Nhân dịp Tết Nguyên Đán Ất Mùi, đảng Cộng Sản Việt Nam đã
long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 85 năm thành lập đảng để phô trương các “thành tích”
vĩ đại. Để đánh giá đúng đắn các “thành tích” của đảng Cộng Sản Việt Nam, chúng
ta cần phải xét duyệt trước tiên quá trình thành lập tổ chức chánh trị nầy.
Nói chung, ngoài việc cướp đoạt chánh quyền một cách bất hợp
pháp bằng bạo lực cách mạng để được thụ hưởng giàu sang phú quý với một nếp sống
xa hoa vương giả như vua chúa dưới thời phong kiến, đảng Cộng Sản Việt Nam đã gặt hái nhiều
thất bại hơn thành công. Ngược dòng lịch sử cận đại, người Việt trong và ngoài
nước hãy khách quan và trung thực tìm hiểu giai đoạn thành lập đảng Cộng Sản Việt
Nam dày đặc dối trá.
Thành lập đảng Cộng Sản
Việt Nam:
Ai thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam ? Chính Đệ tam Quốc tế Cộng
sản đã tài trợ và thành lập đảng Cộng sản Việt Nam sau khi cho ra đời đảng Cộng
Sản Pháp năm 1920 tại Tours và đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1921 tại Thượng Hải
để bành trướng chủ nghĩa cộng sản tại Tây Âu và Á châu. Theo chỉ thị của Tổng Bí
thư đảng Cộng Sản Liên Xô Josef Stalin, Nguyễn Tất Thành, bí danh Nguyễn Ái Quốc
(bút danh của Nhóm Ngũ Long tại Paris) từ Thái Lan đến Quảng Châu rồi qua Hong
Kong tham dự việc thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3-2-1930 tại một sân đá
banh.Tham dự buổi họp thành lập Đảng có 6 người Việt (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Trình Đình Cữu, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Hồng
Sơn và Lê Tán Anh) và một đại biểu Quốc tế Cộng sản. Tài liệu cộng sản Việt Nam
không nói tên của người đại biểu Quốc tế Cộng sản nhưng các tư liệu tham khảo
cho biết nhân vật ngoại quốc nầy tên Hồ
Tập Chương, phái viên Cục Đông phương Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc và Hồ
Tập Chương đều là cán bộ của Cộng sản Quốc tế , thành viên Ban Trù bị thành lập
đảng Cộng Sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương đã từng làm việc chung
với nhau từ năm 1929 đến khi cả hai bị bắt giam năm 1931: Nguyễn Ái Quốc bị Cảnh
Sát Anh bắt giam tại Hong Kong, Hồ Tập Chương bị Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ
tại Quảng Châu, một thành phố lớn của tỉnh Quảng Đông.
Hồ Tập Chương là ai ?:
Hồ
Tập Chương là người sắc tộc Hakka (Hẹ) sanh năm 1903 tại
Miêu Lật, địa khu Đồng La, đảo Đài Loan. Tốt nghiệp Đại học Công nghiệp
Đài Bắc,
Hồ Tập Chương là một người uyên bác Hán văn, nói lưu loát tiếng Quảng
Đông và
tiếng Hẹ, thông thạo Nhật ngữ và Anh ngữ, yêu thích phiêu lưu,mạo hiểm
và vân
du giang hồ, có năng khiếu thích ứng với ngành gián điệp. Năm 1931, sau
khi bị
Trung Hoa Quốc dân Đảng bắt giữ tại Quảng Châu vì bị tình nghi là cán bộ
cộng sản,
Hồ Tập Chương đã được Lâm Y Lan, nữ đảng viên cộng sản Trung Quốc dưới
quyền của
Đào Chú, giải cứu, đưa đến thành phố cảng Hạ Môn, tỉnh Phước Kiến, rồi
chuyển vềQuảng Tây để khai thác hầm mỏ và hoạt động cho Cộng sản Trung
Quốc tại biên giới
Hoa-Việt năm 1932. Vì vậy, thành phố Mông Cáy, giáp giới Quảng Tây, rất
quen
thuộc đối với ông ta. Kể từ thời điểm nầy, Hồ Tập Chương chấm dứt liên
lạc với
gia đình, bỏ lại vợ con ở Đài Loan. Hồ Tập Chương kể như thất tung trong
thời
chiến loạn. Trên một giấy thông hành (passport) có dán ảnh Hồ Tập Chương
do Cảnh
Sát Anh tịch thu năm 1931 tại nhà của Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tập Chương đổi
tên là Hồ Chí Minh.
Năm 1933, sau một thời gian ẩn trú tại Thái Lan, Hồ Tập Chương
trở về Hạ Môn, đáp tàu thủy đi Thương Hải trên đường đi Moscow. Tại đây, Hồ tập
Chương được Vera Vasilieva, Chủ nhiệm
Quốc tế Cộng sản phụ trách Việt Nam, bố trí cho học tập tại Học viện Lenin
trong 5 năm (1933-1938) để cải tạo thân phận thành một con người khác. Trong thời
gian 5 năm cải tạo tại Moscow, Hồ Tập Chương đã học tiếng Việt và tiếng Pháp,
trau dồi Nga ngữ để đóng trọn vai trò của Nguyễn Ái Quốc đã qua đời trong mùa hè
năm 1932 vì bịnh lao phổi trầm trọng.
Trở về Trung Quốc:
Năm 1938, sau 5 năm học tập cải tạo tại Moscow, Hồ Tập Chương
trở về Diên An, căn cứ địa của đảng Cộng Sản Trung Quốc dưới bí danh Hồ Quang. Với quân hàm Thiếu tá, Hồ
Quang được phái đến phục vụ trong Tập đoàn quân 18 Bát lộ quân của Thống chế Diệp
Kiếm Anh hoạt động trong tỉnh Quảng Tây.
Năm 2014, chánh quyền Trung Quốc công bố một bí mật lịch sử đã được giấu kín
trên nửa thế kỷ: Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa là Thiếu tá Hồ Quang của Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Quốc.
Địa bàn hoạt động của Hồ Tập Chương tức Hồ Quang là tỉnh Quảng Tây. Các thành phố Nam Ninh, Quế Lâm và Liểu Châu của tỉnh Quảng Tây cũng như vùng biên giới Hoa-Việt quá quen thuộc đối với ông ta. Từ Quảng Tây, Hồ Quang được đảng Cộng Sản Trung Quốc đặc phái qua Việt Nam thi hành một sứ mạng đặc biệt 2 năm sau khi từ Moscow trở về Diên An. Để hỗ trợ Hồ Quang hoàn thành nhiệm vụ, đảng Cộng Sản Trung Quốc cung cấp cho ông ta một số võ khí và cán binh bảo vệ cẩn mật hang Pác Bó trong tỉnh Cao Bằng.
Nhưng theo các tài liệu dối trá của đảng Cộng Sản Việt Nam, nhân
vật từ Trung Quốc trở về Việt Nam năm 1940 và ẩn trốn trong hang Pác Bó là Nguyễn Ái Quốc. Nhân vật nầy cũng có thói
quen thường qua lại biên giới Hoa-Việt để đến tỉnh Quảng Tây. Tại đây, ông ta bị
tướng Trương Phát Khuê của Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ năm 1942 vì bị tình
nghi là gián điệp cộng sản Tàu. Năm 1943, Nguyễn Ái Quốc được trả tự do và trở
về Pác Bó với tên đổi mới là Hồ Chí Minh,
tên của Hồ Tập Chương từ năm 1931. Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng khẳng định Chủ tịch
Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc là tác giả tập thơ Nhật Ký Trong Tù sáng tác trong thời gian bị tướng Trương Phát Khuê
giam cầm tại Quảng Tây (1942-1943)
Vén màn bí mật:
Để giải mã một bí ẩn lịch sử đã được giấu kín từ năm 1940,
người Việt chúng ta cần phải đặt tin tưởng vào sự xác nhận trên giấy trắng mực đen
của chính Hồ Chí Minh trong một bài viết tháng 1 năm 1949 tựa đề trên Tạp Chí Sinh Hoạt Nội Bộ dưới bút danh Trần Thắng Lợi, nguyên văn
như sau: “Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu cùng với đại
biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng. Trong số 7,8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi (tức Hồ Chí
Minh), nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và Trịnh Đình Cữu, đồng chí Tán Anh
(Lê Tán Anh) và vài đồng chí nữa đã oanh liệt hy sinh cho đảng và cho dân tộc trước Cách Mạng tháng 8”.
Hồ Chí Minh đã viết ra một sự thật: Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người
khác nhau. Hồ Chí Minh viết trước khi quyển sách của Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) tựa đề Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ
Tịch viết bằng Hán văn được in và xuất bản tại Thượng Hải năm 1949, dịch ra
tiếng Pháp và xuất bản tại Paris năm 1950, dịch ra tiếng Việt năm 1951 để từ đó
đảng Cộng Sản Việt Nam lập luận rằng Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc !
Tại sao quyển sách của Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) lại viết bằng
Hán văn, in và xuất bản trước tiên bên Tàu trong khi Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái
Quốc, người Việt ? Phải chăng quyển sách nầy do một người Tàu (Hồ Tập Chương) viết
bằng Hán văn và phải được đảng Cộng Sản Trung Quốc kiểm duyệt trước khi xuất bản
tại Thượng Hải năm 1949 ? Hơn nữa, Nguyễn Ái Quốc chỉ có trình độ sơ cấp về Hán
văn, nhân vật nầy nếu còn sống hoàn toàn không có khả năng viết một quyển sách
bằng Hán văn. Mặt khác, nếu Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, cũng không có
đủ vốn liếng Hán văn để trước tác tập thơ Nhật
Ký Trong Tù gồm có 134 bài thơ siêu tuyệt. Nguyễn Ái Quốc cũng không thể thông
thạo ngôn ngữ riêng biệt của sắc tộc Hakka.
Trái lại, Hồ Tập Chương rất uyên bác về Hán văn. Trình độ cao
của Hồ Tập Chương về Hán văn đã thể hiện rõ rệt trong tập thơ Nhật Ký Trong Tù
do Hồ Tập Chương viết trong thời gian lao lý (1942-1943) tại Quảng Tây, sử dụng Hán văn
trác tuyệt và các thành ngữ đặc thù của sắc tộc Hakka (Hẹ).
Sau
một thời gian dài tuyên truyền gian dối về lý lịch của HồChí Minh, đảng
Cộng Sản Việt Nam đã phải công nhận một sự thật lịch sử: Cục Văn
Thư và Lưu Trử của Cộng Sản Việt Nam đã chánh thức công bố: Hồ Chí Minh là Thiếu tá
Hồ Quang của Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Quốc.
Nói tóm lại, trong thời gian 3 thập niên từ 1940 (năm Hồ Chí
Minh về hang Pác Bó) đến 1969 (năm Hồ Chí Minh qua đời), đảng Cộng Sản Việt Nam
đã không phát hiện lãnh tụ tối cao của họ là một người Tàu mà còn tôn vinh người
nầy là Cha Già của dân tộc Việt Nam, thờ phượng ông ta tại lăng Ba Đình, trong
các chùa chiền và tư gia của đồng bào trong nước. Đến ngày nay, Cộng Sản Việt
Nam mới đành phải công nhận: Hồ Chí Minh là Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội
Trung Cộng, một người Tàu. Đó là một sự xấu hỗ và thất bại to lớn đầu tiên của đảng
Cộng Sản Việt Nam.
Thẩm phán: Phạm Đình Hưng.
Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar