi lấy cái tình anh em kết nghĩa mà thề với Tâm là tôi sẽ 
cố gắng hết sức mình. Không ngờ, đó là một kế hoạch triệt thoái tồi tệ 
nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, đã làm mất biết bao nhiêu sinh 
mạng, kéo theo sự sụp đổ cả miền Nam. Ra tận Tuy Hòa, đứng đón dòng 
người tả tơi, nét mặt còn đậm nỗi kinh hoàng, họ vừa trải qua và chứng 
kiến biết bao nhiêu cái chết thê thảm để được đến bên này bờ con sông Ba
 nhuộm máu, tôi nghĩ là tôi chẳng còn có cơ hội nào gặp lại vợ con Tâm. 
Trở lại Khánh Dương, đúng lúc Phước An thất thủ và đơn vị của Tâm đã 
phải tan hàng, tôi gặp lại vị chỉ huy của Tâm ở Dục Mỹ, ông xác nhận là 
trung úy Nguyễn Thượng Tâm đã nằm lại trên đỉnh đồi Chu Cúc, khi chiến 
đấu tới viên đạn cuối cùng rồi tự sát trước một biển người của địch quân
 tràn lên chiếm giữ.
* * *
Hơn
 sáu tháng định cư ở Nauy, cả nhà tôi lúc nào cũng miệt mài để sớm hội 
nhập vào quê hương mới. Thời gian qua nhanh quá. Mới đây mà chúng tôi 
cũng đã tập tành tổ chức ngày lễ Giáng Sinh và ăn cái tết Tây đầu tiên 
theo truyền thống của Nauy. Sau đó bận bịu đi học đi làm, và cũng chẳng 
có cuốn lịch Âm lịch nào để biết ngày nào là Tết Ta, Nguyên Đán. Một 
buổi tối vợ chồng tôi đang ngồi cãi nhau về thời điểm giao thừa để thắp 
một nén hương tưởng nhớ ông bà, thì điện thoại reo. Bà Huyền-Trân 
Thomassen gọi, mời cả nhà chúng tôi tối mai lên ăn tết với gia đình, 
chồng bà từ Mexixo cũng mới trở về. Bà cho biết bây giờ đã là sáng mồng 
một Tết bên Việt Nam. Thì ra, chúng tôi tệ quá, mới rời khỏi Việt Nam 
hai năm mà không còn nhớ ngày tết và tổ chức mừng Tết như bà. Tôi cám ơn
 và nhận lời bà xong, vội vàng thắp mấy nén hương tạ tội ông bà. May mắn
 ngày mai là thứ bảy.
Bà
 biết gia đình chúng tôi có tới mười người mà chỉ có một cái xe Ford vừa
 nhỏ vừa cũ, nên bà đặt một chiếc taxi tám chỗ ngồi lại đón chúng tôi. 
Bà xã tôi chỉ huy bầy con gái trên chiếc taxi, còn tôi lái xe chở đám 
con trai chạy theo sau. Trời thật lạnh, tuyết rơi trắng cả bầu trời. 
Chúng tôi phải chạy gần một tiếng đồng hồ mới tới nhà bà. Bà ở trong một
 ngôi biệt thự khá xinh, cách trường đại học Oslo, nơi bà dạy, chừng năm
 phút lái xe. Trong phòng khách bà trang trí giống như tết ở Việt Nam, 
đặc biệt có cả một cành mai thật to (một loài hoa Bắc Âu nở hoa vào mùa 
đông, nhìn giống như hoa mai) trong một cái bình sứ lớn, nằm ở giữa nhà.
 Chồng bà rất phúc hậu, và nói được một ít tiếng Việt. Khi giới thiệu 
ông với chúng tôi bà đùa:
- Hoàng đế Chế Mân của tôi đây.
- Không, tôi là Trần Khắc Chung. Ông vừa đưa tay bắt tay tôi vừa đùa.
Ông
 ta khá am tường về lịch sử Việt nam. Ông cũng biết khá nhiều và có 
những nhận định khá công bình về cuộc chiến Việt nam. Ông cho biết là 
lúc cuộc chiến Việt Nam đang ác liệt, khi ấy ông là trưởng ban ngoại 
giao của Quốc Hội Nauy, đã phản đối kịch liệt những nhóm tả khuynh và 
đặc biệt là những nhận định và việc làm của ông Olaf Palma, thủ tướng 
Thụy Điển, người đã hô hào ủng hộ Bắc Việt và tuyên bố sẵn sàng chấp 
nhận cho binh lính Mỹ đào ngũ đến dung thân ở nước ông. Khi chiến tranh 
Việt Nam kết thúc, nhìn hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, ông vừa kịp
 phản tỉnh thì cũng bị ám sát chết.
Bữa ăn còn có cả dưa hành, thịt kho và bánh chưng. Tôi phục bà và thấy xốn xang nhớ những ngày tết lúc tôi còn nhỏ ở quê nhà.
Ăn
 uống xong, bà còn lì xì bì thơ màu đỏ cho mấy đứa con và mấy đứa cháu 
của tôi. Tôi đành phải ngượng ngùng xin lỗi vì không chuẩn bị kịp quà 
cáp cho hai đứa con của bà. Nhưng bà rất khéo léo, khi bảo sự có mặt của
 gia đình chúng tôi trong thời khắc đặc biệt này đã là một món quà vô 
giá, rất có ý nghĩa cho mẹ con bà.
Tôi
 thay mặt gia đình cám ơn, chúc tết ông bà và gia đình. Tôi cũng nói lên
 lòng ngưỡng mộ của chúng tôi đối với một người đã xa quê hương lâu ngày
 và lập gia đình với một người ngoại quốc mà vẫn còn giữ được truyền 
thống và bản sắc văn hóa Việt Nam, trong lúc một số người mới chân ướt 
chân ráo sang đây đã vội tập tành thành người bản xứ, muốn quên hết 
nguồn cội của mình.
Chia
 tay bà lúc gần mười hai giờ đêm. Đường sá vắng tanh. Tuyết vẫn rơi kín 
bầu trời. Không quen lái xe trên tuyết, tôi chạy thật chậm. Khi đến 
trước khu đại học Blindern, tôi thấy có một người đứng dưới tàng cây 
thông, đưa tay đón. Tôi dừng xe lại. Một cô gái chạy tới xin quá giang 
về nhà, vì cô dự tiệc tối ra, đã gọi taxi khá lâu mà không thấy tới. Tôi
 bảo đứa con trai lớn của tôi ra ngồi ở băng sau, nhường ghế trước cho 
cô gái. Khi cô lễ phép chào tôi, và bắt tay mấy cậu con và cháu của tôi 
ngồi ở băng sau, tự giới thiệu tên Anita rồi ngồi lên ghế, tôi mới nhận 
ra cô gái gốc Á đông, nhưng phát âm tiếng Nauy và điệu bộ hoàn toàn như 
người bản xứ. Tôi ngạc nhiên khi thấy cô đang run vì lạnh. Cô chỉ mặc 
một cái áo khoác mỏng. Tôi dừng xe, cởi cái áo choàng bằng lông cừu 
choàng qua vai cô. Gương mặt cô bé xinh xắn dễ thương, nhưng phảng phất 
buồn. Tôi hỏi cô bé đến từ nước nào. Cô cho biết cô được cha mẹ nuôi 
người Nauy nhận mang về đây lúc chưa tròn ba tuổi, nên cô chẳng biết gì.
 Sau này lớn lên, cô mới được cha mẹ nuôi kể lại là cô được Cơ quan Bảo 
Trợ Nhi Đồng LHQ nhận từ một viện mồ côi ở Việt Nam vào năm 1975. Ông bà
 xin nhận cô làm con nuôi từ Cơ quan này. Cô bé rất mong muốn được trở 
lại Việt nam một lần, để biết nơi mình sinh ra và nhờ người tìm lại tông
 tích, mồ mả của cha mẹ ruột. Cô sẽ xây mộ cho ông bà. Cha mẹ nuôi có 
hứa sẽ đưa cô về sau khi cô học xong trung học, và khi nào việc xin visa
 vào Việt Nam dễ dàng hơn. Nhà cô không xa nơi tôi ở, có lẽ không quá 
hai mươi phút lái xe. Khi qua hết mấy khu rừng thông thanh vắng, cô chỉ 
ngôi nhà lớn nằm lưng chừng trên một ngọn đồi, bảo tôi dừng lại phía 
dưới. Cô sẽ đi lên bằng con đường tắc. Cô cám ơn tôi, cởi trả lại tôi 
cái áo choàng. Cô hỏi xin tôi một mảnh giấy, viết địa chỉ xong rồi đưa 
lại cho tôi. Cô mời tôi đến Lễ Phục Sinh ghé lại nhà cô chơi. Vì chỉ còn
 một ngày nữa cô phải đi London tiếp tục theo học một năm chương trình 
trao đổi học sinh. Cha mẹ nuôi của cô rất thích nói chuyện với người 
Việt Nam, nhất là những người đã từng tham gia cuộc chiến. Tôi hứa với 
cô là thế nào tôi cũng đến thăm cô cùng ông bà cha mẹ nuôi tốt bụng.
Về
 nhà, khi kể lại chuyện cô bé quá giang cho vợ và mấy cô con gái nghe, 
tôi mới nhận ra một điều: sao tôi lại có duyên với những người mồ côi 
đến thế. Suốt cả đêm hôm ấy tôi nằm trằn trọc nghĩ đến thân phận mình và
 nhớ thật nhiều đến Nguyễn Thượng Tâm, người mà tôi đã từng nhận làm đứa
 em kết nghĩa, nhưng mãi đến bây giờ vẫn chưa làm tròn được lời thệ ước 
của mình.
* * *
Ðến
 Lễ Phục Sinh, nhớ lời hẹn, tôi rủ bà xã và hai cô con gái lớn đến thăm 
cô Anita. Bây giờ là đầu tháng tư mà tuyết vẫn còn rơi trắng cả bầu 
trời. Nhờ ban ngày nên tôi thấy rõ nhà cô hơn. Ngôi nhà có dáng của một 
lâu đài, cổ kính, sang trọng. Chung quanh là một hàng thông. Chủ ngôi 
nhà chắc đã trọng tuổi và giàu có. Ngần ngừ một lúc, tôi bấm chuông. 
Đúng như tôi nghĩ, người mở cửa là một bà già khoảng trên bảy mươi, 
nhưng còn khỏe mạnh và nói năng vui vẻ lịch thiệp. Bà ngạc nhiên nhìn 
tôi, và hỏi tôi đến có việc gì bất ngờ mà bà không được báo trước. Tôi 
xin lỗi, giới thiệu tên mình và cho bà biết là tôi có hẹn với cô Anita, 
con gái của bà, đến thăm cô ấy và vợ chồng bà. Có lẽ cô Anita quên, 
không kể chuyện lại với bà. Bà tròn mắt ngạc nhiên:
- Anita nào ? vì đứa con gái duy nhất của chúng tôi đã chết rồi mà.
Bây
 giờ đến lượt tôi ngơ ngác. Tôi kể cho bà nghe chuyện tôi gặp cô Anita 
trước cổng trường đại học hồi tháng hai, và cho cô quá giang về đây lúc 
nửa đêm. Bà mời tôi vào nhà, chỉ cho tôi tấm ảnh treo trên vách.
- Đây chính là cô Anita mà tôi đã gặp, trước khi cô trở lại London để tiếp tục học. Tôi nói to như để xác nhận với bà.
Bà nhìn tôi sụt sùi hai dòng nước mắt.
-
 Ðúng rồi, sau lần về thăm nhà và cũng để khám bệnh ấy, thay vì trở lại 
trường, con tôi phải vào bệnh viện, do một mảnh đạn nằm sâu trong tim từ
 lúc cháu ba tuổi, và cháu qua đời sau đó một tuần. Trước đây, bác sĩ có
 khám và chụp hình, nhưng bảo mảnh đạn nằm ở một vị trí khá an toàn, và 
rất nguy hiểm nếu phải giải phẩu. Không ngờ cháu lại chết vì chính mảnh 
đạn từ thời chiến tranh này.
Bà
 ra nhà sau lên tiếng gọi ông chồng, kể cho ông nghe câu chuyện tự nãy 
giờ. Ông đến chào tôi, và bảo tôi chờ ông bà mặc áo lạnh rồi sẽ dẫn tôi 
ra nghĩa trang, nằm không xa ở phía sau nhà, thăm ngôi mộ cô con gái.
Ngôi
 mộ phủ đầy tuyết trắng. Bà đưa tay phủi lớp tuyết trên tấm bia, hàng 
chử khắc sâu trên bia: ANITA NGUYEN HILDE. Nhìn tấm ảnh trên mộ bia, tôi
 có cảm giác dường như cô cũng đang nhìn tôi mỉm cười. Tôi đứng trước 
mộ, chấp hai tay khấn nguyện một đôi điều. Ông bà chủ nhà sụt sùi, bảo 
với tôi đó là cô con gái duy nhất mà ông bà hết lòng thương quí. Từ khi 
cô ta qua đời, ông bà chẳng còn thiết tha bất cứ thứ gì trên cõi đời này
 nữa. Đưa tôi trở lại nhà, ông châm củi thêm vào lò sưởi, rót mời tôi 
một tách cà phê nóng. Ông bảo nếu cô không chết thì mùa hè này ông bà sẽ
 đưa cô về thăm quê hương nguồn cội ở Việt Nam. Riêng cha mẹ ruột của cô
 thật sự đã chết trong chiến tranh rồi.
Dường như vừa nhớ lại một điều gì, ông đứng lên bước tới kệ sách, quay lại nói vói tôi:
-
 Trong hồ sơ của con tôi, người ta có ghi chú: Khi hấp hối, mẹ cháu có 
trăn trối nhờ người mang nó về một viện mồ côi mà bà quen. Bà có để 
trong túi áo quần của đứa con một tấm hình khi vợ chồng bà làm đám cưới.
 Sau tấm hình có ghi tên và đơn vị của ba cháu. Đó cũng là dấu tích duy 
nhất về gốc gác của cô con gái nuôi yêu dấu của chúng tôi.
Tôi
 chưa kịp hỏi, ông đã đưa cho tôi tập album, và chỉ cho tôi một tấm ảnh 
đen trắng ngã màu vàng sậm, được dán ngay ở trang đầu. Nhìn tấm ảnh, tôi
 giật thót cả người, như đang bị mộng du vào một cõi xa xăm nào đó: hai 
người trong tấm ảnh chính là vợ chồng Nguyễn Thượng Tâm, người em mồ côi
 kết nghĩa mà chúng tôi đã lạc mất nhau trong những ngày cuối của một 
cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Phạm Tín An Ninh.


Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar