Lời Kêu Gọi Tẩy Chay mừng quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 1 tháng 10 Năm 2010 dưới tiêu đề "Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội".
Thành Thăng-Long được Đức Vua Lý Thái Tổ thành lập vào tháng 7 năm Canh Tuất (1010), đến nay đã được 1000 (một ngàn) năm.
Sự tích này ghi trong:
1/ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển II (tr 81)
Canh Tuất, Thuận Thiên năm thứ 1 [1010], (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 3). Mùa thu, tháng 7, vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long.
2/ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển II - trang 106
Tháng 7, mùa thu, dời kinh đô đến thành Thăng Long. Nhà vua bằng lòng lắm, mới từ Hoa Lư dời kinh đô đến Đại La thành. Thuyền ngự đến bên thành, có con rồng hiện ra. Nhà vua sai đổi tên là thành Thăng Long.
3/ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim - Chương IV - Nhà Lý trang 39
Thái-Tổ thấy đất Hoa-Lư chật hẹp không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời đô về La Thành. Tháng 7 năm Thuận-thiên nguyên-niên (1010), thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La-thành, Thái-Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-la thành là Thăng-Long thành, tức là thành Hà-Nội bây giờ. Cải Hoa-Lư làm trường-an phủ và Cổ-pháp làm Thiên-đức phủ.
4/ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Tập 2 của Lê Mạnh Thát - Chương X - Vạn Hạnh Và Việc Dời Đô Về Thăng Long - Trang 596
"Sau khi lên ngôi, một trong những việc đầu tiên mà Lý Thái Tổ làm, là dời đô về Thăng Long vào mùa Thu tháng 7 năm Canh Tuất (1010)".
Như vậy, tháng 7 mùa thu năm 1010 đến tháng 7 mùa thu năm 2010, thành Thăng-Long xưa, tên gọi Hà Nội ngày nay thành lập được 1000 năm. Nếu tính theo dương lịch năm 2010, thì tháng 7 mùa thu bắt đầu vào ngày 10/08/2010 dương lịch. Do đó đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội phải là ngày 10/08/2010 chứ không phải 1/10/2010 như Nguyễn Sinh Hùng Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Cộng sản Việt Nam, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội đã ấn định. Và mới đây, ngày 10/08/2010 Nguyễn Sinh Hùng đã chủ trì cuộc họp của Ban Chỉ đạo Quốc gia với các bộ phận liên quan về công tác chuẩn bị cho tổ chức mừng quốc khánh Tầu cộng dưới tiêu đề "kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội".
Ngày 1/10 là ngày quốc khánh của nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, và ngày 10/10 là ngày quốc khánh của nước Cộng hòa Trung hoa Dân quốc (Đài Loan). Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn ngày 1/10/2010 làm Đại lễ khai mạc kỷ niệm ngàn năm Thăng-Long Hà Nội là một sự tính toán kỹ lưỡng nhằm hợp thức hóa tình trạng Tầu cộng đô hộ Việt Nam . Và kinh phí cho buổi lễ là 94 ngàn tỷ Đồng Việt Nam (theo VNExpress) xấp xỉ khoảng 4,5 tỷ Mỹ kim (1 tỷ Đồng # 50.000 US $).
Đây là hành vi vừa phí phạm tài sản quốc gia, vừa xuyên tạc lịch sử, cũng như bôi nhọ công đức của tổ tiên đã dầy công dựng nước và giữ nước, thật là một sỉ nhục cho người Việt Nam đi mừng quốc khánh của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc và đó là điều không thể chấp nhận được.
Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam và Tinh Thần Trúc Lâm Yên Tử (Âu Châu), Trang Nhà Ly Hương (Úc Đại Lợi) cùng Tạp Chí Dân Văn (Đức Quốc), cực lực phản đối hành động nêu trên, đồng thời thiết tha kêu gọi người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước, còn quan tâm đến lịch sử nước nhà, hãy đồng loạt phản đối, tẩy chay quyết định chọn ngày 1/10/2010 khai mạc đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội.
Chúng tôi đề nghị:
1/ Hãy đồng loạt gởi thư phản đối đến văn phòng của Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng cộng sản Việt Nam cũng như Nguyễn Sinh Hùng phó thủ tướng thường trực kiêm trưởng ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội đòi hỏi ngưng ngay dự án mừng ngày quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa 1/10/2010 dưới tiêu đề " Đại lễ khai mạc kỷ niệm ngàn năm Thăng-Long Hà Nội".
2/ Phổ biến khắp nơi lời kêu gọi tẩy chay này bằng nhiều hình thức như ghi hàng chữ No china 1/10/2010; Tẩy chay 1/10/2010.
3/ Biểu tình tại gia, không tham dự ngày 1/10/2010; các cửa hàng, người bán lẻ đình chỉ buôn bán ngày 1/10/2010; các phương tiện giao thông công cộng không chuyển bánh ngày 1/10/2010; các trường tiểu, trung, đại học không mở cửa, cũng như học sinh, sinh viên, không đến trường ngày 1/10/2010. Đây chỉ là gợi ý, tại chỗ mọi người dân có thể linh động thực hiện việc phản đối.
4/ Các cơ quan công quyền đồng loạt treo cờ rũ (nghĩa là cờ chỉ kéo lên phân nửa). Đây là nói lên ý nghĩa Việt Nam đã bị Tầu cộng đô hộ một cách chính thức qua đảng Cộng sản Việt Nam.
5/ Các đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam cộng sản cũng như công an nhân dân, không tham dự diễn binh, diễn hành ngày 1/10/2010; cũng như từ chối làm công tác an ninh trật tự. Có làm được như vậy mới thực sự là quân đội, công an của nhân dân.
6/ Những thành phần dân chúng khác mang khăn trắng trên đầu, để tang cho Việt Nam trở thành quận huyện của Tầu cộng phương Bắc.
Chúng ta hãy cùng nhau quyết liệt tẩy chay ngày 1/10/2010. Đừng để cho anh linh tổ tiên bị sỉ nhục và lịch sử Việt Nam bị hoen ố thêm nữa.
Hãy Quyết Liệt Tẩy Chay Ngày 1/10/2010 Bằng Mọi Phương Tiện Có Được Trong Tay
Để Giữ Gìn Danh Dự Dân Tộc Việt Nam
Trân trọng,
- Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam và Tinh Thần Trúc Lâm Yên Tử tại Âu Châu
- Trang Nhà Ly Hương - AUSTRALIA
- TẠP CHÍ DÂN VĂN - GERMANY
Lời Kêu Gọi Tẩy Chay đã được đăng tải trên các trang nhà Ly Hương, Trúc Lâm Yên Tử, Lịch Sử Quân Sử Việt Nam, Lịch Sử Việt Nam http://www.truclamyentu.info/, http://www.quansuvn.info/
Thông Tin.
onsdag 25. august 2010
mandag 23. august 2010
Đệ Tứ Quyền
Đệ Tứ Quyền.
Hồi còn nhỏ ở những năm đầu trung học tôi được dậy rằng một nước dân chủ có tam quyền phân lập, tức là hành pháp, lập pháp, tư pháp độc lập với nhau để điều hành việc quốc gia cho công chính, phục vụ lợi ích nguời dân. Ngoài ra thì còn có một đệ tứ quyền, là báo chí. Theo quan niệm này, ngưòi làm báo được quyền tự do nói lên, viết ra sự thực. Nói thế thì biết thế, nhưng ngay từ lúc đó, tôi cũng đã được biết rằng báo chí bị kiểm duyệt, nghĩa là có những bài hay từng đoạn bị bỏ đi, và để trắng, với hàng chữ “bài bị kiểm duyệt” hay “kiểm duyệt bỏ”. Những chỗ bị kiểm duyệt trong các truyện là những đoạn mà dù bị vất đi nhưng tôi cũng đoán được là gay cấn và tôi thấy rằng vất đi cũng phải, vì trong gia đình bố mẹ tôi coi những chuyện trai gái là nhảm nhí và cấm đoán nói tới, đọc tới. Không nghe là bị đánh chết. Nhưng tôi không hiểu tại sao lại có những chỗ loan tin tức thời sự mà cũng bị kiểm duyệt. Dần dần mới hiểu rằng cái vấn đề lúc nhỏ không để ý là vấn đề chính trị thì lớn lên mới thấy là vô cùng quan trọng vì nó ảnh hưởng đến đời sống của mình, của gia đình mình, ít ra là trong hoàn cảnh VN mà tôi trưởng thành. Từ đó thì thấy rằng tại sao người ta nói đến cái đệ tứ quyền, tức là cái tự do viết bài, đưa tin của nhà báo. Vì thế cho n ên tôi rất có cảm tình với những người làm báo, vì nghĩ rằng những người này nói lên trung thực những điều cần nói. Mà những điều này thì có nhiều khi nó không đúng ý của chính quyền. Lớn hơn nữa thì tôi mới lại hiểu rằng những nhà báo không phải nhất thiết là những người nói thật,. nói điều phải, mà lại có những trường hợp nói điều trái, vì được trả lương để làm như thế. Thế là tôi mới vỡ lẽ ra rằng đệ tứ quyền là một cái quyền nêu ra để cãi nhau, giữa giới cầm quyền và giới không cầm quyền ở những nước mới chập choạng học theo lối dân chủ Tây phương, để đòi cho được cái tự do viết những điều người cầm quyền không thích (tuy rằng người đòi quyền này không nhật thiết là ngay thẳng, mà rất có thể là có gian ý).
Ở các nướcTây phương và Mỹ có nền tảng sinh hoạt tư do dân chủ vững vàng thì không ai nói đền đệ tứ quyền nữa, vì mọi người dù trong hay ngoài chính quyền đều được tự do công khai nói lên cái ý của mình. Vấn đề chỉ là có người nghe hay không, và có phương tiện để mà phổ biến ý kiến mình đi rộng rãi hay không mà thôi.Thành ra đệ tứ quyền chỉ còn được nói tới trong một nước mà báo chí bị ngăn cấm hay kiểm duyệt. Gần đây, thì ngay trong cộng đồng người Việt hải ngoại lại thấy có người nói đến cái đệ tứ quyền, và định nghĩa dài dòng cũng như đề cao những đặc điểm cao đẹp không nhất thiết là có trong thực tế ở giới truyền thông. Đây cũng là một hệ quả của vụ chống đánh văn công Đàm Vĩnh Hưng. Bởi vì nhân chuyện này thì có nhiều dư luận phản đối những bài viết ỡm ờ hay là bênh vực giao lưu văn hoá và sự tự do trình diễn của đoàn văn công Đàm Vĩnh Hưng và chê bai hành động được quần chúng hoan nghênh của Lý Tống. Rồi cũng từ chuyện này thì nẩy ra một cuộc họp báo kêu gọi để ý đến những phóng viên làm lợi cho VC. Những người bị nêu danh trong buổi họp báo là như thế nào thì quần chúng sẽ quyết định, căn cứ trên những bài đã viết và thái độ đã làm của những người này. Một phóng viên đã bị mời ra ngoài dựa theo phiếu bầu của những người có mặt. Thế là có người cho rằng đây là một vụ tố khổ, một toà án nhân dân, một vụ bịt miệng báo chí, một vụ xâm phạm quyền hành nghề của nhà báo. Lời qua tiếng lại hai bên tố lẫn nhau là chuyện đời thường. Đúng sai người nghe phán xét. Nhưng thật chẳng có gì buồn cười hơn khi kêu là bị bịt miệng hay là quyền tự do hành nghề bị xâm phạm, mà những bài viết, và trả lời, đưọc phổ biến tự nhiên như mọi người đã thấy.
Không hiểu đây là lối nói của các đỉnh cao trí tuệ loại người bất chấp người nghe, hay là của những kẻ học đòi ngụy luận để khoả lấp cái sai và che đấu cái gian không thể bào chữa được?
Câu trả lời là của mỗi người, mà nói ra thì lại có tiếng la oai oái rằng bị chụp mũ.
Lâm Phong
Hồi còn nhỏ ở những năm đầu trung học tôi được dậy rằng một nước dân chủ có tam quyền phân lập, tức là hành pháp, lập pháp, tư pháp độc lập với nhau để điều hành việc quốc gia cho công chính, phục vụ lợi ích nguời dân. Ngoài ra thì còn có một đệ tứ quyền, là báo chí. Theo quan niệm này, ngưòi làm báo được quyền tự do nói lên, viết ra sự thực. Nói thế thì biết thế, nhưng ngay từ lúc đó, tôi cũng đã được biết rằng báo chí bị kiểm duyệt, nghĩa là có những bài hay từng đoạn bị bỏ đi, và để trắng, với hàng chữ “bài bị kiểm duyệt” hay “kiểm duyệt bỏ”. Những chỗ bị kiểm duyệt trong các truyện là những đoạn mà dù bị vất đi nhưng tôi cũng đoán được là gay cấn và tôi thấy rằng vất đi cũng phải, vì trong gia đình bố mẹ tôi coi những chuyện trai gái là nhảm nhí và cấm đoán nói tới, đọc tới. Không nghe là bị đánh chết. Nhưng tôi không hiểu tại sao lại có những chỗ loan tin tức thời sự mà cũng bị kiểm duyệt. Dần dần mới hiểu rằng cái vấn đề lúc nhỏ không để ý là vấn đề chính trị thì lớn lên mới thấy là vô cùng quan trọng vì nó ảnh hưởng đến đời sống của mình, của gia đình mình, ít ra là trong hoàn cảnh VN mà tôi trưởng thành. Từ đó thì thấy rằng tại sao người ta nói đến cái đệ tứ quyền, tức là cái tự do viết bài, đưa tin của nhà báo. Vì thế cho n ên tôi rất có cảm tình với những người làm báo, vì nghĩ rằng những người này nói lên trung thực những điều cần nói. Mà những điều này thì có nhiều khi nó không đúng ý của chính quyền. Lớn hơn nữa thì tôi mới lại hiểu rằng những nhà báo không phải nhất thiết là những người nói thật,. nói điều phải, mà lại có những trường hợp nói điều trái, vì được trả lương để làm như thế. Thế là tôi mới vỡ lẽ ra rằng đệ tứ quyền là một cái quyền nêu ra để cãi nhau, giữa giới cầm quyền và giới không cầm quyền ở những nước mới chập choạng học theo lối dân chủ Tây phương, để đòi cho được cái tự do viết những điều người cầm quyền không thích (tuy rằng người đòi quyền này không nhật thiết là ngay thẳng, mà rất có thể là có gian ý).
Ở các nướcTây phương và Mỹ có nền tảng sinh hoạt tư do dân chủ vững vàng thì không ai nói đền đệ tứ quyền nữa, vì mọi người dù trong hay ngoài chính quyền đều được tự do công khai nói lên cái ý của mình. Vấn đề chỉ là có người nghe hay không, và có phương tiện để mà phổ biến ý kiến mình đi rộng rãi hay không mà thôi.Thành ra đệ tứ quyền chỉ còn được nói tới trong một nước mà báo chí bị ngăn cấm hay kiểm duyệt. Gần đây, thì ngay trong cộng đồng người Việt hải ngoại lại thấy có người nói đến cái đệ tứ quyền, và định nghĩa dài dòng cũng như đề cao những đặc điểm cao đẹp không nhất thiết là có trong thực tế ở giới truyền thông. Đây cũng là một hệ quả của vụ chống đánh văn công Đàm Vĩnh Hưng. Bởi vì nhân chuyện này thì có nhiều dư luận phản đối những bài viết ỡm ờ hay là bênh vực giao lưu văn hoá và sự tự do trình diễn của đoàn văn công Đàm Vĩnh Hưng và chê bai hành động được quần chúng hoan nghênh của Lý Tống. Rồi cũng từ chuyện này thì nẩy ra một cuộc họp báo kêu gọi để ý đến những phóng viên làm lợi cho VC. Những người bị nêu danh trong buổi họp báo là như thế nào thì quần chúng sẽ quyết định, căn cứ trên những bài đã viết và thái độ đã làm của những người này. Một phóng viên đã bị mời ra ngoài dựa theo phiếu bầu của những người có mặt. Thế là có người cho rằng đây là một vụ tố khổ, một toà án nhân dân, một vụ bịt miệng báo chí, một vụ xâm phạm quyền hành nghề của nhà báo. Lời qua tiếng lại hai bên tố lẫn nhau là chuyện đời thường. Đúng sai người nghe phán xét. Nhưng thật chẳng có gì buồn cười hơn khi kêu là bị bịt miệng hay là quyền tự do hành nghề bị xâm phạm, mà những bài viết, và trả lời, đưọc phổ biến tự nhiên như mọi người đã thấy.
Không hiểu đây là lối nói của các đỉnh cao trí tuệ loại người bất chấp người nghe, hay là của những kẻ học đòi ngụy luận để khoả lấp cái sai và che đấu cái gian không thể bào chữa được?
Câu trả lời là của mỗi người, mà nói ra thì lại có tiếng la oai oái rằng bị chụp mũ.
Lâm Phong
Trung Cộng Ðang Sửa Ðổi Lịch Sử
Trung Cộng Ðang Sửa Ðổi Lịch Sử.
Trung Quốc đang sửa đổi lịch sử và âm thầm, để tuyên truyền rằng Việt Nam trước kia là một phần lãnh thổ Trung Quốc, rằng dân Việt Nam bây giờ là gốc từ Bách Việt...
Trên trang báo Hoàn Cầu bằng Anh ngữ (Global Times) của nhà nước TQ -- địa chỉ http://www.globaltimes.cn/www/english/life/travel/chinamap/2010-08/565882.html -- nói như thế, đưa cả lên mạng Bách Khoa Tự Điển Wikipedia rằng Việt Nam là thuộc tỉnh Quảng Đông thời Tam Quốc. Vẫn chưa thấy Bộ Ngoại Giao CSVN lên tiếng về vụ lấn chiếm lãnh thổ trên dư luận quốc tế này...
Nhà văn Kim Lai đã dịch bản văn từ báo Global Times ra như sau.
Lịch sử Quảng Đông:
Theo báo Global Times của Trung quốc ngày 20.8.2010, Quảng Đông là vùng xa trung tâm nền văn minh cổ của Trung quốc nằm trong Bắc bình nguyên. Quảng Đông là nơi tập trung dân Bách Việt. Bách Việt chính là Đồng Choang, họ hàng với sắc tộc Choang tại Quảng Tây ngày nay.
Nến cai trị của Trung quốc khởi đấu trong vùng này từ đời nhà Thanh (221BC-206BC). Sau khi đế quốc Trung Hoa thống nhất được kiến tạo đầu tiên, nhà Thanh bành trướng về phía Nam và lập ra Nam Hải lĩnh tại Phiên Ngung, gần phần đất Quảng Châu hiện nay. Nam Việt độc lập trong khoảng giữa triều Thanh sụp đổ với triều Hoàng đế Vũ Hán (206BC-220AD). Triều Hán thống trị Quảng Đông, Quảng Tây và phần Bắc của Việt Nam được gọi là tỉnh Giao Chỉ. Vương quốc Vũ Hán trong thời Tam Quốc, Quảng Đông là một tỉnh riêng, gọi là tỉnh Quảng năm 226BC.
Trải theo thời gian, nhân khẩu Quảng Đông dần dần bị nhà Hán đô hộ. Nhất là vào thời kỳ Hung nô tràn vào khi nhà Hán bị sụp đổ , có hàng loạt nhân khẩu Quảng Đông di nhập vào Hán tộc. Khi di dân càng đông, dân số địa phương đồng hoá theo văn hoá Hán tộc.
Quảng Tây với Quảng Đông trở thành một phần của Lĩnh Nam hay Nam Sơn Lĩnh (Lĩnh có nghĩa là vùng khoanh chia ra để cai trị) năm 627 trong triều đại nhà Đường (618AD-907AD). Quảng Đông là một phấn của Lĩnh Nam đạt tên là Linh Đông Quảng Nam vào năm 971 thuộc triểu đại nhà Đường (960AD-1279AD). Quảng Nam Đông chính là gốc Quảng Đông.
Khi dân Mông Cổ phía Bắc dốc tâm chiếm Trung quốc vào thế kỷ 13, triều đại Sùng Nam lui về phía Nam, tức là Quảng Đông hiện nay. Trận đánh Ya Môn năm 1279 tại Quảng Đông đã chấm dứt triều đại Sùng Nam.
Trong triều đại nhà Nguyên Mông Cổ (1279AD-1368AD), Quảng Đông là một phần của Giang Tây. Tên ngày nay là tỉnh Quảng Đông có trước vào dầu triều đại nhà Minh (1368AD-1644AD).
Kề từ thế kỷ 16, Quảng Đông giao thương nhiều với nước ngoài. Các thương gia Âu Châu lân la về phía Bắc qua eo biển Malacca và biển Nam Trung quốc, nhất là dân Bồ Đào Nha và dân Anh tóc đỏ buôn bán qua ngả Quảng Châu, Ma Cao, nằm ở duyên hải phía Nam của Quảng Đông, họ là những người Âu Châu đầu tiên đóng đô tại Trung quốc từ năm 1557.
Cuộc buôn bàn nha phiến qua Quảng Châu đã dấy lên cuộc chiến tranh nha phiến, mở ra thời đại cho người nước ngoài xâm chiếm và can thiệp vào nội bộ Trung quốc..
Vào thế kỷ thứ 19, Quảng Đông cũng là hải cảng chính cho cu-li đi sang vùng Đông Nam Á và Tây phương. Kết quả cộng đồng Hoa kiều đều có gốc Quảng Đông. Tính theo tỷ lệ, Hoa kiều nói tiếng Quảng Đông ở nước ngoài nhiều hơn lục địa. Tại Hoa Kỳ, phần lớn người Hoa là con cháu của di dân ở vùng Quảng Đông ít ai biết, đó là Thái Sơn. Thái Sơn có thổ ngữ riêng, gọi là Thái Sơn Ngữ (Toishanese)
Vào năm 1850, cuộc nổi loạn Thái Bình của dân Hẹ (Hakka) đã xẩy ra tại Quảng Đông. Bởi vì dân Hẹ trực tiếp giao dịch với Tây phương, Quảng Đông là trung tâm hoạt động chống Mãn Thanh và chống Đế quốc.. Người xây dựng Tân Trung quốc được biết đến nhiều là Tôn Dật Tiên, có gốc Quảng Đông.
Vào đầu năm 1920 của Trung quốc Cộng Hoà, Quảng Đông là nơi trấn đóng của Quốc Minh Đảng để chuẩn bi cuộc Bắc chinh, nỗ lực đem các xứ quân tùng phục chính quyền trung ương. Trường võ bị Hoàng Phố được lập gần Quảng Đông để đào tạo các cấp chỉ huy quân đội.
Năm 1952, một khúc ngắn của duyên hải Quảng Đông giao cho Quảng Tây để tiếp cận với biển. Năm 1955, khúc duyên hải này trả lại cho Quảng Đông và cho khôi phục năm 1965. Đảo Hải Nam trước đây thuộc Quảng Đông, Bắc Kinh đã tách ra thành một tỉnh riêng năm 1988.
Kim Lai
(Xem: http://www.globaltimes.cn/www/english/life/travel/chinamap/2010-08/565882.html)
Trung Quốc đang sửa đổi lịch sử và âm thầm, để tuyên truyền rằng Việt Nam trước kia là một phần lãnh thổ Trung Quốc, rằng dân Việt Nam bây giờ là gốc từ Bách Việt...
Trên trang báo Hoàn Cầu bằng Anh ngữ (Global Times) của nhà nước TQ -- địa chỉ http://www.globaltimes.cn/www/english/life/travel/chinamap/2010-08/565882.html -- nói như thế, đưa cả lên mạng Bách Khoa Tự Điển Wikipedia rằng Việt Nam là thuộc tỉnh Quảng Đông thời Tam Quốc. Vẫn chưa thấy Bộ Ngoại Giao CSVN lên tiếng về vụ lấn chiếm lãnh thổ trên dư luận quốc tế này...
Nhà văn Kim Lai đã dịch bản văn từ báo Global Times ra như sau.
Lịch sử Quảng Đông:
Theo báo Global Times của Trung quốc ngày 20.8.2010, Quảng Đông là vùng xa trung tâm nền văn minh cổ của Trung quốc nằm trong Bắc bình nguyên. Quảng Đông là nơi tập trung dân Bách Việt. Bách Việt chính là Đồng Choang, họ hàng với sắc tộc Choang tại Quảng Tây ngày nay.
Nến cai trị của Trung quốc khởi đấu trong vùng này từ đời nhà Thanh (221BC-206BC). Sau khi đế quốc Trung Hoa thống nhất được kiến tạo đầu tiên, nhà Thanh bành trướng về phía Nam và lập ra Nam Hải lĩnh tại Phiên Ngung, gần phần đất Quảng Châu hiện nay. Nam Việt độc lập trong khoảng giữa triều Thanh sụp đổ với triều Hoàng đế Vũ Hán (206BC-220AD). Triều Hán thống trị Quảng Đông, Quảng Tây và phần Bắc của Việt Nam được gọi là tỉnh Giao Chỉ. Vương quốc Vũ Hán trong thời Tam Quốc, Quảng Đông là một tỉnh riêng, gọi là tỉnh Quảng năm 226BC.
Trải theo thời gian, nhân khẩu Quảng Đông dần dần bị nhà Hán đô hộ. Nhất là vào thời kỳ Hung nô tràn vào khi nhà Hán bị sụp đổ , có hàng loạt nhân khẩu Quảng Đông di nhập vào Hán tộc. Khi di dân càng đông, dân số địa phương đồng hoá theo văn hoá Hán tộc.
Quảng Tây với Quảng Đông trở thành một phần của Lĩnh Nam hay Nam Sơn Lĩnh (Lĩnh có nghĩa là vùng khoanh chia ra để cai trị) năm 627 trong triều đại nhà Đường (618AD-907AD). Quảng Đông là một phấn của Lĩnh Nam đạt tên là Linh Đông Quảng Nam vào năm 971 thuộc triểu đại nhà Đường (960AD-1279AD). Quảng Nam Đông chính là gốc Quảng Đông.
Khi dân Mông Cổ phía Bắc dốc tâm chiếm Trung quốc vào thế kỷ 13, triều đại Sùng Nam lui về phía Nam, tức là Quảng Đông hiện nay. Trận đánh Ya Môn năm 1279 tại Quảng Đông đã chấm dứt triều đại Sùng Nam.
Trong triều đại nhà Nguyên Mông Cổ (1279AD-1368AD), Quảng Đông là một phần của Giang Tây. Tên ngày nay là tỉnh Quảng Đông có trước vào dầu triều đại nhà Minh (1368AD-1644AD).
Kề từ thế kỷ 16, Quảng Đông giao thương nhiều với nước ngoài. Các thương gia Âu Châu lân la về phía Bắc qua eo biển Malacca và biển Nam Trung quốc, nhất là dân Bồ Đào Nha và dân Anh tóc đỏ buôn bán qua ngả Quảng Châu, Ma Cao, nằm ở duyên hải phía Nam của Quảng Đông, họ là những người Âu Châu đầu tiên đóng đô tại Trung quốc từ năm 1557.
Cuộc buôn bàn nha phiến qua Quảng Châu đã dấy lên cuộc chiến tranh nha phiến, mở ra thời đại cho người nước ngoài xâm chiếm và can thiệp vào nội bộ Trung quốc..
Vào thế kỷ thứ 19, Quảng Đông cũng là hải cảng chính cho cu-li đi sang vùng Đông Nam Á và Tây phương. Kết quả cộng đồng Hoa kiều đều có gốc Quảng Đông. Tính theo tỷ lệ, Hoa kiều nói tiếng Quảng Đông ở nước ngoài nhiều hơn lục địa. Tại Hoa Kỳ, phần lớn người Hoa là con cháu của di dân ở vùng Quảng Đông ít ai biết, đó là Thái Sơn. Thái Sơn có thổ ngữ riêng, gọi là Thái Sơn Ngữ (Toishanese)
Vào năm 1850, cuộc nổi loạn Thái Bình của dân Hẹ (Hakka) đã xẩy ra tại Quảng Đông. Bởi vì dân Hẹ trực tiếp giao dịch với Tây phương, Quảng Đông là trung tâm hoạt động chống Mãn Thanh và chống Đế quốc.. Người xây dựng Tân Trung quốc được biết đến nhiều là Tôn Dật Tiên, có gốc Quảng Đông.
Vào đầu năm 1920 của Trung quốc Cộng Hoà, Quảng Đông là nơi trấn đóng của Quốc Minh Đảng để chuẩn bi cuộc Bắc chinh, nỗ lực đem các xứ quân tùng phục chính quyền trung ương. Trường võ bị Hoàng Phố được lập gần Quảng Đông để đào tạo các cấp chỉ huy quân đội.
Năm 1952, một khúc ngắn của duyên hải Quảng Đông giao cho Quảng Tây để tiếp cận với biển. Năm 1955, khúc duyên hải này trả lại cho Quảng Đông và cho khôi phục năm 1965. Đảo Hải Nam trước đây thuộc Quảng Đông, Bắc Kinh đã tách ra thành một tỉnh riêng năm 1988.
Kim Lai
(Xem: http://www.globaltimes.cn/www/english/life/travel/chinamap/2010-08/565882.html)
Hình Thành Lực Lượng Đối Lập Tại VIỆT NAM
Hình Thành Lực Lượng Đối Lập Tại VIỆT NAM.
Bất cứ Người Việt Nam nào thường xuyên theo dõi hiện tình đất nước thì đều nhận thấy rất rõ rằng lòng dân trên khắp mọi miền đất nước đã quá chán ngán, căm phẫn đa số các cán bộ của Đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam đương quyền. Bất cứ cương vị cán bộ nào từ thôn, ấp, xã, phường, huyện, tỉnh, trung ương đang ngày đêm vơ vét, ăn quỵt, cướp bóc, hoành hành làm điêu đứng cả xã hội, nhân quyền và tự do tôn giáo bị vi phạm nghiêm trọng, cộng đồng dân tộc bị chia rẽ sâu sắc. Thậm chí, những người dân càng hiền lành, chất phát, lao động chân chính bao nhiêu thì lại càng bị những kẻ thống trị trấn áp, cướp giật nhà cửa đất đai, bị đẩy đến tận cùng của sự nghèo đói, oan khuất và ly tán.
Xã hội gần như là rơi vào tình trạng vô chính phủ, từ trung ương tập quyền tới địa phương cát cứ, quốc nạn tham nhũng tràn lan, tính dối trá và sợ hãi sự thật bao trùm lên cả nước. Tinh thần quốc gia dân tộc bạc nhược. Người dân sống ở đâu cũng lo sợ nhân tai, nhân họa đến từ các Cơ quan công quyền, đi đâu cũng phải lo tiền đút lót, hối lộ cho nhân viên từ hộ lý, y tá, bác sỹ trong bệnh viện đến giáo viên trong trường học, hay các ngành, các cấp, các cơ quan dịch vụ, truyền thông, công quyền. Cả dân tộc đang phải sinh tồn trong bất ổn trước sự lộng hành của lưc lượng công an, an ninh, mật vụ. Và, chưa biết bao giờ nhìn thấy được ánh sáng tương lai tốt đẹp thật sự.
Sự mua bán chức, quyền, bằng, cấp gần như công khai. Nếu muốn mua chức Cục trưởng, Vụ trưởng, Sư đoàn trưởng hay muốn được phong cấp tướng phải mất vài tỷ đồng. Chạy chức thứ trưởng phải mất 5-7 tỷ đồng. Chức Bộ trưởng phải tính tiền triệu đô la Mỹ. Dư luận ở Hà Nội biết rõ việc Ông Lê Thế Thảo chạy chức Chủ Tịch UBND Thành phố Hà Nội mất hơn 30 tỷ đồng. Rồi chuyện các Lãnh đạo cấp cao của ĐCSVN có nhiều triệu đô la Mỹ. Mỗi ủy viên trung ương Đảng CSVN hàng năm cũng vơ vét được vài chục triệu đô la Mỹ là chuyện thường. Cái danh sách tên 300 vị có chức, quyền của đảng và nhà nước CHXHCNVN đã và đang có hàng trăm triệu đôla đến hơn vài tỷ đô la Mỹ mà rất nhiều người đều biết được loan tải trên mạng internet lâu nay. Rồi chuyện Cựu Bộ trưởng Lê Ngọc Hoàn có hơn 50 cái Vi-la khắp cả nước, có con riêng 7-8 tuổi. Và mấy ông Bộ trưởng về hưu khác cũng có con riêng nhưng báo chí cấm được viết về những hiện tượng này. Rồi chuyện ông Trịnh Trọng Quyền - Cựu bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa lập Công ty riêng cho con trai để tham gia các thầu xây dựng đường sá trong tỉnh và luôn thắng thầu (theo tin từ Cán bộ đảng viên cao cấp của ĐCSVN). Sau đó bán lại thầu ngay tức khắc lấy 5% tổng giá trị gói thầu. Rồi chuyện lãnh đạo Công ty Gang thép Thái Nguyên cho con mua lại nhà máy thép cũ như là cướp luôn cả nhà máy để bán sắt vụn kiếm tiền. Chuyện Thượng tướng, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, UV TƯ ĐCSVN Nguyễn Huy Hiệu bị một phụ nữ đưa con đến Cơ quan Bộ Quốc Phòng đòi ông Hiệu nhận là con đẻ.
Trong nhiều năm qua, công luận Việt Nam lưu truyền sự kiện ông Đỗ Mười nhận 1 triệu USD hối lộ của một Công ty Hàn Quốc. Chuyện ông Lê Đức Anh bị xuất huyết não và nhà cầm quyền Bắc Kinh cử một phái đoàn bác sỹ đặc biệt sang cứu sống. Từ đó ông Lê Đức Anh mang nặng thâm ơn CS Trung Quốc. Hàng năm Trung Quốc vẫn cử một đoàn cán bộ y tế sang kiểm tra, bồi dưỡng sức khỏe cho ông Lê Đức Anh để bằng mọi giá giúp ông Lê Đức Anh sống lâu hơn. Đây là hành động thể hiện “Thiên Triều” bảo dưỡng một “tên Thái Thú - Chư Hầu”. Chính ông Lê Đức Anh là người quyết định toàn bộ quá trình bình thường hóa quan hệ giữa ĐCSVN với ĐCSTQ, nó hoàn toàn bất thường tới mức: Lãnh đạo ĐCSVN phải xin ý kiến Bắc Kinh và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán,,,. Đây là bằng chứng rõ ràng Lãnh đạo ĐCS Việt Nam chịu làm Chư hầu, Thái thú, đàn em, làm một tỉnh của TQ hay TQ bảo gì phải nghe nấy. Theo các vị Lão thành cách mạng từng lãnh đạo, cấp trên của ông Lê Đức Anh như ông Phạm Văn Xô (Cựu phó ban Tổ chức TƯ ĐCSVN), Đồng Văn Cống (Cựu phó Tổng Thanh tra QĐNDVN) và Nguyễn Văn Thi (Cựu chủ nhiệm hậu cần Bộ tư lệnh Miền Nam) thì ông Lê Đức Anh đã khai man lý lịch cá nhân và khai man tư cách Đảng viên đảng CS: “Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su như tự khai mà là người giúp việc thân cận cho chủ đồn điền De Lalant-một sỹ quan phòng nhì của Pháp. Ông Lê Đức Anh chưa bao giờ được kết nạp vào ĐCSVN”, ấy thế mà tự khai là Đảng viên ĐCSVN từ trước năm 1940, nay đã hơn 70 năm tuổi đảng. Ông Lê Đức Anh, ông Đỗ Mười và Nguyễn Chí Vịnh cũng đã từng cùng dựng ra vụ Sáu Sứ-Năm Châu để vu khống Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Trần Văn Trà cùng với tay chân định lật đổ Bộ Chính Trị và chính quyền trong dịp Đại hội 7 ĐCSVN, năm 1991. Còn vụ T4 thì ba ông trên đã dựng chuyện quy kết Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, TT Võ Văn Kiệt, TT Phan Văn Khải, CT QH Nguyễn Văn An, bà Võ Thị Thắng,,, là tay sai của tình báo CIA-Mỹ nhằm mục đích triệt hạ uy tín các đối thủ để xây dựng Phe thân CS Trung Quốc, làm tay sai cho Bắc Kinh. Thời kỳ ông Lê Đức Thọ còn sống mỗi khi ông Lê Đức Anh là đệ tử ruột được truyền ngôi đến thăm và đi ra khỏi nhà ông Thọ đều phải đi thụt lùi không dám quay lưng vào nhà ông Lê Đức Thọ. Có ý kiến, nhận định rằng hầu như 100% các sỹ quan quân đội cao cấp của CHXHCN Việt Nam hiện nay đều rất căm ghét „cha con“ ông Lê Đức Anh - Nguyễn Chí Vịnh (con nuôi). Nhưng, hầu hết các cấp tướng lĩnh lại rất quý trọng Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người Anh cả của QĐNDVN. Nhiều nhân sỹ, trí thức, các cựu cán bộ cao cấp của ĐCSVN và nhân dân khắp nơi phải lên tiếng, thậm chí kêu gọi “lật đổ, đảo chính quân sự” thì mới đây Lãnh đạo ĐCSVN đã phải mời Mỹ và Nga vào hợp tác với ASEAN. Ngay lập tức cách đây vài tuần trên Vietnamnet ông Lê Đức Anh có bài viết nội dung rằng Ông là người đầu tiên bảo trợ cho quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ từ những năm 1986 qua việc cứu giúp một ông Bác Sỹ. Chuyện này có thật hay không? Chuyện con dâu ông Lê Đức Anh là bà Nguyễn Thị Doan cũng nhờ cậy thế thần của bố chồng hiện nắm giữ chức Phó Chủ tịch nước. Qua những chứng cứ trên cho thấy rằng ông Lê Đức Anh là trụ cột cho quan hệ CS Việt Nam - CS Trung Quốc sau năm 1991. Ông Lê Đức Anh, một con người gian trá, xảo quyệt, vu khống dựng chuyện nói xấu các Đại Công Thần thời Cách mạng tháng 8 còn sống đồng thời đẩy đất nước vào tình trạng bị Trung Quốc thôn tính toàn diện, một người hoàn toàn không có tư tưởng triết lý, lý luận gì, mà chỉ có mưu mô quỷ quyệt. Hiện tại đất nước ta vẫn nghèo đói, chậm tiến mọi mặt. Hệ thống chính trị độc tài, tham nhũng thối nát ở khắp mọi nơi. Lê Đức Anh đã sống và làm việc chỉ vì lợi ích cho cá nhân và chính con cháu ông ấy, chứ hoàn toàn không vì đất nước, vì dân tộc gì cả. Nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận một “Nhà chính trị” độc ác và tàn bạo, xấu xa như vậy được. Phe đảng của ông Lê Đức Anh - Đỗ Mười thực sự đã hết thời, cần phải chấm dứt một hệ thống cai trị cổ hủ, độc quyền trên đất nước Việt Nam một cách sớm nhất!
Ông Nông Đức Mạnh có một khu trang trại rộng lớn ở tỉnh Thái Nguyên. Ông Mạnh thường xuyên đuổi vợ về quê, hàng ngày ông Mạnh sống ở Villa tại Hồ Tây có diện tích 500 m2, có „gái chân dài“ vào phục dịch hàng ngày (nguồn tin khá tin cậy cung cấp rằng Tổng Cục II bảo kê 100%). Bên cạnh có khu Villa của em ruột cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tất Trung có diện tích là 150m2. Cộng Sản Bắc Kinh khẳng định rằng ông Nông Đức Mạnh đã tự nhận mình là người dân tộc Choang của Trung Quốc. Trong nhiều chỉ thị của lãnh đạo đảng, ông Nông Đức Mạnh nêu v/đ “đất rừng VN chưa dùng đến thì để cho người khác thuê cũng được chứ sao?”. Hầu hết các trí thức và người dân Việt Nam ai cũng phê phán và chán ghét ông Mạnh. (Một tiến sỹ, cựu giảng viên ĐHBKHN và ĐH Mỏ Địa chất, nguyên thành viên Ban hiến kế cho Bộ chính trị nói: Ông Nông Đức Mạnh trí tuệ kém lắm, suy nghĩ và nói năng không có một chút lô-gíc nào cả. Ý kiến của một anh nông dân, lái xe ở Nghi Lộc, Nghệ An nói: Ông Nông Đức Mạnh đầu óc tối tăm, không có sáng kiến gì, không làm được gì cho dân, cho nước. Các Cụ Lão thành thì khẳng định “ Nông Đức Mạnh đã ngả hẳn vào lòng Trung Quốc rồi”). Ông Nông Đức Mạnh đã câu kết chặt chẽ cùng với Nguyễn Chí Vịnh là hai nhân vật quyết định cho TQ vào Tây Nguyên khai thác Bauxite nhôm tạo nên một „cửa ngõ” thuận lợi và „hợp pháp“ để cho CS Trung Quốc tiến hành xâm lược và thôn tính nước ta. Đây là một trọng tội không thể tha thứ được! Con trai ông Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn sinh năm 1963, đã đi xuất khẩu lao động ở Đông Đức mà khi trở về VN lại làm đến chức Chủ tịch Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam, rồi Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, để dọn đường chuẩn bị vào Bộ chính trị Trung Ương ĐCSVN, rồi kế tục ông Mạnh chăng? Mấy ngày vừa qua hàng chục nghìn người dân Bắc Giang biểu tình đòi giải quyết vụ một thanh niên bị CA đánh chết và chứng kiến Nông Đức Tuấn, Bí thư Tỉnh Ủy Bắc Giang vẫn đưa 2 đầu bếp từ Hà Nội về để nấu món thịt cừu, ăn nhậu phả phê, thiết đãi bạn bè thì thử hỏi ý thức và trí tuệ của một “chính trị gia” vì nhân dân ở chỗ nào? Vậy Phe cánh của cha, con ông Nông Đức Mạnh có xứng đáng là những “chính trị gia” và lãnh đạo đất nước có hơn 4000 năm văn hiến hay không?
Ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội, là một “Lý thuyết gia” của ĐCSVN, một tiến sỹ triết học Mác-Lê-Mao nhưng nói năng không có một chút triết lý hay lý luận gì. Một Nhà chính trị phải có tư tưởng riêng, lý luận riêng, chính kiến riêng, có chí khí, có lòng dũng cảm, có nhiều sáng kiến, có tư duy lô-gíc và sâu sắc, có ý thức luôn giữ cho mình trong sạch nhất như có thể và phải đặt quyền lợi của đất nước và dân tộc mình lên trên hết. Nhưng, thực tế thì ông Nguyễn Phú Trọng không làm được gì cả, ông chưa thể hiện được giá trị gì cho đất nước. Ông Nguyễn Phú Trọng còn công khai ủng hộ cho Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác Bauxite nhôm, ý kiến vô trách nhiệm của ông Trọng: Quyết „Ngăn cản không cho QHVN bàn về dự án bauxite,…và lừa rối rằng: “Dự án Bauxite có vốn đầu tư chỉ dưới 600 triệu USD”. Vậy thử hỏi ông Nguyễn Phú Trọng vì quyền lợi của đất nước và quyền lợi của dân tộc ở chỗ nào? Ông và ông Phạm Quang Nghị cũng là hai người được cử sang Trung Quốc thực tập làm Tổng bí thư của ĐCSVN khóa này. Đây rõ ràng là bằng chứng làm tay sai cho Trung Quốc, chịu thua Trung Quốc,để Trung Quốc can thiệp vào nội bộ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Nếu hai Ông ấy là những Chính trị gia tài giỏi thì không bao giờ chấp nhận sang TQ thực tập để làm Tổng Bí Thư giả tưởng - đó là hành động nhục nhã, cúi đầu quy phục Trung Quốc! Trong dịp ĐH ĐCSVN năm 2006 ông Giả Khánh Lâm là Ủy viên BCT, CT QH Trung Quốc còn sang Hà Nội đặt một „ Bộ chỉ huy“ để theo dõi và chỉ đạo ĐH của ĐCSVN (theo tin của cán bộ cao cấp của ĐCSVN). Hiện nay còn có tin BCT ĐCSVN phải báo cáo tình hình nhân sự từ cấp tỉnh hay các cấp bí thư từ cấp quận, huyện đều phải sang Trung Quốc tập huấn chính trị. Ở các tỉnh Biên giới giáp với TQ thì phải báo cáo nhân sự từ cấp huyện trở lên đối với những huyện giáp biên giới với TQ. Vậy Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung Ương ĐCSVN đã hoàn toàn là bù nhìn!
Ông Nguyễn Tấn Dũng nguyên là một viên cứu thương trong một đơn vị du kích, địa phương quân ở chiến khu Cà Mau. Khi còn là một người lính, với tin đồn khá chính xác là con của một Đồng chí của ông Võ Văn Kiệt (nhưng cũng có tin là con rơi của cựu Đại tướng Nguyễn Chí Thanh). Ông Nguyễn Tấn Dũng nguyên trình độ chưa học hết cấp I, sau năm 1975, học tại chức mà đỗ đạt tới cử nhân luật (không rõ từ năm nào đến năm nào, ở trường nào, ai là thầy dạy?), ông ta tự khai, thân thể mang tới 32 vết thương. Một người bạn của ông Dũng nay làm quan lớn ở tỉnh Thanh Hóa nói rằng ngày trước phải luôn giúp làm hộ bài, chép bài thế cho ông Dũng vì ông Dũng không biết gì cả. Vậy một Chính trị gia lại học dốt, để cho bạn chép bài hộ à? Nhân dân Việt Nam chưa nghe thấy ông Dũng có tư duy riêng, cũng chẳng có lý luận gì hết. Ông chưa nói được câu nào chúng ta thấy có giá trị, thấy có lô-gíc, hoàn toàn không có tố chất chính trị gì cả. Ông lại là một người ba phải. Khi ông Võ Văn Kiệt còn sống thì ông Dũng có chỗ dựa nên còn dám chống lại Phe tay sai Trung Quốc của ông Nông Đức Mạnh. Khi ông Kiệt chết thì ông Dũng ngả hẳn theo Phe ông Nông Đức Mạnh + Nguyễn Chí Vịnh. Gần đây, ông Dũng đi ký hợp tác làm ăn với mấy địa phương trực thuộc mấy tỉnh của Trung Quốc. Rõ ràng là hành động của “một chính trị gia rừng tràm U Minh hạ”. Đất nước ta, dân tộc ta chỉ ngang hàng với một địa phương, một tỉnh của Trung Quốc hay sao? Làm như vậy TQ sẽ „phỉ nhổ“ và mặt ông Dũng - Thủ tướng CHXHCN Việt Nam. TQ chỉ xem Việt Nam như một tỉnh, một địa phương nhỏ của họ, sẽ vô cùng thiệt hại, tai hại cho các ngành, nghề giao thương, hàng hoá Việt Nam”. Đây là một hành động thiển cận phục vụ ý đồ thôn tính nước ta của TQ. Ông Dũng lại cho xây dựng nhà thờ họ ở quê tốn tới 40 tỷ VNĐ, trong khi dân chúng đói khổ và thiếu việc làm khắp nơi, trẻ em thiếu trường, lớp học, bệnh nhân không gường nằm, người ốm đau thiếu thuốc men, dân chúng sinh sống không điện, nước. Trong nội bộ cơ quan Trung ương loan tin rằng “Doanh nghiệp nào muốn ông Dũng đến thăm thì phải chi 1, vài trăm triệu đồng cho ông Dũng và cho trợ lý của ông Dũng cũng phải 50 triệu đồng là ít”. Nghe tin con ông Dũng ở Tây Nguyên hay đứa ở lấy chồng ở Mỹ đang sống như đế vương vậy. Các quan sếp tỉnh hay các cơ, ngành… làm gì cũng phải chạy đến hỏi con ông Dũng. Và, mỗi lần hỏi, cậy nhờ là phải có „bao thư xanh“. Dũng vẫn tưởng trò ranh ma hơn người là gả con gái cho con của sĩ quan VNCH „kẻ thù không đội trời chung với CS“ đã vượt biên hiện đang cư ngụ ở Hoa Kỳ để làm phương tiện hay cứu cánh cho hành động ăn cướp và bỏ chạy khi lâm nguy. Nhà chính trị phải chứng tỏ mình thông minh, tài trí, cao siêu, cao thượng để nhân dân và thế giới nể phục, chứ như ông Dũng thì không ai có thể nể trọng được.
Ông Phùng Quang Thanh nghe tin đồn thổi là con cháu mấy đời của ông Phùng Khắc Khoan, cũng như các vị Ủy viên BCT ĐCSVN khác chẳng có gì đặc biệt. Từ lúc 17-18 tuổi vào bộ đội làm lính binh nhì thì làm sao có thể trở thành một chính trị gia giỏi được? Ông Thanh cho TGĐ Công ty xăng dầu Quân đội bán xăng dầu dự trữ quốc phòng để kiếm chênh lệch bỏ túi hàng trăm tỷ đồng, để khi quân đội cần xăng diễn tập thì không có mà dùng. Ông Thanh còn nhận hối lộ của nhiều Tỉnh đội trưởng hàng tỷ đồng để được phong lên cấp tướng. Trong dịp đi thăm Trung Quốc vừa rồi Báo QĐND viết: “Đồng chí Phùng Quang Thanh lên báo cáo Đồng Chí Từ Huy Hậu”. Ông Từ Huy Hậu chỉ là một viên tướng của Trung Quốc, phó chủ tịch quân ủy TQ, ngang hàng với Thứ trưởng Bộ QP Trung Quốc mà ông Thanh là Bộ trưởng BQP Việt Nam lại phải đến “báo cáo”. Như vậy Bộ trưởng BQP Phùng Quang Thanh chỉ như một Tỉnh đội trưởng lên báo cáo với Thứ trưởng BQP? Đây là một động thái mạt nhược, ươn hèn hiếm có trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tổng biên tập báo QĐND và cá nhân đưa tin đó lên rõ ràng đã bị bàn tay của bọn Tay sai - Thái thú của TQ chèn ép, chỉ đạo hay tự nguyện làm tay sai cho TQ rồi.
Nhân vật, Nguyễn Chí Vịnh ai cũng biết là con cựu Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, một đối trọng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày xưa, thuộc phe ông Lê Duẩn-Lê Đức Thọ. Vì vậy ông Nguyễn Chí Vịnh được nhận là con nuôi của ông Lê Đức Anh. Ngày trước đi học tuy là con nhà quyền uy, giàu có nhưng vẫn đi ăn trộm, ăn cắp Kho Quân Nhu của Học viện Kỹ thuật Quân Sự nên bị đuổi học cùng với một số đồng sự khác. Ăn cắp, ăn trộm trong Trường Sĩ Quan-khi đã là người trưởng thành- là chuyện quá ti tiện, hèn mạt, xấu xa, phi đạo đức không ai có thể chấp nhận được thế mà đòi đi làm chính trị, lại còn nhăm nhe lên tới chức Tổng Bí Thư. Một tên ăn cắp thuở nào là thứ trưởng, trung tướng thì ảnh hưởng vô cùng xấu xa đến toàn bộ binh sỹ, sỹ quan QĐND Việt Nam, chưa nói tới là Ủy viên BCT hay Bộ Trưởng Bộ QP, dự định còn làm TBT ĐCSVN thì sẽ gây nguy hại đạo đức của các Đảng viên ĐCSVN còn có lương tri, nhân cách. Nhưng, CS TQ- với mưu đồ là nước muốn thôn tính Việt Nam và muốn biến Việt Nam ta thành nước chư hầu- lại rất cần những kẻ làm tay sai. Chỉ có những kẻ xấu xa, gian trá, dốt nát mới chịu làm tay sai-thái thú cho nước khác để phản lại lợi ích của dân tộc mình, của đồng bào mình để bản thân, gia đình vợ con được hưởng sung sướng, bổng lộc trước mắt của kẻ tay sai-thái thú.
Nguyễn Chí Vịnh như đã ghi nhận ở trên đã tham gia cùng ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh những chuyện rất xấu xa, thiếu nhân cách. Nguyễn Chí Vịnh là người đã gọi điện cho ông Nguyễn Tấn Dũng năm nào nói ông Dũng cho TQ thắng thầu xây sân Mỹ Đình với giá 55 triệu USD, trong khi đó CHLB Đức bỏ thầu chỉ có 50 triệu USD thì thua thầu. Thức tế thì Vịnh và Dũng đã nhận “ tiền lót tay“ của nhà thầu TQ là bao nhiêu, có ai biết được? ) Nguyễn Chí Vịnh còn trực tiếp sang Trung Quốc chọn gái tên là Trương Vỹ Hoa cho ông Lê Khả Phiêu chơi bời một tuần để sinh đẻ ra một đứa con nay đã mười mấy tuổi để rồi ông Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký Hiệp định Biên giới năm 1999.
Nguyễn Chí Vịnh là „con thoi“ „cầu nối“ giữa ông Nông Đức Mạnh với Bắc Kinh để cho TQ vào VN khai thác Bauxite. Tay chân của Nguyễn Chí Vịnh trong TC2 toàn là những kẻ hư đốn và ăn cắp năm nào ở Học viện Kỹ thuật Quân sự. Nguyễn Chí vịnh đã cung cấp cho phía Trung Quốc danh sách cán bộ lãnh đạo Việt Nam có cảm tình và không có cảm tình với Trung Quốc. Dựa vào danh sách này Trung Quốc đã mua chuộc và gây ảnh hưởng lên hàng ngũ lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay để từng bước biến lãnh đạo ĐCSVN trở thành tay sai-thái thú. Đây rõ ràng là một hành động làm chỉ điểm cho nước ngoài, một hành động làm tay sai cho Trung Quốc, một hành động tội phạm, phản bội Tổ Quốc của Nguyễn Chí Vịnh. Nhiều nguồn tin khác ghi nhận rằng còn nhiều cá nhân khác trong nội bộ ĐCSVN làm như Nguyễn Chí Vịnh. Theo các sỹ quan quân đội cao cấp ở Hà Nội thì vừa qua 18 tỉnh cho Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông (thực chất là người TQ tất cả) thuê đất rừng đều có sự chỉ đạo của Tổng Cục 2 của Nguyễn Chí Vịnh. Với những việc làm bất hảo và phạm pháp như nêu trên Nguyễn Chí Vịnh có xứng đáng là Trung Tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng hay không? Và đây cũng là bằng chứng chứng tỏ rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh chủ đích nâng đỡ Nguyễn Chí Vịnh- tên tay sai của TQ, có nhiều điều xấu xa, bất hảo- chẳng hiểu biết gì chính trị cả, mà cốt vì bảo vệ quyền lợi ích kỷ của các ông ấy. Họ không xứng đáng một chút nào là những “Nhà chính trị”, nhà lãnh đạo đất nước hay có trách nhiệm với nhân dân!
Còn các Vị Ủy viên Trung Ương ĐCSVN khác như ông Hoàng Trung Hải hay Nguyễn Thiện Nhân, các Bí thư tỉnh ủy khác thì „chỉ ngậm miệng“ ăn tiền chia chác hay cũng chỉ như cái đuôi, cái bóng của ông Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và một số UV BCT mà thôi, Quốc Nạn tham nhũng, hối lộ, cướp bóc, trấn lột, đánh nhau, bắn, giết người xẩy ra 24/24 trên toàn cõi Việt Nam. Xin mạn phép hỏi toàn thể 85 triệu đồng bào Việt Nam có thể mãi cúi đầu chịu đựng hết đời mình, đời con, cháu chúng ta được chăng? liệu có thể tiếp tục chấp nhận sự bất công, nghèo đói và vô vọng một khi mà các “Nhà chính trị, lãnh đạo” của hệ thống độc tài toàn trị CSVN bất tài, vô dụng đang bủa vây, khép kín, đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta hay không? Chắc chắn là không – Toàn dân cẩn phải thức tỉnh và đứng dậy khi thấy cần thiết.
Ở CHLB Đức trong những năm 90 của Thế kỷ trước, ông Engholm- Chủ tịch đảng đối lập SPD, Thống đốc bang, Ứng cử viên tranh chức Thủ tướng với ông Helmut Kohl- bị phát hiện gian lận về việc đóng thuế thu nhập đã phải họp báo xin chấm dứt sự nghiệp chính trị, trở về làm một ông Luật sư quèn. Từ đó vĩnh viễn không bao giờ nói tới chính trị nữa. Còn ông Sharping - nguyên là một người hoạt động chính trị từ thời học sinh cấp 3, Thống đốc bang, có lần ra tranh cử Thủ tướng, là Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Thủ tướng của CHLB Đức là Gehart Shreoder (thỉnh thoảng bây giờ Ông vẫn đến Việt Nam) - Ông ấy chỉ bị phát hiện “cầm nhầm” có 1000 EURO (một nghìn EU ) mà phải tuyên bố từ chức Bộ trưởng BQP, chấm dứt sự nghiệp chính trị về làm dân thường, không bao giờ dám xuất hiện trước công chúng nữa.
Qua những dẫn chứng như trên chúng ta có thể kết luận rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Phùng Quang Thanh, Phạm Quang Nghị, Hoàng Trung Hải, Nguyễn Chí Vịnh và các UV TƯ ĐCSVN khác hoàn toàn không xứng đáng là các “chính trị gia” của Dân Tộc ta, không xứng đáng giữ các vị trí lãnh đạo đất nước, cần phải rút lui càng sớm càng tốt! Nếu không biết điều sớm thì e rằng sẽ chuốc lấy hậu họa như ông Ceaucescu-cựu Tổng bí thư ĐCS Rumani- và Honecker- cựu Tổng bí thư ĐCS Đông Đức năm 1989, hay ông Escada-cựu Tổng thống Philippin- tham nhũng 1 triệu USD và bị kết án 20 năm tù giam. Bài học ranh ma của cựu Thủ tướng Thái lan, Thalshin không thoát khỏi “lưới trời“ đã bị tịch thu tài sản và lệnh truy nã toàn cầu…
Tình hình quốc tế và khu vực hiện nay đang diễn ra khá thuận lợi cho hướng đi đúng đắn của cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng và bác ái cho dân tộc Việt nam chúng ta. Lực lượng đối lập chính nghĩa với Phe đảng chóp bu cầm quyền phi nghĩa nêu trên (họ chỉ là một bộ phận nhỏ trong số đảng viên ĐCSVN) Toàn dân Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước sẽ có đủ khả năng trí tuệ, nhân tài, vật lực đối trọng đã và đang hình thành là đòi hỏi bức thiết trong nước. LL đối lập với bốn vị tướng đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung Tướng Đồng Sỹ Nguyên, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh với hàng chục tướng lĩnh khác cùng các vị Lão thành cách mạng kết hợp với các lực lượng trí thức, quân đội, cảnh sát, sinh viên, quần chúng yêu nước đang khát khao Tự Do – Dân Chủ và Phát Triển Việt Nam thực sự sẽ cương quyết đấu tranh bằng mọi giá để giành lại vận mệnh Tổ Quốc đang lâm nguy đứng trước bờ vực thẳm, quyết tranh đấu giành nắm quyền lãnh đạo đất nước và đẩy Phe đảng cầm quyền hiện nay vào thế đối lập. Để chuẩn bị cho việc thành lập một lực lượng đối lập có mặt trên toàn quốc nhằm cạnh tranh ôn hoà với Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Chí Vịnh thì ngay từ lúc này từ mỗi Thôn, Ấp, Bản, Khu phố hãy kết nối các công dân yêu nước có cùng chí hướng thành những nhóm nhỏ 2-5 người. LL đối lập yêu cầu Phe đảng cầm quyền hiện nay chấp nhận Tổng Tuyển Cử tự do, bầu lại Quốc Hội và Người đứng đầu đất nước trong thời gian sớm nhất. Nhân dân cả nước đều nhận thấy rằng Hiến pháp và Pháp luật hiện nay là của Phe đảng cầm quyền, chứ hoàn toàn không phải của toàn thể Nhân dân Việt Nam. Lực lượng đối lập lấy phương châm ôn hoà, đối thoại làm chủ thuyết đấu tranh. Tuy nhiên, thời gian và hiệu qủa không đạt được thì bắt buộc phải kêu gọi toàn dân xuống đường cùng các phương sách tương ứng để biểu dương sức mạnh và hào khí dân tộc. Đó là những hành động thực tế nhất để cứu nguy cho đất nước của chúng ta.
Chúng tôi cũng kêu gọi tất cả lực lượng võ trang trong đó có những chiến
sĩ, sĩ quan Công an, Quân đội đang tại ngũ, và lực lượng cựu chiến binh từ hai phía của hai miền Nam – Bắc trước 1975 còn có lương tri trong tình tự dân tộc, nghĩa đồng bào đồng thời kêu gọi toàn thể các Tôn giáo Việt Nam hãy tiếp tay, hỗ trợ. Đó là những hành động thực tế nhất để cứu nguy cho đất nước của chúng ta. LL Đối Lập Việt Nam xin kêu gọi toàn thể đồng bào hải ngoại, các đảng phái, chính khách, hiệp hội, phương tiện truyền thông quốc tế hãy tiếp giúp và yểm trợ cho sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam chúng tôi.
Tổ Quốc Việt Nam sẽ ghi ơn tất cả sự hy sinh, cống hiến của Quý vị và các bạn!
Độc tài cộng sản đã hết thời, Tự do dân chủ cho Việt Nam muôn năm
Tổ quốc là trên hết!
Tập hợp những công dân yêu nước Việt Nam !
Nguyễn Trung Lĩnh
Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Đt: 0912370646.
Bất cứ Người Việt Nam nào thường xuyên theo dõi hiện tình đất nước thì đều nhận thấy rất rõ rằng lòng dân trên khắp mọi miền đất nước đã quá chán ngán, căm phẫn đa số các cán bộ của Đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam đương quyền. Bất cứ cương vị cán bộ nào từ thôn, ấp, xã, phường, huyện, tỉnh, trung ương đang ngày đêm vơ vét, ăn quỵt, cướp bóc, hoành hành làm điêu đứng cả xã hội, nhân quyền và tự do tôn giáo bị vi phạm nghiêm trọng, cộng đồng dân tộc bị chia rẽ sâu sắc. Thậm chí, những người dân càng hiền lành, chất phát, lao động chân chính bao nhiêu thì lại càng bị những kẻ thống trị trấn áp, cướp giật nhà cửa đất đai, bị đẩy đến tận cùng của sự nghèo đói, oan khuất và ly tán.
Xã hội gần như là rơi vào tình trạng vô chính phủ, từ trung ương tập quyền tới địa phương cát cứ, quốc nạn tham nhũng tràn lan, tính dối trá và sợ hãi sự thật bao trùm lên cả nước. Tinh thần quốc gia dân tộc bạc nhược. Người dân sống ở đâu cũng lo sợ nhân tai, nhân họa đến từ các Cơ quan công quyền, đi đâu cũng phải lo tiền đút lót, hối lộ cho nhân viên từ hộ lý, y tá, bác sỹ trong bệnh viện đến giáo viên trong trường học, hay các ngành, các cấp, các cơ quan dịch vụ, truyền thông, công quyền. Cả dân tộc đang phải sinh tồn trong bất ổn trước sự lộng hành của lưc lượng công an, an ninh, mật vụ. Và, chưa biết bao giờ nhìn thấy được ánh sáng tương lai tốt đẹp thật sự.
Sự mua bán chức, quyền, bằng, cấp gần như công khai. Nếu muốn mua chức Cục trưởng, Vụ trưởng, Sư đoàn trưởng hay muốn được phong cấp tướng phải mất vài tỷ đồng. Chạy chức thứ trưởng phải mất 5-7 tỷ đồng. Chức Bộ trưởng phải tính tiền triệu đô la Mỹ. Dư luận ở Hà Nội biết rõ việc Ông Lê Thế Thảo chạy chức Chủ Tịch UBND Thành phố Hà Nội mất hơn 30 tỷ đồng. Rồi chuyện các Lãnh đạo cấp cao của ĐCSVN có nhiều triệu đô la Mỹ. Mỗi ủy viên trung ương Đảng CSVN hàng năm cũng vơ vét được vài chục triệu đô la Mỹ là chuyện thường. Cái danh sách tên 300 vị có chức, quyền của đảng và nhà nước CHXHCNVN đã và đang có hàng trăm triệu đôla đến hơn vài tỷ đô la Mỹ mà rất nhiều người đều biết được loan tải trên mạng internet lâu nay. Rồi chuyện Cựu Bộ trưởng Lê Ngọc Hoàn có hơn 50 cái Vi-la khắp cả nước, có con riêng 7-8 tuổi. Và mấy ông Bộ trưởng về hưu khác cũng có con riêng nhưng báo chí cấm được viết về những hiện tượng này. Rồi chuyện ông Trịnh Trọng Quyền - Cựu bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa lập Công ty riêng cho con trai để tham gia các thầu xây dựng đường sá trong tỉnh và luôn thắng thầu (theo tin từ Cán bộ đảng viên cao cấp của ĐCSVN). Sau đó bán lại thầu ngay tức khắc lấy 5% tổng giá trị gói thầu. Rồi chuyện lãnh đạo Công ty Gang thép Thái Nguyên cho con mua lại nhà máy thép cũ như là cướp luôn cả nhà máy để bán sắt vụn kiếm tiền. Chuyện Thượng tướng, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, UV TƯ ĐCSVN Nguyễn Huy Hiệu bị một phụ nữ đưa con đến Cơ quan Bộ Quốc Phòng đòi ông Hiệu nhận là con đẻ.
Trong nhiều năm qua, công luận Việt Nam lưu truyền sự kiện ông Đỗ Mười nhận 1 triệu USD hối lộ của một Công ty Hàn Quốc. Chuyện ông Lê Đức Anh bị xuất huyết não và nhà cầm quyền Bắc Kinh cử một phái đoàn bác sỹ đặc biệt sang cứu sống. Từ đó ông Lê Đức Anh mang nặng thâm ơn CS Trung Quốc. Hàng năm Trung Quốc vẫn cử một đoàn cán bộ y tế sang kiểm tra, bồi dưỡng sức khỏe cho ông Lê Đức Anh để bằng mọi giá giúp ông Lê Đức Anh sống lâu hơn. Đây là hành động thể hiện “Thiên Triều” bảo dưỡng một “tên Thái Thú - Chư Hầu”. Chính ông Lê Đức Anh là người quyết định toàn bộ quá trình bình thường hóa quan hệ giữa ĐCSVN với ĐCSTQ, nó hoàn toàn bất thường tới mức: Lãnh đạo ĐCSVN phải xin ý kiến Bắc Kinh và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán,,,. Đây là bằng chứng rõ ràng Lãnh đạo ĐCS Việt Nam chịu làm Chư hầu, Thái thú, đàn em, làm một tỉnh của TQ hay TQ bảo gì phải nghe nấy. Theo các vị Lão thành cách mạng từng lãnh đạo, cấp trên của ông Lê Đức Anh như ông Phạm Văn Xô (Cựu phó ban Tổ chức TƯ ĐCSVN), Đồng Văn Cống (Cựu phó Tổng Thanh tra QĐNDVN) và Nguyễn Văn Thi (Cựu chủ nhiệm hậu cần Bộ tư lệnh Miền Nam) thì ông Lê Đức Anh đã khai man lý lịch cá nhân và khai man tư cách Đảng viên đảng CS: “Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su như tự khai mà là người giúp việc thân cận cho chủ đồn điền De Lalant-một sỹ quan phòng nhì của Pháp. Ông Lê Đức Anh chưa bao giờ được kết nạp vào ĐCSVN”, ấy thế mà tự khai là Đảng viên ĐCSVN từ trước năm 1940, nay đã hơn 70 năm tuổi đảng. Ông Lê Đức Anh, ông Đỗ Mười và Nguyễn Chí Vịnh cũng đã từng cùng dựng ra vụ Sáu Sứ-Năm Châu để vu khống Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Trần Văn Trà cùng với tay chân định lật đổ Bộ Chính Trị và chính quyền trong dịp Đại hội 7 ĐCSVN, năm 1991. Còn vụ T4 thì ba ông trên đã dựng chuyện quy kết Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, TT Võ Văn Kiệt, TT Phan Văn Khải, CT QH Nguyễn Văn An, bà Võ Thị Thắng,,, là tay sai của tình báo CIA-Mỹ nhằm mục đích triệt hạ uy tín các đối thủ để xây dựng Phe thân CS Trung Quốc, làm tay sai cho Bắc Kinh. Thời kỳ ông Lê Đức Thọ còn sống mỗi khi ông Lê Đức Anh là đệ tử ruột được truyền ngôi đến thăm và đi ra khỏi nhà ông Thọ đều phải đi thụt lùi không dám quay lưng vào nhà ông Lê Đức Thọ. Có ý kiến, nhận định rằng hầu như 100% các sỹ quan quân đội cao cấp của CHXHCN Việt Nam hiện nay đều rất căm ghét „cha con“ ông Lê Đức Anh - Nguyễn Chí Vịnh (con nuôi). Nhưng, hầu hết các cấp tướng lĩnh lại rất quý trọng Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người Anh cả của QĐNDVN. Nhiều nhân sỹ, trí thức, các cựu cán bộ cao cấp của ĐCSVN và nhân dân khắp nơi phải lên tiếng, thậm chí kêu gọi “lật đổ, đảo chính quân sự” thì mới đây Lãnh đạo ĐCSVN đã phải mời Mỹ và Nga vào hợp tác với ASEAN. Ngay lập tức cách đây vài tuần trên Vietnamnet ông Lê Đức Anh có bài viết nội dung rằng Ông là người đầu tiên bảo trợ cho quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ từ những năm 1986 qua việc cứu giúp một ông Bác Sỹ. Chuyện này có thật hay không? Chuyện con dâu ông Lê Đức Anh là bà Nguyễn Thị Doan cũng nhờ cậy thế thần của bố chồng hiện nắm giữ chức Phó Chủ tịch nước. Qua những chứng cứ trên cho thấy rằng ông Lê Đức Anh là trụ cột cho quan hệ CS Việt Nam - CS Trung Quốc sau năm 1991. Ông Lê Đức Anh, một con người gian trá, xảo quyệt, vu khống dựng chuyện nói xấu các Đại Công Thần thời Cách mạng tháng 8 còn sống đồng thời đẩy đất nước vào tình trạng bị Trung Quốc thôn tính toàn diện, một người hoàn toàn không có tư tưởng triết lý, lý luận gì, mà chỉ có mưu mô quỷ quyệt. Hiện tại đất nước ta vẫn nghèo đói, chậm tiến mọi mặt. Hệ thống chính trị độc tài, tham nhũng thối nát ở khắp mọi nơi. Lê Đức Anh đã sống và làm việc chỉ vì lợi ích cho cá nhân và chính con cháu ông ấy, chứ hoàn toàn không vì đất nước, vì dân tộc gì cả. Nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận một “Nhà chính trị” độc ác và tàn bạo, xấu xa như vậy được. Phe đảng của ông Lê Đức Anh - Đỗ Mười thực sự đã hết thời, cần phải chấm dứt một hệ thống cai trị cổ hủ, độc quyền trên đất nước Việt Nam một cách sớm nhất!
Ông Nông Đức Mạnh có một khu trang trại rộng lớn ở tỉnh Thái Nguyên. Ông Mạnh thường xuyên đuổi vợ về quê, hàng ngày ông Mạnh sống ở Villa tại Hồ Tây có diện tích 500 m2, có „gái chân dài“ vào phục dịch hàng ngày (nguồn tin khá tin cậy cung cấp rằng Tổng Cục II bảo kê 100%). Bên cạnh có khu Villa của em ruột cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tất Trung có diện tích là 150m2. Cộng Sản Bắc Kinh khẳng định rằng ông Nông Đức Mạnh đã tự nhận mình là người dân tộc Choang của Trung Quốc. Trong nhiều chỉ thị của lãnh đạo đảng, ông Nông Đức Mạnh nêu v/đ “đất rừng VN chưa dùng đến thì để cho người khác thuê cũng được chứ sao?”. Hầu hết các trí thức và người dân Việt Nam ai cũng phê phán và chán ghét ông Mạnh. (Một tiến sỹ, cựu giảng viên ĐHBKHN và ĐH Mỏ Địa chất, nguyên thành viên Ban hiến kế cho Bộ chính trị nói: Ông Nông Đức Mạnh trí tuệ kém lắm, suy nghĩ và nói năng không có một chút lô-gíc nào cả. Ý kiến của một anh nông dân, lái xe ở Nghi Lộc, Nghệ An nói: Ông Nông Đức Mạnh đầu óc tối tăm, không có sáng kiến gì, không làm được gì cho dân, cho nước. Các Cụ Lão thành thì khẳng định “ Nông Đức Mạnh đã ngả hẳn vào lòng Trung Quốc rồi”). Ông Nông Đức Mạnh đã câu kết chặt chẽ cùng với Nguyễn Chí Vịnh là hai nhân vật quyết định cho TQ vào Tây Nguyên khai thác Bauxite nhôm tạo nên một „cửa ngõ” thuận lợi và „hợp pháp“ để cho CS Trung Quốc tiến hành xâm lược và thôn tính nước ta. Đây là một trọng tội không thể tha thứ được! Con trai ông Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn sinh năm 1963, đã đi xuất khẩu lao động ở Đông Đức mà khi trở về VN lại làm đến chức Chủ tịch Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam, rồi Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, để dọn đường chuẩn bị vào Bộ chính trị Trung Ương ĐCSVN, rồi kế tục ông Mạnh chăng? Mấy ngày vừa qua hàng chục nghìn người dân Bắc Giang biểu tình đòi giải quyết vụ một thanh niên bị CA đánh chết và chứng kiến Nông Đức Tuấn, Bí thư Tỉnh Ủy Bắc Giang vẫn đưa 2 đầu bếp từ Hà Nội về để nấu món thịt cừu, ăn nhậu phả phê, thiết đãi bạn bè thì thử hỏi ý thức và trí tuệ của một “chính trị gia” vì nhân dân ở chỗ nào? Vậy Phe cánh của cha, con ông Nông Đức Mạnh có xứng đáng là những “chính trị gia” và lãnh đạo đất nước có hơn 4000 năm văn hiến hay không?
Ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội, là một “Lý thuyết gia” của ĐCSVN, một tiến sỹ triết học Mác-Lê-Mao nhưng nói năng không có một chút triết lý hay lý luận gì. Một Nhà chính trị phải có tư tưởng riêng, lý luận riêng, chính kiến riêng, có chí khí, có lòng dũng cảm, có nhiều sáng kiến, có tư duy lô-gíc và sâu sắc, có ý thức luôn giữ cho mình trong sạch nhất như có thể và phải đặt quyền lợi của đất nước và dân tộc mình lên trên hết. Nhưng, thực tế thì ông Nguyễn Phú Trọng không làm được gì cả, ông chưa thể hiện được giá trị gì cho đất nước. Ông Nguyễn Phú Trọng còn công khai ủng hộ cho Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác Bauxite nhôm, ý kiến vô trách nhiệm của ông Trọng: Quyết „Ngăn cản không cho QHVN bàn về dự án bauxite,…và lừa rối rằng: “Dự án Bauxite có vốn đầu tư chỉ dưới 600 triệu USD”. Vậy thử hỏi ông Nguyễn Phú Trọng vì quyền lợi của đất nước và quyền lợi của dân tộc ở chỗ nào? Ông và ông Phạm Quang Nghị cũng là hai người được cử sang Trung Quốc thực tập làm Tổng bí thư của ĐCSVN khóa này. Đây rõ ràng là bằng chứng làm tay sai cho Trung Quốc, chịu thua Trung Quốc,để Trung Quốc can thiệp vào nội bộ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Nếu hai Ông ấy là những Chính trị gia tài giỏi thì không bao giờ chấp nhận sang TQ thực tập để làm Tổng Bí Thư giả tưởng - đó là hành động nhục nhã, cúi đầu quy phục Trung Quốc! Trong dịp ĐH ĐCSVN năm 2006 ông Giả Khánh Lâm là Ủy viên BCT, CT QH Trung Quốc còn sang Hà Nội đặt một „ Bộ chỉ huy“ để theo dõi và chỉ đạo ĐH của ĐCSVN (theo tin của cán bộ cao cấp của ĐCSVN). Hiện nay còn có tin BCT ĐCSVN phải báo cáo tình hình nhân sự từ cấp tỉnh hay các cấp bí thư từ cấp quận, huyện đều phải sang Trung Quốc tập huấn chính trị. Ở các tỉnh Biên giới giáp với TQ thì phải báo cáo nhân sự từ cấp huyện trở lên đối với những huyện giáp biên giới với TQ. Vậy Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung Ương ĐCSVN đã hoàn toàn là bù nhìn!
Ông Nguyễn Tấn Dũng nguyên là một viên cứu thương trong một đơn vị du kích, địa phương quân ở chiến khu Cà Mau. Khi còn là một người lính, với tin đồn khá chính xác là con của một Đồng chí của ông Võ Văn Kiệt (nhưng cũng có tin là con rơi của cựu Đại tướng Nguyễn Chí Thanh). Ông Nguyễn Tấn Dũng nguyên trình độ chưa học hết cấp I, sau năm 1975, học tại chức mà đỗ đạt tới cử nhân luật (không rõ từ năm nào đến năm nào, ở trường nào, ai là thầy dạy?), ông ta tự khai, thân thể mang tới 32 vết thương. Một người bạn của ông Dũng nay làm quan lớn ở tỉnh Thanh Hóa nói rằng ngày trước phải luôn giúp làm hộ bài, chép bài thế cho ông Dũng vì ông Dũng không biết gì cả. Vậy một Chính trị gia lại học dốt, để cho bạn chép bài hộ à? Nhân dân Việt Nam chưa nghe thấy ông Dũng có tư duy riêng, cũng chẳng có lý luận gì hết. Ông chưa nói được câu nào chúng ta thấy có giá trị, thấy có lô-gíc, hoàn toàn không có tố chất chính trị gì cả. Ông lại là một người ba phải. Khi ông Võ Văn Kiệt còn sống thì ông Dũng có chỗ dựa nên còn dám chống lại Phe tay sai Trung Quốc của ông Nông Đức Mạnh. Khi ông Kiệt chết thì ông Dũng ngả hẳn theo Phe ông Nông Đức Mạnh + Nguyễn Chí Vịnh. Gần đây, ông Dũng đi ký hợp tác làm ăn với mấy địa phương trực thuộc mấy tỉnh của Trung Quốc. Rõ ràng là hành động của “một chính trị gia rừng tràm U Minh hạ”. Đất nước ta, dân tộc ta chỉ ngang hàng với một địa phương, một tỉnh của Trung Quốc hay sao? Làm như vậy TQ sẽ „phỉ nhổ“ và mặt ông Dũng - Thủ tướng CHXHCN Việt Nam. TQ chỉ xem Việt Nam như một tỉnh, một địa phương nhỏ của họ, sẽ vô cùng thiệt hại, tai hại cho các ngành, nghề giao thương, hàng hoá Việt Nam”. Đây là một hành động thiển cận phục vụ ý đồ thôn tính nước ta của TQ. Ông Dũng lại cho xây dựng nhà thờ họ ở quê tốn tới 40 tỷ VNĐ, trong khi dân chúng đói khổ và thiếu việc làm khắp nơi, trẻ em thiếu trường, lớp học, bệnh nhân không gường nằm, người ốm đau thiếu thuốc men, dân chúng sinh sống không điện, nước. Trong nội bộ cơ quan Trung ương loan tin rằng “Doanh nghiệp nào muốn ông Dũng đến thăm thì phải chi 1, vài trăm triệu đồng cho ông Dũng và cho trợ lý của ông Dũng cũng phải 50 triệu đồng là ít”. Nghe tin con ông Dũng ở Tây Nguyên hay đứa ở lấy chồng ở Mỹ đang sống như đế vương vậy. Các quan sếp tỉnh hay các cơ, ngành… làm gì cũng phải chạy đến hỏi con ông Dũng. Và, mỗi lần hỏi, cậy nhờ là phải có „bao thư xanh“. Dũng vẫn tưởng trò ranh ma hơn người là gả con gái cho con của sĩ quan VNCH „kẻ thù không đội trời chung với CS“ đã vượt biên hiện đang cư ngụ ở Hoa Kỳ để làm phương tiện hay cứu cánh cho hành động ăn cướp và bỏ chạy khi lâm nguy. Nhà chính trị phải chứng tỏ mình thông minh, tài trí, cao siêu, cao thượng để nhân dân và thế giới nể phục, chứ như ông Dũng thì không ai có thể nể trọng được.
Ông Phùng Quang Thanh nghe tin đồn thổi là con cháu mấy đời của ông Phùng Khắc Khoan, cũng như các vị Ủy viên BCT ĐCSVN khác chẳng có gì đặc biệt. Từ lúc 17-18 tuổi vào bộ đội làm lính binh nhì thì làm sao có thể trở thành một chính trị gia giỏi được? Ông Thanh cho TGĐ Công ty xăng dầu Quân đội bán xăng dầu dự trữ quốc phòng để kiếm chênh lệch bỏ túi hàng trăm tỷ đồng, để khi quân đội cần xăng diễn tập thì không có mà dùng. Ông Thanh còn nhận hối lộ của nhiều Tỉnh đội trưởng hàng tỷ đồng để được phong lên cấp tướng. Trong dịp đi thăm Trung Quốc vừa rồi Báo QĐND viết: “Đồng chí Phùng Quang Thanh lên báo cáo Đồng Chí Từ Huy Hậu”. Ông Từ Huy Hậu chỉ là một viên tướng của Trung Quốc, phó chủ tịch quân ủy TQ, ngang hàng với Thứ trưởng Bộ QP Trung Quốc mà ông Thanh là Bộ trưởng BQP Việt Nam lại phải đến “báo cáo”. Như vậy Bộ trưởng BQP Phùng Quang Thanh chỉ như một Tỉnh đội trưởng lên báo cáo với Thứ trưởng BQP? Đây là một động thái mạt nhược, ươn hèn hiếm có trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tổng biên tập báo QĐND và cá nhân đưa tin đó lên rõ ràng đã bị bàn tay của bọn Tay sai - Thái thú của TQ chèn ép, chỉ đạo hay tự nguyện làm tay sai cho TQ rồi.
Nhân vật, Nguyễn Chí Vịnh ai cũng biết là con cựu Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, một đối trọng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày xưa, thuộc phe ông Lê Duẩn-Lê Đức Thọ. Vì vậy ông Nguyễn Chí Vịnh được nhận là con nuôi của ông Lê Đức Anh. Ngày trước đi học tuy là con nhà quyền uy, giàu có nhưng vẫn đi ăn trộm, ăn cắp Kho Quân Nhu của Học viện Kỹ thuật Quân Sự nên bị đuổi học cùng với một số đồng sự khác. Ăn cắp, ăn trộm trong Trường Sĩ Quan-khi đã là người trưởng thành- là chuyện quá ti tiện, hèn mạt, xấu xa, phi đạo đức không ai có thể chấp nhận được thế mà đòi đi làm chính trị, lại còn nhăm nhe lên tới chức Tổng Bí Thư. Một tên ăn cắp thuở nào là thứ trưởng, trung tướng thì ảnh hưởng vô cùng xấu xa đến toàn bộ binh sỹ, sỹ quan QĐND Việt Nam, chưa nói tới là Ủy viên BCT hay Bộ Trưởng Bộ QP, dự định còn làm TBT ĐCSVN thì sẽ gây nguy hại đạo đức của các Đảng viên ĐCSVN còn có lương tri, nhân cách. Nhưng, CS TQ- với mưu đồ là nước muốn thôn tính Việt Nam và muốn biến Việt Nam ta thành nước chư hầu- lại rất cần những kẻ làm tay sai. Chỉ có những kẻ xấu xa, gian trá, dốt nát mới chịu làm tay sai-thái thú cho nước khác để phản lại lợi ích của dân tộc mình, của đồng bào mình để bản thân, gia đình vợ con được hưởng sung sướng, bổng lộc trước mắt của kẻ tay sai-thái thú.
Nguyễn Chí Vịnh như đã ghi nhận ở trên đã tham gia cùng ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh những chuyện rất xấu xa, thiếu nhân cách. Nguyễn Chí Vịnh là người đã gọi điện cho ông Nguyễn Tấn Dũng năm nào nói ông Dũng cho TQ thắng thầu xây sân Mỹ Đình với giá 55 triệu USD, trong khi đó CHLB Đức bỏ thầu chỉ có 50 triệu USD thì thua thầu. Thức tế thì Vịnh và Dũng đã nhận “ tiền lót tay“ của nhà thầu TQ là bao nhiêu, có ai biết được? ) Nguyễn Chí Vịnh còn trực tiếp sang Trung Quốc chọn gái tên là Trương Vỹ Hoa cho ông Lê Khả Phiêu chơi bời một tuần để sinh đẻ ra một đứa con nay đã mười mấy tuổi để rồi ông Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký Hiệp định Biên giới năm 1999.
Nguyễn Chí Vịnh là „con thoi“ „cầu nối“ giữa ông Nông Đức Mạnh với Bắc Kinh để cho TQ vào VN khai thác Bauxite. Tay chân của Nguyễn Chí Vịnh trong TC2 toàn là những kẻ hư đốn và ăn cắp năm nào ở Học viện Kỹ thuật Quân sự. Nguyễn Chí vịnh đã cung cấp cho phía Trung Quốc danh sách cán bộ lãnh đạo Việt Nam có cảm tình và không có cảm tình với Trung Quốc. Dựa vào danh sách này Trung Quốc đã mua chuộc và gây ảnh hưởng lên hàng ngũ lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay để từng bước biến lãnh đạo ĐCSVN trở thành tay sai-thái thú. Đây rõ ràng là một hành động làm chỉ điểm cho nước ngoài, một hành động làm tay sai cho Trung Quốc, một hành động tội phạm, phản bội Tổ Quốc của Nguyễn Chí Vịnh. Nhiều nguồn tin khác ghi nhận rằng còn nhiều cá nhân khác trong nội bộ ĐCSVN làm như Nguyễn Chí Vịnh. Theo các sỹ quan quân đội cao cấp ở Hà Nội thì vừa qua 18 tỉnh cho Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông (thực chất là người TQ tất cả) thuê đất rừng đều có sự chỉ đạo của Tổng Cục 2 của Nguyễn Chí Vịnh. Với những việc làm bất hảo và phạm pháp như nêu trên Nguyễn Chí Vịnh có xứng đáng là Trung Tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng hay không? Và đây cũng là bằng chứng chứng tỏ rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh chủ đích nâng đỡ Nguyễn Chí Vịnh- tên tay sai của TQ, có nhiều điều xấu xa, bất hảo- chẳng hiểu biết gì chính trị cả, mà cốt vì bảo vệ quyền lợi ích kỷ của các ông ấy. Họ không xứng đáng một chút nào là những “Nhà chính trị”, nhà lãnh đạo đất nước hay có trách nhiệm với nhân dân!
Còn các Vị Ủy viên Trung Ương ĐCSVN khác như ông Hoàng Trung Hải hay Nguyễn Thiện Nhân, các Bí thư tỉnh ủy khác thì „chỉ ngậm miệng“ ăn tiền chia chác hay cũng chỉ như cái đuôi, cái bóng của ông Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và một số UV BCT mà thôi, Quốc Nạn tham nhũng, hối lộ, cướp bóc, trấn lột, đánh nhau, bắn, giết người xẩy ra 24/24 trên toàn cõi Việt Nam. Xin mạn phép hỏi toàn thể 85 triệu đồng bào Việt Nam có thể mãi cúi đầu chịu đựng hết đời mình, đời con, cháu chúng ta được chăng? liệu có thể tiếp tục chấp nhận sự bất công, nghèo đói và vô vọng một khi mà các “Nhà chính trị, lãnh đạo” của hệ thống độc tài toàn trị CSVN bất tài, vô dụng đang bủa vây, khép kín, đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta hay không? Chắc chắn là không – Toàn dân cẩn phải thức tỉnh và đứng dậy khi thấy cần thiết.
Ở CHLB Đức trong những năm 90 của Thế kỷ trước, ông Engholm- Chủ tịch đảng đối lập SPD, Thống đốc bang, Ứng cử viên tranh chức Thủ tướng với ông Helmut Kohl- bị phát hiện gian lận về việc đóng thuế thu nhập đã phải họp báo xin chấm dứt sự nghiệp chính trị, trở về làm một ông Luật sư quèn. Từ đó vĩnh viễn không bao giờ nói tới chính trị nữa. Còn ông Sharping - nguyên là một người hoạt động chính trị từ thời học sinh cấp 3, Thống đốc bang, có lần ra tranh cử Thủ tướng, là Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Thủ tướng của CHLB Đức là Gehart Shreoder (thỉnh thoảng bây giờ Ông vẫn đến Việt Nam) - Ông ấy chỉ bị phát hiện “cầm nhầm” có 1000 EURO (một nghìn EU ) mà phải tuyên bố từ chức Bộ trưởng BQP, chấm dứt sự nghiệp chính trị về làm dân thường, không bao giờ dám xuất hiện trước công chúng nữa.
Qua những dẫn chứng như trên chúng ta có thể kết luận rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Phùng Quang Thanh, Phạm Quang Nghị, Hoàng Trung Hải, Nguyễn Chí Vịnh và các UV TƯ ĐCSVN khác hoàn toàn không xứng đáng là các “chính trị gia” của Dân Tộc ta, không xứng đáng giữ các vị trí lãnh đạo đất nước, cần phải rút lui càng sớm càng tốt! Nếu không biết điều sớm thì e rằng sẽ chuốc lấy hậu họa như ông Ceaucescu-cựu Tổng bí thư ĐCS Rumani- và Honecker- cựu Tổng bí thư ĐCS Đông Đức năm 1989, hay ông Escada-cựu Tổng thống Philippin- tham nhũng 1 triệu USD và bị kết án 20 năm tù giam. Bài học ranh ma của cựu Thủ tướng Thái lan, Thalshin không thoát khỏi “lưới trời“ đã bị tịch thu tài sản và lệnh truy nã toàn cầu…
Tình hình quốc tế và khu vực hiện nay đang diễn ra khá thuận lợi cho hướng đi đúng đắn của cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng và bác ái cho dân tộc Việt nam chúng ta. Lực lượng đối lập chính nghĩa với Phe đảng chóp bu cầm quyền phi nghĩa nêu trên (họ chỉ là một bộ phận nhỏ trong số đảng viên ĐCSVN) Toàn dân Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước sẽ có đủ khả năng trí tuệ, nhân tài, vật lực đối trọng đã và đang hình thành là đòi hỏi bức thiết trong nước. LL đối lập với bốn vị tướng đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung Tướng Đồng Sỹ Nguyên, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh với hàng chục tướng lĩnh khác cùng các vị Lão thành cách mạng kết hợp với các lực lượng trí thức, quân đội, cảnh sát, sinh viên, quần chúng yêu nước đang khát khao Tự Do – Dân Chủ và Phát Triển Việt Nam thực sự sẽ cương quyết đấu tranh bằng mọi giá để giành lại vận mệnh Tổ Quốc đang lâm nguy đứng trước bờ vực thẳm, quyết tranh đấu giành nắm quyền lãnh đạo đất nước và đẩy Phe đảng cầm quyền hiện nay vào thế đối lập. Để chuẩn bị cho việc thành lập một lực lượng đối lập có mặt trên toàn quốc nhằm cạnh tranh ôn hoà với Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Chí Vịnh thì ngay từ lúc này từ mỗi Thôn, Ấp, Bản, Khu phố hãy kết nối các công dân yêu nước có cùng chí hướng thành những nhóm nhỏ 2-5 người. LL đối lập yêu cầu Phe đảng cầm quyền hiện nay chấp nhận Tổng Tuyển Cử tự do, bầu lại Quốc Hội và Người đứng đầu đất nước trong thời gian sớm nhất. Nhân dân cả nước đều nhận thấy rằng Hiến pháp và Pháp luật hiện nay là của Phe đảng cầm quyền, chứ hoàn toàn không phải của toàn thể Nhân dân Việt Nam. Lực lượng đối lập lấy phương châm ôn hoà, đối thoại làm chủ thuyết đấu tranh. Tuy nhiên, thời gian và hiệu qủa không đạt được thì bắt buộc phải kêu gọi toàn dân xuống đường cùng các phương sách tương ứng để biểu dương sức mạnh và hào khí dân tộc. Đó là những hành động thực tế nhất để cứu nguy cho đất nước của chúng ta.
Chúng tôi cũng kêu gọi tất cả lực lượng võ trang trong đó có những chiến
sĩ, sĩ quan Công an, Quân đội đang tại ngũ, và lực lượng cựu chiến binh từ hai phía của hai miền Nam – Bắc trước 1975 còn có lương tri trong tình tự dân tộc, nghĩa đồng bào đồng thời kêu gọi toàn thể các Tôn giáo Việt Nam hãy tiếp tay, hỗ trợ. Đó là những hành động thực tế nhất để cứu nguy cho đất nước của chúng ta. LL Đối Lập Việt Nam xin kêu gọi toàn thể đồng bào hải ngoại, các đảng phái, chính khách, hiệp hội, phương tiện truyền thông quốc tế hãy tiếp giúp và yểm trợ cho sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam chúng tôi.
Tổ Quốc Việt Nam sẽ ghi ơn tất cả sự hy sinh, cống hiến của Quý vị và các bạn!
Độc tài cộng sản đã hết thời, Tự do dân chủ cho Việt Nam muôn năm
Tổ quốc là trên hết!
Tập hợp những công dân yêu nước Việt Nam !
Nguyễn Trung Lĩnh
Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Đt: 0912370646.
Cái Nhà Là Nhà Của Ta
Cái Nhà Là Nhà Của Ta.
- Cả Subic Bay và Cam Ranh cùng có một vị trí chiến lược là kiểm soát đường hàng hải trên Biển Đông. Đây là con đường hàng hải tấp nập nhất thế giới, đường vận chuyển huyết mạch của Trung Cộng, Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn... để xuất nhập cảng hàng hóa, nhất là nhập cảng dầu lửa từ Trung Đông, vì tất cả các quốc gia nói trên đều phải nhập cảng dầu…
- Subic Bay chỉ quan trọng ở điểm đó mà thôi, trái lại, ngoài mục tiêu “kiểm soát đường hàng hải trên Biển Đông”, ai trụ được ở Cam Ranh thì đã đặt được một chân lên lục địa Châu Á. Chắc chúng ta tất cả đều còn nhớ bài học Địa Lý năm lớp Nhất tiểu học : “Việt Nam là bao lơn trông ra Thái Bình Dương và là bàn đạp để tiến vào Á Châu”.
Do đó Mỹ đã bỏ Subic Bay, nhưng lại đang nài nỉ để thuê Cam Ranh vì Subic Bay chỉ có một nửa giá tri chiến lược so với Cam Ranh… Cam ranh quan trọng tới mức, sau ngày 27-3-1979, khi Phạm văn Đồng bí mật sang Mát cơ va để ký hiệp ước cho Liên Sô thuê Cam Ranh thì Trung Cộng đã vô cùng tức giận và đã “dậy cho VN một bài học” như chúng ta đã biết.
- Ngoài ra, Cam Ranh còn là trung tâm điểm của vùng Đông Nam Á. Hãy để một cái compass ở Cam Ranh rồi qay một vòng, chúng ta sẽ thấy tất cả các thủ đô và thành phố lớn tại khu vực này đều nằm trong “tầm tác xạ” của Cam Ranh: Singapore, Kuala Lumpur, Bangkok, Rangoon, Côn minh, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Hongkong, Đài Loan, Manila, Djakarta…Nói rõ ràng hơn là phi cơ và hỏa tiễn đặt tại hải cảng nước sâu này sẽ dễ dàng và mau le khống chế toàn vùng Đông Nam Á.
- Đấy là chưa nói tới những ưu điểm của chính bãn thân cái haỉ cảng này : Nó rất sâu nên có thể tiếp nhận ngay cả những hàng không mẫu hạm và chiến hạm to lớn nhất. Nó lại được bao bọc chung quanh bằng các dẫy núi khá cao, rất thuận tiện cho việc bảo vệ và phòng thủ. Nhất là nó là một cái vịnh kín nên sóng gió bão táp sẽ không gây được thiệt hại cho các chiến hạm đang neo đậu tai đó. Một đặc điểm nưã là cái lối vào duy nhất của cái vịnh nước sâu này lại được che chắn bằng một đảo đá, rất dễ dàng xây hai “cánh cổng” để ngăn chặn người nhái và tầu ngầm của đối phương xâm nhập…Nhờ yếu tố này và nhờ có đàn cá heo bảo vệ, nên trong cuộc chiến Việt Nam, người ta không hề nghe thấy một vụ phá hoại nào của đặc công Viêt cộng tại đây. Một ưu điểm nhỏ nữa của Cam Ranh là không có con sông lớn nào chảy vào lòng vịnh, mang theo phù sa, nên khỏi phải mất công nạo vét hàng năm như cảng Hải Phòng và cảng Saigòn.(Xin lạc đề một chút cho vui, tầu lớn của Hạm Đôi số 7 không cập bến Hải Phòng được, phải đậu ngoài khơi, nên người ta phài dùng “tầu há mồm”,( một loại tầu đổ bộ đáy bằng nên ủi được vào bãi cạn rối mở toang mũi tầu ra để lính ào ạt xung phong lên bờ dưới hỏa lực của địch, thí dụ trong phim The Longest Day, đổ bộ Normandy). Người ta đã phải dùng loại tầu này để trung chuyển “dân Bắc kỳ di cư” từ Hải Phòng ra chiến hạm Mỹ đậu ngoài khơi. Như vậy là “lên” tầu há mồm vào Nam mới đúng, chứ “đi” tầu há mồn vào Nam là sai).
Người ta lại đang nói đến việc các căn cứ của Mỹ bị áp lực phải rời khỏi Okinawa và việc Mỹ thuê Cam Ranh. Bộ trưởng bộ quốc phòng Việt Nam mới thăm viếng Hoa Kỳ với nhiều thỏa thuận công khai và bí mật…Một buổi sáng đẹp trời nào đó, nếu chúng ta nghe thấy tin là Mỹ đã thuê được Cam Ranh, thì chắc là chúng ta sẽ phải giật bắn ngươì lên… Việt Cộng sẽ lại sắp được dậy cho một bài học thứ hai…
Vì Cam ranh có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng như vậy, nên ngoài Nga, Tầu, Mỹ, cả Ấn Độ cũng rất muốn được đặt căn cứ tại Cam ranh hầu có thể hiện diện bằng quân sự trên con đường hàng hải huyết mạch tại Thái Bình Dương.
Những ý tưởng trên được trích từ “Trường Sơn-Trường Hận”, bút ký về chuyến đi dọc suốt cái gọi là Xa lộ Hồ chí Minh của vợ chồng tác gỉa. Cũng trong bút ký đó, tác gỉa còn viết như sau:
Nhờ chiến thắng Chiêm Thành năm 1470 của vua Lê Thánh Tôn và nhờ công lao của con cháu Chúa Nguyễn Hoàng, đất nước Việt Nam hiện có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng trên bản đồ thế giới, vừa là bàn đạp để tiến vào Á Châu, vừa là bao lơn trông ra Thái Bình Dương để chế ngự đường hàng hải trên Biển Đông. Nhưng không biết vị trí quan trong này sẽ giúp mang lại thịnh vượng ấm no cho nhân dân Việt Nam hay sẽ lại là mục tiêu để các siêu cường trên thế giới quyết tâm giành giật. Bom đạn của ngoại bang sẽ lại ào ạt trút xuống thịt xương của con người Việt Nam , mãi mãi bất tận!
Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, thì đấy cũng là Cái Nhà của ta, do công khó Ông Cha lập ra, cháu con phải gìn giữ lấy. Gìn giữ bằng Thanh bình, Ấm no, chứ không phải bằng những cuộc chiến tranh ngu xuẩn như hai cuộc chiến do Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam phát động vừa qua.
Ước gì các nhà hữu trách Việt Nam bây giờ và sau này, luôn luôn nhớ rằng, đất nước ta giữ một địa vị quan trọng trên thế giới, không phải vì dân số, không phải vì nền kinh tế tiến bộ, không phải vì mỏ dầu hay các tài nguyên thiên nhiên khác...mà chính là vì vị trí chiến lược của nó trên bản đồ thế giới.
Nếu không có vị trí chiến lược toàn cầu vô cùng quan trọng như vậy, chắc chắn hai khối Cộng Sản và Tư Bản đã chẳng sử dụng đất nước Việt Nam làm nơi thư hùng - Cộng Sản quyết chiếm, Tư bản quyết giữ - chắc chắn bom đạn của Nga, của Tầu, của Mỹ, đã không xé tan thân xác của hàng nhiều triệu con người Việt Nam, miền Nam cũng như Miền Bắc, chắc chắn máu thịt đã không vương vãi và chan hòa khắp nơi, nhất là dọc theo con đường Trường Sơn quanh co hiểm trở này. Con đường mà vợ chồng tôi đã được may mắn đi qua. Một lần. Và chỉ một lần thôi.
Vũ linh Châu
- Cả Subic Bay và Cam Ranh cùng có một vị trí chiến lược là kiểm soát đường hàng hải trên Biển Đông. Đây là con đường hàng hải tấp nập nhất thế giới, đường vận chuyển huyết mạch của Trung Cộng, Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn... để xuất nhập cảng hàng hóa, nhất là nhập cảng dầu lửa từ Trung Đông, vì tất cả các quốc gia nói trên đều phải nhập cảng dầu…
- Subic Bay chỉ quan trọng ở điểm đó mà thôi, trái lại, ngoài mục tiêu “kiểm soát đường hàng hải trên Biển Đông”, ai trụ được ở Cam Ranh thì đã đặt được một chân lên lục địa Châu Á. Chắc chúng ta tất cả đều còn nhớ bài học Địa Lý năm lớp Nhất tiểu học : “Việt Nam là bao lơn trông ra Thái Bình Dương và là bàn đạp để tiến vào Á Châu”.
Do đó Mỹ đã bỏ Subic Bay, nhưng lại đang nài nỉ để thuê Cam Ranh vì Subic Bay chỉ có một nửa giá tri chiến lược so với Cam Ranh… Cam ranh quan trọng tới mức, sau ngày 27-3-1979, khi Phạm văn Đồng bí mật sang Mát cơ va để ký hiệp ước cho Liên Sô thuê Cam Ranh thì Trung Cộng đã vô cùng tức giận và đã “dậy cho VN một bài học” như chúng ta đã biết.
- Ngoài ra, Cam Ranh còn là trung tâm điểm của vùng Đông Nam Á. Hãy để một cái compass ở Cam Ranh rồi qay một vòng, chúng ta sẽ thấy tất cả các thủ đô và thành phố lớn tại khu vực này đều nằm trong “tầm tác xạ” của Cam Ranh: Singapore, Kuala Lumpur, Bangkok, Rangoon, Côn minh, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Hongkong, Đài Loan, Manila, Djakarta…Nói rõ ràng hơn là phi cơ và hỏa tiễn đặt tại hải cảng nước sâu này sẽ dễ dàng và mau le khống chế toàn vùng Đông Nam Á.
- Đấy là chưa nói tới những ưu điểm của chính bãn thân cái haỉ cảng này : Nó rất sâu nên có thể tiếp nhận ngay cả những hàng không mẫu hạm và chiến hạm to lớn nhất. Nó lại được bao bọc chung quanh bằng các dẫy núi khá cao, rất thuận tiện cho việc bảo vệ và phòng thủ. Nhất là nó là một cái vịnh kín nên sóng gió bão táp sẽ không gây được thiệt hại cho các chiến hạm đang neo đậu tai đó. Một đặc điểm nưã là cái lối vào duy nhất của cái vịnh nước sâu này lại được che chắn bằng một đảo đá, rất dễ dàng xây hai “cánh cổng” để ngăn chặn người nhái và tầu ngầm của đối phương xâm nhập…Nhờ yếu tố này và nhờ có đàn cá heo bảo vệ, nên trong cuộc chiến Việt Nam, người ta không hề nghe thấy một vụ phá hoại nào của đặc công Viêt cộng tại đây. Một ưu điểm nhỏ nữa của Cam Ranh là không có con sông lớn nào chảy vào lòng vịnh, mang theo phù sa, nên khỏi phải mất công nạo vét hàng năm như cảng Hải Phòng và cảng Saigòn.(Xin lạc đề một chút cho vui, tầu lớn của Hạm Đôi số 7 không cập bến Hải Phòng được, phải đậu ngoài khơi, nên người ta phài dùng “tầu há mồm”,( một loại tầu đổ bộ đáy bằng nên ủi được vào bãi cạn rối mở toang mũi tầu ra để lính ào ạt xung phong lên bờ dưới hỏa lực của địch, thí dụ trong phim The Longest Day, đổ bộ Normandy). Người ta đã phải dùng loại tầu này để trung chuyển “dân Bắc kỳ di cư” từ Hải Phòng ra chiến hạm Mỹ đậu ngoài khơi. Như vậy là “lên” tầu há mồm vào Nam mới đúng, chứ “đi” tầu há mồn vào Nam là sai).
Người ta lại đang nói đến việc các căn cứ của Mỹ bị áp lực phải rời khỏi Okinawa và việc Mỹ thuê Cam Ranh. Bộ trưởng bộ quốc phòng Việt Nam mới thăm viếng Hoa Kỳ với nhiều thỏa thuận công khai và bí mật…Một buổi sáng đẹp trời nào đó, nếu chúng ta nghe thấy tin là Mỹ đã thuê được Cam Ranh, thì chắc là chúng ta sẽ phải giật bắn ngươì lên… Việt Cộng sẽ lại sắp được dậy cho một bài học thứ hai…
Vì Cam ranh có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng như vậy, nên ngoài Nga, Tầu, Mỹ, cả Ấn Độ cũng rất muốn được đặt căn cứ tại Cam ranh hầu có thể hiện diện bằng quân sự trên con đường hàng hải huyết mạch tại Thái Bình Dương.
Những ý tưởng trên được trích từ “Trường Sơn-Trường Hận”, bút ký về chuyến đi dọc suốt cái gọi là Xa lộ Hồ chí Minh của vợ chồng tác gỉa. Cũng trong bút ký đó, tác gỉa còn viết như sau:
Nhờ chiến thắng Chiêm Thành năm 1470 của vua Lê Thánh Tôn và nhờ công lao của con cháu Chúa Nguyễn Hoàng, đất nước Việt Nam hiện có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng trên bản đồ thế giới, vừa là bàn đạp để tiến vào Á Châu, vừa là bao lơn trông ra Thái Bình Dương để chế ngự đường hàng hải trên Biển Đông. Nhưng không biết vị trí quan trong này sẽ giúp mang lại thịnh vượng ấm no cho nhân dân Việt Nam hay sẽ lại là mục tiêu để các siêu cường trên thế giới quyết tâm giành giật. Bom đạn của ngoại bang sẽ lại ào ạt trút xuống thịt xương của con người Việt Nam , mãi mãi bất tận!
Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, thì đấy cũng là Cái Nhà của ta, do công khó Ông Cha lập ra, cháu con phải gìn giữ lấy. Gìn giữ bằng Thanh bình, Ấm no, chứ không phải bằng những cuộc chiến tranh ngu xuẩn như hai cuộc chiến do Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam phát động vừa qua.
Ước gì các nhà hữu trách Việt Nam bây giờ và sau này, luôn luôn nhớ rằng, đất nước ta giữ một địa vị quan trọng trên thế giới, không phải vì dân số, không phải vì nền kinh tế tiến bộ, không phải vì mỏ dầu hay các tài nguyên thiên nhiên khác...mà chính là vì vị trí chiến lược của nó trên bản đồ thế giới.
Nếu không có vị trí chiến lược toàn cầu vô cùng quan trọng như vậy, chắc chắn hai khối Cộng Sản và Tư Bản đã chẳng sử dụng đất nước Việt Nam làm nơi thư hùng - Cộng Sản quyết chiếm, Tư bản quyết giữ - chắc chắn bom đạn của Nga, của Tầu, của Mỹ, đã không xé tan thân xác của hàng nhiều triệu con người Việt Nam, miền Nam cũng như Miền Bắc, chắc chắn máu thịt đã không vương vãi và chan hòa khắp nơi, nhất là dọc theo con đường Trường Sơn quanh co hiểm trở này. Con đường mà vợ chồng tôi đã được may mắn đi qua. Một lần. Và chỉ một lần thôi.
Vũ linh Châu
Phong Trào 6 Chữ HS-TS-VN
Phong Trào 6 Chữ HS-TS-VN Xuất Hiện Khắp Nơi Trên Cả Nước.
Những chữ này nằm trong chiến dịch cổ võ “6 chữ vàng” của những người yêu nước Việt Nam đối nghịch với “16 chữ vàng” cổ võ mối bang giao “đồng chí anh em” Việt Nam-Trung Quốc nhưng Trung Quốc ngày càng lộ rõ chủ trương bá quyền bành trướng đối với Việt Nam.
Những chữ nói trên và các tấm truyền đơn có các hàng chữ “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam,” “Người Việt Nam chúng ta quyết không để Trung Quốc cướp lấy Hoàng Sa, Trường Sa” có thể nhìn thấy trên nhiều tỉnh thị từ Bắc chí Nam. Không biết ai là đích thị tác giả của những khẩu hiệu, truyền đơn đó. Nhưng có thể là tác phẩm của một tập hợp nhiều tổ chức, nhóm thanh niên yêu nước trong và ngoài nước phối hợp hành động với nhau dưới danh xưng “Ủy Ban Phối Hợp Hành Ðộng Vì Dân Chủ.”
Chế độ Hà Nội mở các chiến dịch “thi đua yêu nước” nhưng các cuộc biểu tình của giới thanh niên ở Sài Gòn và Hà Nội cuối năm 2007 sang đầu năm 2008 phản đối Trung Quốc (ra nghị quyết nâng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thành thành phố cấp huyện trực thuộc tỉnh Hải Nam) đã bị đàn áp.
“Hiện nay, cơ quan an ninh thành phố đang truy tìm các đối tượng đã làm việc này. Họ tung người ra điều tra ở các địa điểm xuất hiện các tờ rơi HS-TS-VN và có một số nơi, họ đã gắn các máy thu hình để theo dõi người qua lại. Do đó, chúng tôi đã cố gắng đề cao cảnh giác để không bị phát hiện. Chúng tôi cũng đề nghị ủy ban thông báo rộng rãi tin tức này, để các bạn khác biết và đề phòng tai mắt của cơ quan điều tra. Quan trọng là khi tiến hành, cần quan sát xem có những máy thu hình được gắn kín đáo ở chung quanh đó không. Không làm ở nơi mình cư ngụ hay thường lui tới, mà tìm những nơi hoàn toàn xa lạ, thực hiện xong, không trở lại.”
Nguyễn Văn Tân, một người của “Nhóm thanh niên hành động vì đất nước” phổ biến bức thư trên trang mạng nói trên cho hay về sự khó khăn của những người muốn bày tỏ lòng yêu nước mà phải lén lút viết như thế và nói: “Mặc dù việc làm của chúng tôi càng lúc càng khó khăn, đặc biệt là các dịp lễ sắp đến, nhưng chúng tôi vẫn không e ngại và sẽ tiếp tục việc làm này để góp phần vạch mặt bọn bán nước, đồng lõa với bọn bá quyền Trung Quốc.”
Trong một bức thư khác kèm theo các tấm hình “6 chữ vàng” xuất hiện ở Hà Nội, một người thanh niên viết rằng: “Chúng cháu là sinh viên sống tại quận Ðống Ða, Hà Nội xin nhờ các báo, đài mạng chuyển lời kính thăm đến bác Nguyễn Hoàng Mão tại quận Thanh Xuân, người đã viết những chữ HS-TS-VN đầu tiên tại thủ đô Hà Nội.
Trong thư của bác Mão có đoạn: “Có ai biết để có Hà Nội bây giờ, bao nhiêu đời ông cố ông kỵ chúng ta đã đổ biết bao xương máu ra mới bảo vệ được cái nước này, cái thủ đô này suốt một nghìn năm qua? Thế mà bây giờ, giặc vào chiếm đảo, chiếm đất, chiếm biển, chiếm rừng thì ta lại chẳng dám đụng đến cả cái tên của chúng nữa. Chỉ rón rén gọi là “nước lạ, tàu lạ.” Thế thì ta có đáng đứng trên cái đất thủ đô này không, chứ đừng nói gì đến ăn mừng!”
Những lời này thật đúng nhưng cũng thật đau bác ạ! Chúng cháu nhất trí người Hà Nội phải sống sao cho đáng là “Người Hà Nội.” Mỗi người phải tự đánh thức mình dậy thôi.
Những hình ảnh mới nhất phổ biến trên trang mạng của ủy ban vừa nói: http://danchutudochovietnam.blogspot.com/
Dong Tran
Những chữ này nằm trong chiến dịch cổ võ “6 chữ vàng” của những người yêu nước Việt Nam đối nghịch với “16 chữ vàng” cổ võ mối bang giao “đồng chí anh em” Việt Nam-Trung Quốc nhưng Trung Quốc ngày càng lộ rõ chủ trương bá quyền bành trướng đối với Việt Nam.
Những chữ nói trên và các tấm truyền đơn có các hàng chữ “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam,” “Người Việt Nam chúng ta quyết không để Trung Quốc cướp lấy Hoàng Sa, Trường Sa” có thể nhìn thấy trên nhiều tỉnh thị từ Bắc chí Nam. Không biết ai là đích thị tác giả của những khẩu hiệu, truyền đơn đó. Nhưng có thể là tác phẩm của một tập hợp nhiều tổ chức, nhóm thanh niên yêu nước trong và ngoài nước phối hợp hành động với nhau dưới danh xưng “Ủy Ban Phối Hợp Hành Ðộng Vì Dân Chủ.”
Chế độ Hà Nội mở các chiến dịch “thi đua yêu nước” nhưng các cuộc biểu tình của giới thanh niên ở Sài Gòn và Hà Nội cuối năm 2007 sang đầu năm 2008 phản đối Trung Quốc (ra nghị quyết nâng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thành thành phố cấp huyện trực thuộc tỉnh Hải Nam) đã bị đàn áp.
“Hiện nay, cơ quan an ninh thành phố đang truy tìm các đối tượng đã làm việc này. Họ tung người ra điều tra ở các địa điểm xuất hiện các tờ rơi HS-TS-VN và có một số nơi, họ đã gắn các máy thu hình để theo dõi người qua lại. Do đó, chúng tôi đã cố gắng đề cao cảnh giác để không bị phát hiện. Chúng tôi cũng đề nghị ủy ban thông báo rộng rãi tin tức này, để các bạn khác biết và đề phòng tai mắt của cơ quan điều tra. Quan trọng là khi tiến hành, cần quan sát xem có những máy thu hình được gắn kín đáo ở chung quanh đó không. Không làm ở nơi mình cư ngụ hay thường lui tới, mà tìm những nơi hoàn toàn xa lạ, thực hiện xong, không trở lại.”
Nguyễn Văn Tân, một người của “Nhóm thanh niên hành động vì đất nước” phổ biến bức thư trên trang mạng nói trên cho hay về sự khó khăn của những người muốn bày tỏ lòng yêu nước mà phải lén lút viết như thế và nói: “Mặc dù việc làm của chúng tôi càng lúc càng khó khăn, đặc biệt là các dịp lễ sắp đến, nhưng chúng tôi vẫn không e ngại và sẽ tiếp tục việc làm này để góp phần vạch mặt bọn bán nước, đồng lõa với bọn bá quyền Trung Quốc.”
Trong một bức thư khác kèm theo các tấm hình “6 chữ vàng” xuất hiện ở Hà Nội, một người thanh niên viết rằng: “Chúng cháu là sinh viên sống tại quận Ðống Ða, Hà Nội xin nhờ các báo, đài mạng chuyển lời kính thăm đến bác Nguyễn Hoàng Mão tại quận Thanh Xuân, người đã viết những chữ HS-TS-VN đầu tiên tại thủ đô Hà Nội.
Trong thư của bác Mão có đoạn: “Có ai biết để có Hà Nội bây giờ, bao nhiêu đời ông cố ông kỵ chúng ta đã đổ biết bao xương máu ra mới bảo vệ được cái nước này, cái thủ đô này suốt một nghìn năm qua? Thế mà bây giờ, giặc vào chiếm đảo, chiếm đất, chiếm biển, chiếm rừng thì ta lại chẳng dám đụng đến cả cái tên của chúng nữa. Chỉ rón rén gọi là “nước lạ, tàu lạ.” Thế thì ta có đáng đứng trên cái đất thủ đô này không, chứ đừng nói gì đến ăn mừng!”
Những lời này thật đúng nhưng cũng thật đau bác ạ! Chúng cháu nhất trí người Hà Nội phải sống sao cho đáng là “Người Hà Nội.” Mỗi người phải tự đánh thức mình dậy thôi.
Những hình ảnh mới nhất phổ biến trên trang mạng của ủy ban vừa nói: http://danchutudochovietnam.blogspot.com/
Dong Tran
fredag 20. august 2010
KHẢ TỬ, BẤT KHẢ NHỤC
KHẢ TỬ, BẤT KHẢ NHỤC.
Để nắm vững cái thường gọi là chuyên chính vô sản, VGCS phải triệt hạ không nhân nhượng tất cả mọi cá nhân hay tổ chức nào mà chúng cho là nguyên nhân có thể dẫn đến sự sụp đổ của chế độ. Đó là nguyên tắc không thay đổi của CS. Trường hợp đức TGM Ngô Quang Kiệt là một thí dụ điển hình. Bằng mọi cách và bằng mọi giá, chúng phải đẩy ngài đi. Cái may cho ngài là, chúng chỉ đẩy ngài đi ngoại quốc mà không thủ tiêu ngài như chúng đã thủ tiêu đức TGM Nguyễn Kim Điền, hay như mật vụ Balan thủ tiêu Lm Jerzy Popieluszko. Tình thế và hoàn cảnh hiện nay của VGCS không cho phép chúng hành sử lỗ mãng như trước nữa. Đơn giản chỉ có thế. Đừng tưởng rằng VGCS bây giờ văn minh hơn hay nhân đạo hơn. Lầm to.
Sau khi đẩy được đức TGM Ngô Quang Kiệt đi rồi, và đã đặt được người của chúng thay thế rồi, VGCS “lại quả” một chút để rửa mặt cho Tòa Thánh theo thông lệ ngoại giao quốc tế: bánh ích quăng đi, bánh qui quăng lại, bằng cách cho phép Tòa Thánh được cử một phái viên không thường trú tại VN. Vấn đề này, báo chí loan tin như sau: ngày 23-24/6/2010 phái đoàn Việt Nam đã đến Vatican để tiến hành khóa họp thứ 2 của Nhóm Làm Việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh. Khóa họp được hai đồng chủ tọa là Đức Ông Ettore Balestrero, thứ trưởng ngoại giao Tòa Thánh làm trưởng đoàn, và Nguyễn Quốc Cường, thứ trưởng ngoại giao, trưởng đoàn Việt Nam. Mục đích việc đặt phái viên không thường trú của Tòa Thánh là nhằm tăng cường quan hệ giữa Vatican và Việt Nam, cũng như quan hệ giữa Vatican và Giáo hội Công giáo VN. Đối với VGCS thì sự kiện này chẳng là cái gì cả. Trong chỗ riêng tư, một nhân viên bộ Ngoại Giao VGCS đã nói: Nó (việc đặt phái viên không thường trực) chẳng có gía trị gì cả. Nhưng với Tòa Thánh thì đây lại là một thành công lớn. Nó là công khó của hàng mấy thập niên thương lượng và trông đợi, là kết quả của việc phải cắn răng chịu nhục để thay đổi hàng ngũ lãnh đạo GHVN một cách đầy tai tiếng. Nó còn là việc dám liều mạng đánh đổi lòng tin của giáo dân VN vào Tòa Thánh với một cái gì đó rất mơ hồ, chưa hình thành và chưa lấy gì làm bảo đảm.
Kết cục chuyện xẩy ra tại VN không phải ngẫu nhiên, nhưng là do đường lối ngoại giao hiện nay của Tòa Thánh đem lại. Vấn đề đặt ra là trong vụ TGM Ngô Quang Kiệt, Tòa Thánh hành động vì lợi ích của Giáo Hội hay của quốc gia Vatican. Thật sự rất khó trả lời. Nhưng suy luận thế này, nếu bảo rằng Tòa Thánh làm việc vì giáo hội thì e rằng không hợp lý, bởi vì không thể nào Tòa Thánh, vì để thỏa mãn đòi hỏi của một nhà nước ma quỉ, lại đi hy sinh tâm tư, tình cảm, cùng là khát vọng chính đáng của giáo dân như thế. Còn nếu cho rằng Tòa Thánh làm theo đường lối ngoại giao thông thường trong mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau, thì phải giải thích làm sao lời Chúa đã xác định trước mặt toàn quyền Pilate: Nước của Tôi không thuộc về thế gian này. Nói tóm lại thì Tòa Thánh trong nhiều trường hợp đã lẫn lộn việc đạo với việc đời. Có thể nói đó là tính đặc thù của Tòa Thánh Vatican. Không biết phải gọi nó thế nào cho đúng, thôi thì cứ tạm gọi là “Tính Quốc Tế” hy vọng có thể được chấp nhận. Tính Quốc Tế xóa đi mọi lằn ranh quốc gia. Đây chính là điểm không hẹn mà gặp giữa công giáo và cộng sản. Cả hai đều mang tính quốc tế cả trong chủ thuyết lẫn hành động. Do từ bản chất sẵn mang tính quốc tế, nước Nga trở thành đế quốc đỏ. Các nước CS khác như VN đều là chư hầu của Nga Sô. Quốc Tế III Cộng Sản là tổ quốc của tất cả mọi người CS trên toàn thế giới. Đảng CSVN chỉ là một chi bộ đảng của QT3. Không còn quốc gia VN hay dân tộc VN nữa, mà chỉ còn đảng cộng sản tại VN thay mặt QT3 cai trị người VN. Điều này không còn cần phải chứng minh vì chính Hồ Chí Minh đã tự xác nhận rồi. Bút tích còn nằm ngay trong các văn kiện đảng mà chúng tôi và nhất là nhà báo Việt Thường đã nhiều lần trưng dẫn. Do đó, những ai nói rằng Hồ Chí Minh yêu nước, đảng CSVN đem lại độc lập cho dân tộc v.v. đều là nói láo, hoặc họ không hiểu biết gì về CS.
Giáo Hội Công Giáo vì mang quốc tế tính nên trở thành chị em song sanh với CS. Có lẽ bạn đọc cho rằng chúng tôi quá khiên cưỡng, vì tôn giáo nào mà không có tính quốc tế. Đều đó đúng, nhưng chỉ đúng một phần, vì như chúng ta thấy, đạo Phật, đạo Hồi đều hiện diện ở rất nhiều nước trên thế giới. Hiện nay cả đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo cũng đã có cơ sở tại Mỹ, tại Pháp, Úc v.v.. Nhưng còn một phần khác không hẳn đúng, vì phải xét xem giáo hội Trung Ương với các giáo hội địa phương liên hệ với nhau trên cơ sở nào mới đủ yếu tố để khẳng định. Các tôn giáo khác, các giáo hội lớn, nhỏ đều bình quyền và bình đẳng về mọi phương diện. Nhưng với công giáo, Tòa Thánh là một trung tâm quyền lực. Các giáo hội địa phương chỉ đóng vai vệ tinh. Đó mới là yếu tố xác định. Tình hình công giáo VN chứng minh GHVN là một đơn vị luôn lệ thuộc vào Tòa Thánh. Tòa Thành đề ra đường lối đối thoại với VGCS cho các Giám Mục VN để giải quyết các vấn đề của giáo hội. Điều này HY Phạm Minh Mẫn, các GM Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Văn Đọc v.v. đã công khai xác nhận rõ ràng. Nói theo thuật ngữ chính trị, Tòa Thánh là một mẫu quốc, và GHVN là một tiểu quốc phiên thuộc.
Như trên đã nói, “đối thoại” là con đường mà Tòa Thánh đặt ra cho Hội Đồng Giám Mục (HĐGM) VN đi theo để giải quyết các vấn đề của Giáo Hội. Không thể phủ nhận sự thật là đường lối này chưa thấy đem lại được ích lợi cụ thể nào, nhưng đã gây ra nhiều hậu quả rất đáng tiếc. Những hậu quả tai hại nhất phải kể đến là: Tòa Thánh mất uy tín đối với giáo dân, ngược lại, giáo dân hết còn tin tưởng vào Giáo Hội, đặc biệt là nhiều biểu hiện tiêu cực phát sinh trong lối sống của các giám mục. Xin nhấn mạnh là tiêu cực trong hàng ngũ giám mục.
1. Các hậu quả một và hai có liên hệ nhân quả, nghĩa là có cái này không thể không có cái kia. Khi Tòa Thánh và các giám mục không còn giữ uy tín với giáo dân thì giáo dân hết tin tưởng vào giáo hội là lẽ đương nhiên. Uy tín của Tòa Thánh và của HĐGM thực sự bị giảm sút khi đức hồng y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Bertone, người triệt để chủ trương đối thoại, gởi văn thư yêu cầu đức TGM Ngô Quang Kiệt phải chấm dứt phong trào giáo dân tụ tập đốt nến cầu nguyện đòi công bình và công Lý. Giáo dân tự hỏi, một việc làm ôn hòa và chính đáng như thế tại sao phải dẹp bỏ? Từ các cấp thẩm quyền của GH, không có lấy một lời giải thích cho giáo dân. Lệnh Tòa Thánh, chỉ có việc là phải vâng lời. Giáo dân giải tán nhưng trong lòng bất phục. Cho đến vụ GM Nguyễn Văn Nhơn ra Hànội thay thế Đ/C Ngô Quang Kiệt một cách đột ngột khó hiểu. Liền ngay sau đó Đ/C Kiệt bị tống xuất ra khỏi nước ban đêm ban hôm một cách mờ ám thì sự nghi ngờ và phẫn uất của giáo dân đã lên đến tột đỉnh. Cả Tòa Thánh và HĐGM không còn uy tín gì đối với giáo dân, và giáo dân cũng hầu như mất hết mọi sự tin tưởng vào lãnh đạo của Giáo Hội. Tình trạng này làm phát sinh ra các hệ lụy giây chuyền không tránh được là sự phân hóa trong trong tất cả các thành phần trong GH, đi đến nghi kỵ và công kích nhau. Sự phân hóa trầm trọng đến độ xẩy ra ngay trong hàng ngũ giám mục với giám mục, và giám mục với linh mục. Rất nhiều người không hiểu đoạn Phúc Âm Chúa nói Ngài đến không phải đem hòa bình cho trái đất, nhưng đem sự chia rẽ, cha con trong nhà chống nhau v.v., nay nhìn vào nội tình GHVN chắc họ đã hiểu được Chúa muốn nói gì.
2. Sự lãnh đạo độc đoán của Tòa Thánh đối với các giáo hội địa phương trên các vấn đề trần tục ngoài thẩm quyền và việc phong chức giám mục theo đường lối “Tòa Thánh lựa, CS chọn” đã làm nẩy sinh ra rất nhiều hiện tượng tiêu cực mà trước đây không hề có. CS chọn giám mục, tất nhiên chúng phải chọn người chúng có thể khống chế được. Kết quả như ta thấy, GHVN hiện nay có quá nhiều giám mục quốc doanh. Giáo hội Balan hậu CS chỉ khám phá ra một GM Stanislaw Wielgus làm mật báo viên cho CS. Nhưng có nhiều giám mục VN chẳng cần kín đáo, họ công khai làm việc cho VGCS. GM Châu Ngọc Tri, tôi không dám nói ngài câm, nhưng nói theo GM Bùi Văn Đọc thì “Lậy Chúa chúng con không biết ăn nói.” Chúng con chỉ biết ăn tiền, chỉ biết xin xỏ xin xỏ, chỉ biết biện bạch để chối quanh những sự thật không thể chối cãi, chỉ biết kết tội những giáo dân dám nói lên sự thật, và chúng con chỉ biết im lặng trước các vấn đề cần phải lên tiếng. Con chiên của ngài bị công an đánh chết, giám mục ít ra phải lên tiếng yêu cầu nhà nước điều tra để làm sáng tỏ sự việc. Ngài vẫn thản nhiên thủ khẩu như bình. Trong thánh lễ truyền chức linh mục, HY Phạm Minh Mẫn vui vẻ nhắm mắt cho ban kèn đồng tấu khúc “Cùng nhau đi Hồng Binh” để thúc dục các tân linh mục lên đường đồng hành cùng CS. Đúng đường lối. Đúng chính sách. Quan chức CS tham dự chắc hỉ hả lắm. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Chuyện lớn là chuyện rưóc kiệu tại giáo xứ Dị Nậu, Hưng Hóa. Cuộc rước tượng Đức Mẹ chiếu trên trang mạng Nữ Vương Công Lý phải được đánh gía là quá lố lăng và quái dị. Chẳng có cuộc rước Đức Mẹ nào lại đặt tượng Đức Mẹ trơ trọi trên một chiếc xe truck không mui, một thanh niên phất cờ máu đàng trước tượng, dăm sáu thanh niên khác lố nhố cười dỡn trên xe, một thanh niên khác hình như mặc quần xà lỏn ôm đứa bé chừng vài tuổi ngồi ngay bên cạnh tượng Đức Mẹ như ôm đứa con đi du ngoạn. Chiếc truck trong đoàn xe 4-5 chiếc cũng cảnh tượng đó chạy lòng vòng chung quanh nhà thờ. Đó không phải là một cuộc rước tôn giáo nếu không có tượng Đức Mẹ và cây Thánh Giá. Bàn thờ Hồ Chí Minh cũng giống như bàn thờ Đức Mẹ (không phải tượng trên xe truck) có kết đèn giăng hoa. Thế này mà đức cha Vũ Huy Chương cho là bái vọng thì vui thật. Có phải Hồ Chí Minh đã được Đ/C Chương phong thánh nên tượng hắn mới được chễm chệ trên bàn thờ ngang hàng bàn thờ Đức Mẹ. Trần Khuê mới gọi Hồ Chí Minh là thánh Hồ, nhưng Khuê chưa rước thánh Hồ. Dù đồng bào Phật giáo có bái vọng, người ta cũng chỉ đặt bàn trải khăn, bình hoa, cây nến, cùng với lư hương, chứ không bao giờ họ nghinh tượng Phật ra bái vọng cả, nói chi tượng thằng chó đẻ Hồ Chí Minh. Đ/C Vũ Huy Chương chống chế cũng không gột rửa được tính cách lễ hội vui chơi như thường thấy của nhà nước CS. Trước đây khi chùa Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương đem Hồ đặt lên bàn thờ Phật trong chùa thì có người e sợ sẽ có ngày Hồ cũng sẽ được đem vào nhà thờ. Tính lo xa của con người thật dễ nể. Quả thật việc phải đến nó đã đến.
Còn nhiều lắm không nói hết được. Những hiện tượng tiêu cực và phản đạo nói trên khi bị dư luận và báo chí phê phán, các chức sắc liên hệ trong GH đã không dám nhìn nhận sự thật, trái lại còn bao biện, chối quanh, đổ lỗi, đe dọa, và còn tỏ thái độ hằn học vói giáo dân. Tại sao??? Muốn tìm câu trả lời chăng. Dễ lắm. CS đã nói rồi: nắm giám mục là nắm được tất cả. CS chẳng dại gì nắm lưỡi dao, mà chúng nắm cán dao mới không bị đứt tay. Cái cán dao là gì thì mụ chằng lửa cán bộ Ngô Thị Thanh Thủy (Tư Liên), vợ chính thức có 2 con của linh mục Phan Khắc Từ, chánh xứ Vườn Xoài, Saigon đã mí ra cho thấy rồi không thấy sao. Mụ nói: Chuyện gia đình tôi là chuyện riêng tư, đến Tòa Thánh còn không dám treo chén nữa là … Anh Từ là linh mục, nhưng còn là một đảng viên … Còn những ông giám mục, linh mục, đang sờ sờ trước mắt kia, đang thậm thụt vợ nọ con kia, gái bao đủ thứ chuyện. Tôi không sợ gì mà không nói, nhưng bây giờ chưa phải lúc … À thì ra vậy. Mụ còn răn đe một câu xanh dờn: Vụ ông Ngô Quang Kiệt, những ai chống lại đảng đều phải chịu chung một số phận như thế cả.
Một con đàn bà lăng loàn, vợ một ông linh mục đảng viên đang coi họ đạo Vườn Xoài ở Saigòn, nó lăng nhục và thách thức cả Giáo Hội CG như thế đấy. Xưa nay, các kiếm khách, hiệp sĩ, sĩ phu v.v. nói chung là kẻ sĩ thường chọn cái chết để chứng minh sự trong trắng của mình khi bị lăng nhục, vu oan: Sĩ Khả Tử Bất Khả Nhục. Con đàn bà kia nếu nó vu khống, lăng nhục cá nhân một vị hồng y, giám mục nào đó, quí vị trong sạch nhưng im lặng để giữ đức nhịn nhục vì Chúa là điều đáng khâm phục. Giáo dân kính phục quí vị. Nhưng nó quá quắt lăng nhục và thách đố cả Tòa Thánh, GHVN và HĐGM (Tòa Thánh còn không dám treo chén chồng nó nữa kia mà) thì lại là chuyện khác, chuyện uy tín và danh dự của cả tập thể GH. Quí vị nào bị VGCS nắm cán. Còn những quí vị không có cán cho VGCS nắm thì sao? Các vị hồng y, giám mục là giáo sĩ, đều mang chữ SĨ trên người cả. Giáo dân không dám kêu gọi các ngài “tử” để rửa nhục, mà chờ xem HY Phạm Minh Mẫn xử trí chuyện này ra sao, có biện pháp gì đối với linh mục thuộc quyền là đảng viên CS Phan Khắc Từ, chồng có hôn thú của con Vẹm cái Tư Liên, xem HĐGM có phản ứng gì không. Nếu tất cả quí vị lại vẫn im lặng, vậy thì còn gì để mà nói nữa đây!
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất.
Để nắm vững cái thường gọi là chuyên chính vô sản, VGCS phải triệt hạ không nhân nhượng tất cả mọi cá nhân hay tổ chức nào mà chúng cho là nguyên nhân có thể dẫn đến sự sụp đổ của chế độ. Đó là nguyên tắc không thay đổi của CS. Trường hợp đức TGM Ngô Quang Kiệt là một thí dụ điển hình. Bằng mọi cách và bằng mọi giá, chúng phải đẩy ngài đi. Cái may cho ngài là, chúng chỉ đẩy ngài đi ngoại quốc mà không thủ tiêu ngài như chúng đã thủ tiêu đức TGM Nguyễn Kim Điền, hay như mật vụ Balan thủ tiêu Lm Jerzy Popieluszko. Tình thế và hoàn cảnh hiện nay của VGCS không cho phép chúng hành sử lỗ mãng như trước nữa. Đơn giản chỉ có thế. Đừng tưởng rằng VGCS bây giờ văn minh hơn hay nhân đạo hơn. Lầm to.
Sau khi đẩy được đức TGM Ngô Quang Kiệt đi rồi, và đã đặt được người của chúng thay thế rồi, VGCS “lại quả” một chút để rửa mặt cho Tòa Thánh theo thông lệ ngoại giao quốc tế: bánh ích quăng đi, bánh qui quăng lại, bằng cách cho phép Tòa Thánh được cử một phái viên không thường trú tại VN. Vấn đề này, báo chí loan tin như sau: ngày 23-24/6/2010 phái đoàn Việt Nam đã đến Vatican để tiến hành khóa họp thứ 2 của Nhóm Làm Việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh. Khóa họp được hai đồng chủ tọa là Đức Ông Ettore Balestrero, thứ trưởng ngoại giao Tòa Thánh làm trưởng đoàn, và Nguyễn Quốc Cường, thứ trưởng ngoại giao, trưởng đoàn Việt Nam. Mục đích việc đặt phái viên không thường trú của Tòa Thánh là nhằm tăng cường quan hệ giữa Vatican và Việt Nam, cũng như quan hệ giữa Vatican và Giáo hội Công giáo VN. Đối với VGCS thì sự kiện này chẳng là cái gì cả. Trong chỗ riêng tư, một nhân viên bộ Ngoại Giao VGCS đã nói: Nó (việc đặt phái viên không thường trực) chẳng có gía trị gì cả. Nhưng với Tòa Thánh thì đây lại là một thành công lớn. Nó là công khó của hàng mấy thập niên thương lượng và trông đợi, là kết quả của việc phải cắn răng chịu nhục để thay đổi hàng ngũ lãnh đạo GHVN một cách đầy tai tiếng. Nó còn là việc dám liều mạng đánh đổi lòng tin của giáo dân VN vào Tòa Thánh với một cái gì đó rất mơ hồ, chưa hình thành và chưa lấy gì làm bảo đảm.
Kết cục chuyện xẩy ra tại VN không phải ngẫu nhiên, nhưng là do đường lối ngoại giao hiện nay của Tòa Thánh đem lại. Vấn đề đặt ra là trong vụ TGM Ngô Quang Kiệt, Tòa Thánh hành động vì lợi ích của Giáo Hội hay của quốc gia Vatican. Thật sự rất khó trả lời. Nhưng suy luận thế này, nếu bảo rằng Tòa Thánh làm việc vì giáo hội thì e rằng không hợp lý, bởi vì không thể nào Tòa Thánh, vì để thỏa mãn đòi hỏi của một nhà nước ma quỉ, lại đi hy sinh tâm tư, tình cảm, cùng là khát vọng chính đáng của giáo dân như thế. Còn nếu cho rằng Tòa Thánh làm theo đường lối ngoại giao thông thường trong mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau, thì phải giải thích làm sao lời Chúa đã xác định trước mặt toàn quyền Pilate: Nước của Tôi không thuộc về thế gian này. Nói tóm lại thì Tòa Thánh trong nhiều trường hợp đã lẫn lộn việc đạo với việc đời. Có thể nói đó là tính đặc thù của Tòa Thánh Vatican. Không biết phải gọi nó thế nào cho đúng, thôi thì cứ tạm gọi là “Tính Quốc Tế” hy vọng có thể được chấp nhận. Tính Quốc Tế xóa đi mọi lằn ranh quốc gia. Đây chính là điểm không hẹn mà gặp giữa công giáo và cộng sản. Cả hai đều mang tính quốc tế cả trong chủ thuyết lẫn hành động. Do từ bản chất sẵn mang tính quốc tế, nước Nga trở thành đế quốc đỏ. Các nước CS khác như VN đều là chư hầu của Nga Sô. Quốc Tế III Cộng Sản là tổ quốc của tất cả mọi người CS trên toàn thế giới. Đảng CSVN chỉ là một chi bộ đảng của QT3. Không còn quốc gia VN hay dân tộc VN nữa, mà chỉ còn đảng cộng sản tại VN thay mặt QT3 cai trị người VN. Điều này không còn cần phải chứng minh vì chính Hồ Chí Minh đã tự xác nhận rồi. Bút tích còn nằm ngay trong các văn kiện đảng mà chúng tôi và nhất là nhà báo Việt Thường đã nhiều lần trưng dẫn. Do đó, những ai nói rằng Hồ Chí Minh yêu nước, đảng CSVN đem lại độc lập cho dân tộc v.v. đều là nói láo, hoặc họ không hiểu biết gì về CS.
Giáo Hội Công Giáo vì mang quốc tế tính nên trở thành chị em song sanh với CS. Có lẽ bạn đọc cho rằng chúng tôi quá khiên cưỡng, vì tôn giáo nào mà không có tính quốc tế. Đều đó đúng, nhưng chỉ đúng một phần, vì như chúng ta thấy, đạo Phật, đạo Hồi đều hiện diện ở rất nhiều nước trên thế giới. Hiện nay cả đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo cũng đã có cơ sở tại Mỹ, tại Pháp, Úc v.v.. Nhưng còn một phần khác không hẳn đúng, vì phải xét xem giáo hội Trung Ương với các giáo hội địa phương liên hệ với nhau trên cơ sở nào mới đủ yếu tố để khẳng định. Các tôn giáo khác, các giáo hội lớn, nhỏ đều bình quyền và bình đẳng về mọi phương diện. Nhưng với công giáo, Tòa Thánh là một trung tâm quyền lực. Các giáo hội địa phương chỉ đóng vai vệ tinh. Đó mới là yếu tố xác định. Tình hình công giáo VN chứng minh GHVN là một đơn vị luôn lệ thuộc vào Tòa Thánh. Tòa Thành đề ra đường lối đối thoại với VGCS cho các Giám Mục VN để giải quyết các vấn đề của giáo hội. Điều này HY Phạm Minh Mẫn, các GM Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Văn Đọc v.v. đã công khai xác nhận rõ ràng. Nói theo thuật ngữ chính trị, Tòa Thánh là một mẫu quốc, và GHVN là một tiểu quốc phiên thuộc.
Như trên đã nói, “đối thoại” là con đường mà Tòa Thánh đặt ra cho Hội Đồng Giám Mục (HĐGM) VN đi theo để giải quyết các vấn đề của Giáo Hội. Không thể phủ nhận sự thật là đường lối này chưa thấy đem lại được ích lợi cụ thể nào, nhưng đã gây ra nhiều hậu quả rất đáng tiếc. Những hậu quả tai hại nhất phải kể đến là: Tòa Thánh mất uy tín đối với giáo dân, ngược lại, giáo dân hết còn tin tưởng vào Giáo Hội, đặc biệt là nhiều biểu hiện tiêu cực phát sinh trong lối sống của các giám mục. Xin nhấn mạnh là tiêu cực trong hàng ngũ giám mục.
1. Các hậu quả một và hai có liên hệ nhân quả, nghĩa là có cái này không thể không có cái kia. Khi Tòa Thánh và các giám mục không còn giữ uy tín với giáo dân thì giáo dân hết tin tưởng vào giáo hội là lẽ đương nhiên. Uy tín của Tòa Thánh và của HĐGM thực sự bị giảm sút khi đức hồng y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Bertone, người triệt để chủ trương đối thoại, gởi văn thư yêu cầu đức TGM Ngô Quang Kiệt phải chấm dứt phong trào giáo dân tụ tập đốt nến cầu nguyện đòi công bình và công Lý. Giáo dân tự hỏi, một việc làm ôn hòa và chính đáng như thế tại sao phải dẹp bỏ? Từ các cấp thẩm quyền của GH, không có lấy một lời giải thích cho giáo dân. Lệnh Tòa Thánh, chỉ có việc là phải vâng lời. Giáo dân giải tán nhưng trong lòng bất phục. Cho đến vụ GM Nguyễn Văn Nhơn ra Hànội thay thế Đ/C Ngô Quang Kiệt một cách đột ngột khó hiểu. Liền ngay sau đó Đ/C Kiệt bị tống xuất ra khỏi nước ban đêm ban hôm một cách mờ ám thì sự nghi ngờ và phẫn uất của giáo dân đã lên đến tột đỉnh. Cả Tòa Thánh và HĐGM không còn uy tín gì đối với giáo dân, và giáo dân cũng hầu như mất hết mọi sự tin tưởng vào lãnh đạo của Giáo Hội. Tình trạng này làm phát sinh ra các hệ lụy giây chuyền không tránh được là sự phân hóa trong trong tất cả các thành phần trong GH, đi đến nghi kỵ và công kích nhau. Sự phân hóa trầm trọng đến độ xẩy ra ngay trong hàng ngũ giám mục với giám mục, và giám mục với linh mục. Rất nhiều người không hiểu đoạn Phúc Âm Chúa nói Ngài đến không phải đem hòa bình cho trái đất, nhưng đem sự chia rẽ, cha con trong nhà chống nhau v.v., nay nhìn vào nội tình GHVN chắc họ đã hiểu được Chúa muốn nói gì.
2. Sự lãnh đạo độc đoán của Tòa Thánh đối với các giáo hội địa phương trên các vấn đề trần tục ngoài thẩm quyền và việc phong chức giám mục theo đường lối “Tòa Thánh lựa, CS chọn” đã làm nẩy sinh ra rất nhiều hiện tượng tiêu cực mà trước đây không hề có. CS chọn giám mục, tất nhiên chúng phải chọn người chúng có thể khống chế được. Kết quả như ta thấy, GHVN hiện nay có quá nhiều giám mục quốc doanh. Giáo hội Balan hậu CS chỉ khám phá ra một GM Stanislaw Wielgus làm mật báo viên cho CS. Nhưng có nhiều giám mục VN chẳng cần kín đáo, họ công khai làm việc cho VGCS. GM Châu Ngọc Tri, tôi không dám nói ngài câm, nhưng nói theo GM Bùi Văn Đọc thì “Lậy Chúa chúng con không biết ăn nói.” Chúng con chỉ biết ăn tiền, chỉ biết xin xỏ xin xỏ, chỉ biết biện bạch để chối quanh những sự thật không thể chối cãi, chỉ biết kết tội những giáo dân dám nói lên sự thật, và chúng con chỉ biết im lặng trước các vấn đề cần phải lên tiếng. Con chiên của ngài bị công an đánh chết, giám mục ít ra phải lên tiếng yêu cầu nhà nước điều tra để làm sáng tỏ sự việc. Ngài vẫn thản nhiên thủ khẩu như bình. Trong thánh lễ truyền chức linh mục, HY Phạm Minh Mẫn vui vẻ nhắm mắt cho ban kèn đồng tấu khúc “Cùng nhau đi Hồng Binh” để thúc dục các tân linh mục lên đường đồng hành cùng CS. Đúng đường lối. Đúng chính sách. Quan chức CS tham dự chắc hỉ hả lắm. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Chuyện lớn là chuyện rưóc kiệu tại giáo xứ Dị Nậu, Hưng Hóa. Cuộc rước tượng Đức Mẹ chiếu trên trang mạng Nữ Vương Công Lý phải được đánh gía là quá lố lăng và quái dị. Chẳng có cuộc rước Đức Mẹ nào lại đặt tượng Đức Mẹ trơ trọi trên một chiếc xe truck không mui, một thanh niên phất cờ máu đàng trước tượng, dăm sáu thanh niên khác lố nhố cười dỡn trên xe, một thanh niên khác hình như mặc quần xà lỏn ôm đứa bé chừng vài tuổi ngồi ngay bên cạnh tượng Đức Mẹ như ôm đứa con đi du ngoạn. Chiếc truck trong đoàn xe 4-5 chiếc cũng cảnh tượng đó chạy lòng vòng chung quanh nhà thờ. Đó không phải là một cuộc rước tôn giáo nếu không có tượng Đức Mẹ và cây Thánh Giá. Bàn thờ Hồ Chí Minh cũng giống như bàn thờ Đức Mẹ (không phải tượng trên xe truck) có kết đèn giăng hoa. Thế này mà đức cha Vũ Huy Chương cho là bái vọng thì vui thật. Có phải Hồ Chí Minh đã được Đ/C Chương phong thánh nên tượng hắn mới được chễm chệ trên bàn thờ ngang hàng bàn thờ Đức Mẹ. Trần Khuê mới gọi Hồ Chí Minh là thánh Hồ, nhưng Khuê chưa rước thánh Hồ. Dù đồng bào Phật giáo có bái vọng, người ta cũng chỉ đặt bàn trải khăn, bình hoa, cây nến, cùng với lư hương, chứ không bao giờ họ nghinh tượng Phật ra bái vọng cả, nói chi tượng thằng chó đẻ Hồ Chí Minh. Đ/C Vũ Huy Chương chống chế cũng không gột rửa được tính cách lễ hội vui chơi như thường thấy của nhà nước CS. Trước đây khi chùa Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương đem Hồ đặt lên bàn thờ Phật trong chùa thì có người e sợ sẽ có ngày Hồ cũng sẽ được đem vào nhà thờ. Tính lo xa của con người thật dễ nể. Quả thật việc phải đến nó đã đến.
Còn nhiều lắm không nói hết được. Những hiện tượng tiêu cực và phản đạo nói trên khi bị dư luận và báo chí phê phán, các chức sắc liên hệ trong GH đã không dám nhìn nhận sự thật, trái lại còn bao biện, chối quanh, đổ lỗi, đe dọa, và còn tỏ thái độ hằn học vói giáo dân. Tại sao??? Muốn tìm câu trả lời chăng. Dễ lắm. CS đã nói rồi: nắm giám mục là nắm được tất cả. CS chẳng dại gì nắm lưỡi dao, mà chúng nắm cán dao mới không bị đứt tay. Cái cán dao là gì thì mụ chằng lửa cán bộ Ngô Thị Thanh Thủy (Tư Liên), vợ chính thức có 2 con của linh mục Phan Khắc Từ, chánh xứ Vườn Xoài, Saigon đã mí ra cho thấy rồi không thấy sao. Mụ nói: Chuyện gia đình tôi là chuyện riêng tư, đến Tòa Thánh còn không dám treo chén nữa là … Anh Từ là linh mục, nhưng còn là một đảng viên … Còn những ông giám mục, linh mục, đang sờ sờ trước mắt kia, đang thậm thụt vợ nọ con kia, gái bao đủ thứ chuyện. Tôi không sợ gì mà không nói, nhưng bây giờ chưa phải lúc … À thì ra vậy. Mụ còn răn đe một câu xanh dờn: Vụ ông Ngô Quang Kiệt, những ai chống lại đảng đều phải chịu chung một số phận như thế cả.
Một con đàn bà lăng loàn, vợ một ông linh mục đảng viên đang coi họ đạo Vườn Xoài ở Saigòn, nó lăng nhục và thách thức cả Giáo Hội CG như thế đấy. Xưa nay, các kiếm khách, hiệp sĩ, sĩ phu v.v. nói chung là kẻ sĩ thường chọn cái chết để chứng minh sự trong trắng của mình khi bị lăng nhục, vu oan: Sĩ Khả Tử Bất Khả Nhục. Con đàn bà kia nếu nó vu khống, lăng nhục cá nhân một vị hồng y, giám mục nào đó, quí vị trong sạch nhưng im lặng để giữ đức nhịn nhục vì Chúa là điều đáng khâm phục. Giáo dân kính phục quí vị. Nhưng nó quá quắt lăng nhục và thách đố cả Tòa Thánh, GHVN và HĐGM (Tòa Thánh còn không dám treo chén chồng nó nữa kia mà) thì lại là chuyện khác, chuyện uy tín và danh dự của cả tập thể GH. Quí vị nào bị VGCS nắm cán. Còn những quí vị không có cán cho VGCS nắm thì sao? Các vị hồng y, giám mục là giáo sĩ, đều mang chữ SĨ trên người cả. Giáo dân không dám kêu gọi các ngài “tử” để rửa nhục, mà chờ xem HY Phạm Minh Mẫn xử trí chuyện này ra sao, có biện pháp gì đối với linh mục thuộc quyền là đảng viên CS Phan Khắc Từ, chồng có hôn thú của con Vẹm cái Tư Liên, xem HĐGM có phản ứng gì không. Nếu tất cả quí vị lại vẫn im lặng, vậy thì còn gì để mà nói nữa đây!
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất.
Huyền Thoại Xác Ướp Hồ Chí Minh
Huyền Thoại Xác Ướp Hồ Chí Minh.
Hoàng Giang, một lãnh đạo cao cấp đảng CSVN hồi hưu, trong bài viết “Sự im lặng lịch sử và món nợ hậu thế” ngày 15 tháng 6/2010 trên trang điện tử bauxite đã nói một điều nhiều người đã nói, rằng các lãnh đạo CS năm 1975 vì say men chiến thắng nên đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng để xây dựng đất nước. Điều đáng chú ý là Hoàng Giang đã nguỵ luận khoả lấp rằng thái độ đó là đã “bỏ giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân” , đã “thách thức vị trí và vai trò lịch sử của lãnh tụ Hồ chí Minh”. Tức là Hoàng Giang đã đề cao cái lý tưởng đảng và mang ra tô vẽ lại cái huyền thoại đã rách nát của Hồ, tương tự như là chuyện xây lăng Ba đình để cả đảng núp sau cái xác ướp có nhiều dấu hỏi này.
Hiện nay trên thế giới chỉ còn xác ướp của 3 lãnh tụ CS: Lenin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Stalin là người đầu tiên thực hiện việc ướp xác. Xác Lenin được Stalin cho ướp và đăt trong lăng Lenin tại Công Trường Đỏ để mọi người chiêm ngưỡng,. Khi Stalin chết, các đàn em cũng ướp xác và để gần xác Lenin. Nhưng xác Stalin chỉ nằm đó được 3 năm. Khi Krushchev họp Đại Hội CS lần thứ 20 vào năm 1956, thì đem công và tội của Stalin ra cân đo, và sau đó trục xuất xác Stalin ra khỏi Công Trường Đỏ.
Xác ướp của HCM nằm trong lăng Ba Đình cho đến nay đã gần nửa thế kỷ. Nhiều dư luận trong và ngoài nước cả quyết rằng đây chỉ là xác làm bằng sáp, cho mặc quần áo, chứ không phải là người thật. Trong lăng, xác Hồ Chí Minh được đặt nằm trong lồng kính, để trên cao. Người vào thăm viếng phải bước đi liên tục, không được phép dừng lại quan sát ngắm nghía. Điều này đã làm nhiều người thắc mắc.
Cuộc đời của HCM khi sống, đã có nhiều điều uẩn khúc. Khi chết, lại có nhiều chuyện thiếu minh bạch tạo nhiều nghi vấn.
Tin chính thức loan báo Hồ chí Minh chết ngày 3 tháng 9/1969. Sau đó thì được biết rằng Hồ đã từ trần ngày 2 tháng 9, nhưng bộ Chính trị CSVN loan đi trễ một ngày vì sợ ảnh hưởng không tốt lên ngày quốc khánh của Việt Cộng.
Di chúc của HCM chính thức được công bố ngày 5/10/69. Trong bản di chúc này không đề cập gì tới chuyện chôn cất.
Nhưng dựa trên di chúc viết ngày 15/5/65 của HCM giao cho Vũ Kỳ, Bí thư, có chữ ký của HCM cũng như chữ ký “chứng kiến” của Lê Duẫn thì có đoạn: ” Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là hỏa táng. Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Trên mộ nên xây một căn nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi….”
Tới năm 1968, HCM sửa lại di chúc: “….Tôị yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng. Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành: một hộp cho miền Bắc, một hộp cho miền Trung, một hộp cho miền Nam. Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả không nên có bia đá tượng đồng mà nên xây một ngôi nhà giản đơn,….”
Tuy nhiên, vào tháng 8/1967, theo tài liệu của Liên Xô thì Viện Lăng Lenin được thông báo là tình trạng sức khỏe của HCM đang suy dần. Bộ Chính trị Liên Xô chỉ thị chuẩn bị ướp xác HCM. Ngày 14/9/67, 3 B/S VN là Nguyễn Gia Quyền, chủ nhiệm khoa Gỉai Phẫu Quân Y Viện 108, Lê Ngọc Mẫn, Chủ Nhiệm Khoa Nội Tiết, BV Bạch Mai, và Lê Điểu, Chủ Nhiệm Khoa Ngoại BV Việt Xô lên đường đi Moscow. Các B/S này ở lại Moscow 7 tháng để học cách ướp xác và bảo vệ xác ướp trong giai đoạn đầu từ 15 tới 20 ngày. Giai đoạn kế tiếp sẽ do các chuyên gia Liên Xô đảm trách. Tổ ướp xác VN được chính thức thành lâp vào tháng 8/1968 do B/S Nguyễn Gia Quyền đứng đầu.
Như vậy, việc ướp xác được sửa soạn chu đáo này, HCM phải biết. Thế thì phải chăng Hồ chì Minh đã chỉ đóng kịch viết di chúc trao cho Vũ Kỳ, với lời lẽ làm mọi người phải cảm phục. Biết đâu đây chẳng là đòn phép chót của Hồ chí Minh để tô điểm cho cái huyền thoại mà chính ông ta tự dựng lên từ cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch”, dưới bút danh Trần dân Tiên ? Nhưng mà thực sự thì Hồ muốn xác mình được lưu giữ như là xác ông Lênin, ông Xít, ông Mao, mà Hồ tôn thờ?
Đó là những dữ kiện quanh chuyện Hồ chí Minh có muốn ướp xác hay không. Còn quá trình ướp xác như thế nào thì cũng có nhiều điều khác nhau nữa.
Theo tài liệu của Liên Xô, thì ngày 28/8/69, một đòan chuyên viên Y khoa Liên Xô gồm 5người GS Debov, Polukhin, Michaelov, Kharascov, và Saterov tới Hà Nội. Ngày 2/9/69, họ tới Quân Y Viện 108 để khám nghiệm và mổ xác HCM với sự có mặt của Nguyễn Lương Bằng, Lê Quang Đạo, và Phùng Thế Tài. Hai B/S Polukhin và Michaelov mổ xác HCM với sự phụ tá của 2 B/S VN. Tối ngày 5/9, thi hài HCM được chuyển tới Ba Đình để cử hành lễ thăm viếng. Lại có tin nói rằng chuyên gia Liên Xô muốn đưa xác Hồ về Liên xô để ướp nhưng Lê Duẩn không đồng ý. Rồi còn tin cho rằng xác Hồ phải đưa đi trốn tránh bom Mỹ ở các hang động sông Đà, do đó khó tránh khỏi hư thối. Gần 3 tháng sau khi HCM qua đời, trong phiên họp ngày 29/11/1969, Bộ Chính trị mới ra thông báo quyết định ướp xác HCM và xây lăng tại Quảng Trường Ba Đình. Đồ án của lăng do Liên Xô vẽ kiểu, na ná như lăng Lenin ở Công Trường Đỏ. Tất cả những tin này để dẫn đến kết luận rằng xác Hồ trong lăng chỉ là xác giả, bằng sáp. Rồi lại có tin xác Hồ mỗi năm phải đem sang Liên xô sang sửa vá víu cho tươm tất để khách tới thăm viếng.
Tóm tắt thì tất cả những tin này cũng chỉ là khó tin và mâu thuẫn như các chuyện khác quanh Hồ Chí Minh. Nhưng dù mâu thuẫn thì cũng vẫn không nhiều thì ít có người nghe và có người sùng bái Hồ Chí Minh. Và như thế thì lăng Hồ và xác Hồ vẫn là cái dù để núp cho những lãnh đạo CSVN đã biến thái thành tài phiệt hết rồi. Cho nên, việc xây cất cũng như việc bảo tồn trông nom tốn kém, bộ chính trị đảng VC vẫn còn có gắng duy trì và củng cố bằng những bài viết kiểu Dương Thu Hương, Hoàng Giang tô vẽ huyền thoại Hồ, hay những bài viết khác đổ tội của Hồ cho những đồ đệ như Lê đức Thọ, Lê Duẩn đã chết, và giải thích rằng Hồ lúc già bị cô lập bởi bọn này.
Cái huyền thoại đã rách và cái xác ướp mà nhiều người cho là giả này có lẽ vì thế sẽ không thể dùng được lâu.
Hoàng Thế Hiển.
Hoàng Giang, một lãnh đạo cao cấp đảng CSVN hồi hưu, trong bài viết “Sự im lặng lịch sử và món nợ hậu thế” ngày 15 tháng 6/2010 trên trang điện tử bauxite đã nói một điều nhiều người đã nói, rằng các lãnh đạo CS năm 1975 vì say men chiến thắng nên đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng để xây dựng đất nước. Điều đáng chú ý là Hoàng Giang đã nguỵ luận khoả lấp rằng thái độ đó là đã “bỏ giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân” , đã “thách thức vị trí và vai trò lịch sử của lãnh tụ Hồ chí Minh”. Tức là Hoàng Giang đã đề cao cái lý tưởng đảng và mang ra tô vẽ lại cái huyền thoại đã rách nát của Hồ, tương tự như là chuyện xây lăng Ba đình để cả đảng núp sau cái xác ướp có nhiều dấu hỏi này.
Hiện nay trên thế giới chỉ còn xác ướp của 3 lãnh tụ CS: Lenin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Stalin là người đầu tiên thực hiện việc ướp xác. Xác Lenin được Stalin cho ướp và đăt trong lăng Lenin tại Công Trường Đỏ để mọi người chiêm ngưỡng,. Khi Stalin chết, các đàn em cũng ướp xác và để gần xác Lenin. Nhưng xác Stalin chỉ nằm đó được 3 năm. Khi Krushchev họp Đại Hội CS lần thứ 20 vào năm 1956, thì đem công và tội của Stalin ra cân đo, và sau đó trục xuất xác Stalin ra khỏi Công Trường Đỏ.
Xác ướp của HCM nằm trong lăng Ba Đình cho đến nay đã gần nửa thế kỷ. Nhiều dư luận trong và ngoài nước cả quyết rằng đây chỉ là xác làm bằng sáp, cho mặc quần áo, chứ không phải là người thật. Trong lăng, xác Hồ Chí Minh được đặt nằm trong lồng kính, để trên cao. Người vào thăm viếng phải bước đi liên tục, không được phép dừng lại quan sát ngắm nghía. Điều này đã làm nhiều người thắc mắc.
Cuộc đời của HCM khi sống, đã có nhiều điều uẩn khúc. Khi chết, lại có nhiều chuyện thiếu minh bạch tạo nhiều nghi vấn.
Tin chính thức loan báo Hồ chí Minh chết ngày 3 tháng 9/1969. Sau đó thì được biết rằng Hồ đã từ trần ngày 2 tháng 9, nhưng bộ Chính trị CSVN loan đi trễ một ngày vì sợ ảnh hưởng không tốt lên ngày quốc khánh của Việt Cộng.
Di chúc của HCM chính thức được công bố ngày 5/10/69. Trong bản di chúc này không đề cập gì tới chuyện chôn cất.
Nhưng dựa trên di chúc viết ngày 15/5/65 của HCM giao cho Vũ Kỳ, Bí thư, có chữ ký của HCM cũng như chữ ký “chứng kiến” của Lê Duẫn thì có đoạn: ” Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là hỏa táng. Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Trên mộ nên xây một căn nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi….”
Tới năm 1968, HCM sửa lại di chúc: “….Tôị yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng. Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành: một hộp cho miền Bắc, một hộp cho miền Trung, một hộp cho miền Nam. Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả không nên có bia đá tượng đồng mà nên xây một ngôi nhà giản đơn,….”
Tuy nhiên, vào tháng 8/1967, theo tài liệu của Liên Xô thì Viện Lăng Lenin được thông báo là tình trạng sức khỏe của HCM đang suy dần. Bộ Chính trị Liên Xô chỉ thị chuẩn bị ướp xác HCM. Ngày 14/9/67, 3 B/S VN là Nguyễn Gia Quyền, chủ nhiệm khoa Gỉai Phẫu Quân Y Viện 108, Lê Ngọc Mẫn, Chủ Nhiệm Khoa Nội Tiết, BV Bạch Mai, và Lê Điểu, Chủ Nhiệm Khoa Ngoại BV Việt Xô lên đường đi Moscow. Các B/S này ở lại Moscow 7 tháng để học cách ướp xác và bảo vệ xác ướp trong giai đoạn đầu từ 15 tới 20 ngày. Giai đoạn kế tiếp sẽ do các chuyên gia Liên Xô đảm trách. Tổ ướp xác VN được chính thức thành lâp vào tháng 8/1968 do B/S Nguyễn Gia Quyền đứng đầu.
Như vậy, việc ướp xác được sửa soạn chu đáo này, HCM phải biết. Thế thì phải chăng Hồ chì Minh đã chỉ đóng kịch viết di chúc trao cho Vũ Kỳ, với lời lẽ làm mọi người phải cảm phục. Biết đâu đây chẳng là đòn phép chót của Hồ chí Minh để tô điểm cho cái huyền thoại mà chính ông ta tự dựng lên từ cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch”, dưới bút danh Trần dân Tiên ? Nhưng mà thực sự thì Hồ muốn xác mình được lưu giữ như là xác ông Lênin, ông Xít, ông Mao, mà Hồ tôn thờ?
Đó là những dữ kiện quanh chuyện Hồ chí Minh có muốn ướp xác hay không. Còn quá trình ướp xác như thế nào thì cũng có nhiều điều khác nhau nữa.
Theo tài liệu của Liên Xô, thì ngày 28/8/69, một đòan chuyên viên Y khoa Liên Xô gồm 5người GS Debov, Polukhin, Michaelov, Kharascov, và Saterov tới Hà Nội. Ngày 2/9/69, họ tới Quân Y Viện 108 để khám nghiệm và mổ xác HCM với sự có mặt của Nguyễn Lương Bằng, Lê Quang Đạo, và Phùng Thế Tài. Hai B/S Polukhin và Michaelov mổ xác HCM với sự phụ tá của 2 B/S VN. Tối ngày 5/9, thi hài HCM được chuyển tới Ba Đình để cử hành lễ thăm viếng. Lại có tin nói rằng chuyên gia Liên Xô muốn đưa xác Hồ về Liên xô để ướp nhưng Lê Duẩn không đồng ý. Rồi còn tin cho rằng xác Hồ phải đưa đi trốn tránh bom Mỹ ở các hang động sông Đà, do đó khó tránh khỏi hư thối. Gần 3 tháng sau khi HCM qua đời, trong phiên họp ngày 29/11/1969, Bộ Chính trị mới ra thông báo quyết định ướp xác HCM và xây lăng tại Quảng Trường Ba Đình. Đồ án của lăng do Liên Xô vẽ kiểu, na ná như lăng Lenin ở Công Trường Đỏ. Tất cả những tin này để dẫn đến kết luận rằng xác Hồ trong lăng chỉ là xác giả, bằng sáp. Rồi lại có tin xác Hồ mỗi năm phải đem sang Liên xô sang sửa vá víu cho tươm tất để khách tới thăm viếng.
Tóm tắt thì tất cả những tin này cũng chỉ là khó tin và mâu thuẫn như các chuyện khác quanh Hồ Chí Minh. Nhưng dù mâu thuẫn thì cũng vẫn không nhiều thì ít có người nghe và có người sùng bái Hồ Chí Minh. Và như thế thì lăng Hồ và xác Hồ vẫn là cái dù để núp cho những lãnh đạo CSVN đã biến thái thành tài phiệt hết rồi. Cho nên, việc xây cất cũng như việc bảo tồn trông nom tốn kém, bộ chính trị đảng VC vẫn còn có gắng duy trì và củng cố bằng những bài viết kiểu Dương Thu Hương, Hoàng Giang tô vẽ huyền thoại Hồ, hay những bài viết khác đổ tội của Hồ cho những đồ đệ như Lê đức Thọ, Lê Duẩn đã chết, và giải thích rằng Hồ lúc già bị cô lập bởi bọn này.
Cái huyền thoại đã rách và cái xác ướp mà nhiều người cho là giả này có lẽ vì thế sẽ không thể dùng được lâu.
Hoàng Thế Hiển.
Vui Cười Cuối Tuần
Vui Cười Cuối Tuần.
* Không Thầy đố Mày làm nên
- Làm nên Mày quên luôn Thầy. Hihihihi
* Ðừng tự hào mình nghèo mà học giỏi
- Hãy tự hỏi sao giỏi mà vẫn nghèo. Hihihihi
* Một cây làm chẳng nên non
- Ba cây chụm lại thấy thừa hai cây. Hihihihihi
* Giàu đi xe hơi uống bia ôm
- Nghèo đi xe ôm uống bia hơi. Hihihihihi
Vui Cười.
* Không Thầy đố Mày làm nên
- Làm nên Mày quên luôn Thầy. Hihihihi
* Ðừng tự hào mình nghèo mà học giỏi
- Hãy tự hỏi sao giỏi mà vẫn nghèo. Hihihihi
* Một cây làm chẳng nên non
- Ba cây chụm lại thấy thừa hai cây. Hihihihihi
* Giàu đi xe hơi uống bia ôm
- Nghèo đi xe ôm uống bia hơi. Hihihihihi
Vui Cười.
Ðờm Hay Ðàm ?
Ðờm Hay Ðàm ?
Đờm là các chất tiết ra từ hốc mũi tới phế nang và thải ra ngoài miệng. Đờm gồm các dịch tiết của khí phế quản, phế nang, họng, các xoang hàm trán, các hốc mũi. Bình thường ai cũng có các loại tiết dịch trên, nhưng không nhiều, cho nên hô hấp không bị cản trở, không ho và khạc đờm. Khối lượng tiết dịch đó vào khoảng 100ml/24 giờ, các tiết dịch đường hô hấp sẽ qua thực quản rồi đào thải theo đường tiêu hoá. Trong trường hợp bệnh, có tình trạng da tiết các dịch của đường hô hấp, ngoài ra có thể còn các chất khác không gặp trong điều kiện bình thường như: máu, mủ, giả mạc, bã đậu. Các chất trên cản trở đường hô hấp, gây phản xạ ho và được tống ra ngoài, gọi là đờm. Đờm là hậu quả của nhiều nguyên nhân gây bệnh trên đường hô hấp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, những xét nghiệm đờm về mặt cơ thể bệnh, vi khuẩn, và ngay cả hình thái của đờm cũng giúp ta chẩn đoán bệnh. Cần thiết lấy đờm để xét nghiệm tìm nguyên nhân bệnh và cũng để theo dõi tiến triển của bệnh. Khi đường hô hấp có bệnh hoặc vào các thời kỳ khác nhau của bệnh, đờm sẽ thay đổi cả về số lượng, màu sắc, độ đặc loãng và mùi vị. Nếu quan sát kỹ sự thay đổi đó, ta có thể nhận biết được bệnh.
Đờm còn gọi là Đàm. Đờm và Đàm giống nhau. “Mr Dam” là sản phẩm của Nghị Quyết 36 của CSVN, “khạc” từ trong nước bắn qua tới Mỹ tới Úc hòng làm nhiễm trùng và lây lan cho người Việt Tự Do Tỵ Nạn Cộng Sản sinh sống ở hải ngoại. Nghị Quyết 36 nhắm phá hoại cộng đồng người Việt hải ngoại dưới nhiều hình thức. Trong lãnh vực văn hóa, CSVN tiếp tục đưa nghệ sĩ từ trong nước ra ngoài trình diễn nhằm nhập nhằng xóa mờ lằn ranh giữa trong và ngoài nước, cũng như gây chia rẽ trong nội bộ cộng đồng người Việt hải ngoại. Đã có nhiều show được đưa ra nước ngoài trình diễn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đoàn TNCS như báo Thanh Niên với show “Duyên dáng Việt Nam” hay những show riêng lẻ của tư nhân cũng đã được sự giúp đỡ trực tiếp của sở Thông tin Văn Hoá CSVN. Tưởng cần nên biết, CSVN đã chỉ thị rõ ràng cho các Bộ, Sở phải “thực hiện trợ giá đối với cước vận chuyển phim ảnh, sách báo, văn hóa phẩm..., giá vé máy bay cho các đoàn nghệ thuật ở trong nước đi biểu diễn phục vụ cộng đồng người VN ở nước ngoài. Mức trợ giá bằng 50% tổng số giá cước vận chuyển, giá vé máy bay thực tế thanh toán với các đơn vị vận tải. Các đoàn nghệ thuật đi biểu diễn phục vụ cộng đồng người VN ở nước ngoài phải được Bộ Văn Hóa Thông Tin hoặc Bộ Ngoại Giao giới thiệu”. Do vậy, những buổi trình diễn có ca sĩ từ VN qua hẳn phải nằm trong chính sách chung của CSVN, chứ không “vô hại và thuần túy thương mại” như những bầu show thường rêu rao để minh oan.
Chuyến lưu diễn vừa qua ở Mỹ và sắp tới ở Úc của “Mr Đờm” là một kế hoạch khác thâm nhập văn hoá vận, gây xáo trộn cộng đồng người Việt hải ngoại và thách thức với thành trì chống văn hoá vận CS mà Cộng đồng người Việt tỵ nạn đã theo đuổi từ bấy lâu nay.
Những ngày qua “Mr Đờm” đã đi quanh các tiểu bang của Mỹ, từ Dallas, Atlanta, qua Seattle, Bắc Cali và Nam Cali, đâu đâu cũng đều gặp phải biểu tình đông đảo, chống đối mạnh mẽ và triệt để tẩy chay của đồng bào VN tỵ nạn Cộng sản. Việc Lý Tống xịt hơi cay vào mặt “Mr Đờm” ở Santa Clara Convention Center vào ngày 18 tháng 7 vừa qua là một hành động ngoạn mục, một cái tát vào Nghị Quyết 36 và chính quyền CSVN, tác động nhiều mặt và đã dấy lên một ngọn lửa, dấy lên một tinh thần chống đối mạnh mẽ.
Có ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra? Sức mạnh của hàng ngàn người, hàng ngàn lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, hàng trăm biểu ngữ, là tiềm lực của một quan điểm dân tộc duy nhất trong hai chữ Tự Do.
Đờm hay Đàm gì cũng vậy. Khi đường hô hấp có bệnh hoặc vào các thời kỳ khác nhau của bệnh, đờm sẽ thay đổi cả về số lượng, màu sắc, độ đặc loãng và mùi vị. Nếu quan sát kỹ sự thay đổi đó, ta có thể nhận biết được bệnh.
Trần Việt Trình
Đờm là các chất tiết ra từ hốc mũi tới phế nang và thải ra ngoài miệng. Đờm gồm các dịch tiết của khí phế quản, phế nang, họng, các xoang hàm trán, các hốc mũi. Bình thường ai cũng có các loại tiết dịch trên, nhưng không nhiều, cho nên hô hấp không bị cản trở, không ho và khạc đờm. Khối lượng tiết dịch đó vào khoảng 100ml/24 giờ, các tiết dịch đường hô hấp sẽ qua thực quản rồi đào thải theo đường tiêu hoá. Trong trường hợp bệnh, có tình trạng da tiết các dịch của đường hô hấp, ngoài ra có thể còn các chất khác không gặp trong điều kiện bình thường như: máu, mủ, giả mạc, bã đậu. Các chất trên cản trở đường hô hấp, gây phản xạ ho và được tống ra ngoài, gọi là đờm. Đờm là hậu quả của nhiều nguyên nhân gây bệnh trên đường hô hấp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, những xét nghiệm đờm về mặt cơ thể bệnh, vi khuẩn, và ngay cả hình thái của đờm cũng giúp ta chẩn đoán bệnh. Cần thiết lấy đờm để xét nghiệm tìm nguyên nhân bệnh và cũng để theo dõi tiến triển của bệnh. Khi đường hô hấp có bệnh hoặc vào các thời kỳ khác nhau của bệnh, đờm sẽ thay đổi cả về số lượng, màu sắc, độ đặc loãng và mùi vị. Nếu quan sát kỹ sự thay đổi đó, ta có thể nhận biết được bệnh.
Đờm còn gọi là Đàm. Đờm và Đàm giống nhau. “Mr Dam” là sản phẩm của Nghị Quyết 36 của CSVN, “khạc” từ trong nước bắn qua tới Mỹ tới Úc hòng làm nhiễm trùng và lây lan cho người Việt Tự Do Tỵ Nạn Cộng Sản sinh sống ở hải ngoại. Nghị Quyết 36 nhắm phá hoại cộng đồng người Việt hải ngoại dưới nhiều hình thức. Trong lãnh vực văn hóa, CSVN tiếp tục đưa nghệ sĩ từ trong nước ra ngoài trình diễn nhằm nhập nhằng xóa mờ lằn ranh giữa trong và ngoài nước, cũng như gây chia rẽ trong nội bộ cộng đồng người Việt hải ngoại. Đã có nhiều show được đưa ra nước ngoài trình diễn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đoàn TNCS như báo Thanh Niên với show “Duyên dáng Việt Nam” hay những show riêng lẻ của tư nhân cũng đã được sự giúp đỡ trực tiếp của sở Thông tin Văn Hoá CSVN. Tưởng cần nên biết, CSVN đã chỉ thị rõ ràng cho các Bộ, Sở phải “thực hiện trợ giá đối với cước vận chuyển phim ảnh, sách báo, văn hóa phẩm..., giá vé máy bay cho các đoàn nghệ thuật ở trong nước đi biểu diễn phục vụ cộng đồng người VN ở nước ngoài. Mức trợ giá bằng 50% tổng số giá cước vận chuyển, giá vé máy bay thực tế thanh toán với các đơn vị vận tải. Các đoàn nghệ thuật đi biểu diễn phục vụ cộng đồng người VN ở nước ngoài phải được Bộ Văn Hóa Thông Tin hoặc Bộ Ngoại Giao giới thiệu”. Do vậy, những buổi trình diễn có ca sĩ từ VN qua hẳn phải nằm trong chính sách chung của CSVN, chứ không “vô hại và thuần túy thương mại” như những bầu show thường rêu rao để minh oan.
Chuyến lưu diễn vừa qua ở Mỹ và sắp tới ở Úc của “Mr Đờm” là một kế hoạch khác thâm nhập văn hoá vận, gây xáo trộn cộng đồng người Việt hải ngoại và thách thức với thành trì chống văn hoá vận CS mà Cộng đồng người Việt tỵ nạn đã theo đuổi từ bấy lâu nay.
Những ngày qua “Mr Đờm” đã đi quanh các tiểu bang của Mỹ, từ Dallas, Atlanta, qua Seattle, Bắc Cali và Nam Cali, đâu đâu cũng đều gặp phải biểu tình đông đảo, chống đối mạnh mẽ và triệt để tẩy chay của đồng bào VN tỵ nạn Cộng sản. Việc Lý Tống xịt hơi cay vào mặt “Mr Đờm” ở Santa Clara Convention Center vào ngày 18 tháng 7 vừa qua là một hành động ngoạn mục, một cái tát vào Nghị Quyết 36 và chính quyền CSVN, tác động nhiều mặt và đã dấy lên một ngọn lửa, dấy lên một tinh thần chống đối mạnh mẽ.
Có ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra? Sức mạnh của hàng ngàn người, hàng ngàn lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, hàng trăm biểu ngữ, là tiềm lực của một quan điểm dân tộc duy nhất trong hai chữ Tự Do.
Đờm hay Đàm gì cũng vậy. Khi đường hô hấp có bệnh hoặc vào các thời kỳ khác nhau của bệnh, đờm sẽ thay đổi cả về số lượng, màu sắc, độ đặc loãng và mùi vị. Nếu quan sát kỹ sự thay đổi đó, ta có thể nhận biết được bệnh.
Trần Việt Trình
Chỉ Có Sự Thật Mới ....... Sự Thật 3 (Hết)
SỰ THẬT THỨ BA: NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN.
Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.
Xin chứng minh
Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…
Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.
Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?
Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.
Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.
Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự.
Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.
Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?
Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?
Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.
Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.
Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.
Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.
Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…
Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?
Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?
Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, tránh voi chẳng xấu mặt nào, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…
Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.
Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.
Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.
Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể.
Năm 1986, theo gương Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì chôn chủ nghĩa tư bản (như Marx-Engels dạy) đã quay ngược lại chôn chính học thuyết cộng sản, bằng cách xây dựng nền kinh tế tự do đa thành phần tư bản chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi chết đói. Theo Marx dạy: kinh tế nào, chính trị ấy: hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Nay, kinh tế Việt Nam là tư bản tự do mà chính trị vẫn giữ nền chính trị độc tài xã hội chủ nghĩa là sai quy luật, là không chính danh, là đầu chuột đuôi voi, là ông nói gà bà nói thóc lép, là hồn Trương Ba, da hàng thịt…
Marx–Engels từng công khai tuyên bố trong trước tác của mình: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương pháp phê phán thế giới cũ để tìm được một thế giới mới… Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi…”. Rõ ràng, chính Marx và Engels đã coi học thuyết của mình chỉ là những giả thuyết, những phép thử, những phỏng định về tương lai, tuyệt nhiên không giáo điều cho lý thuyết của mình là chân lý vĩnh hằng. Những ai đã, đang coi học thuyết Marx là chân lý bất biến là đang chống Marx, là muốn dùng Marx giả, Marx dỏm bịt mắt trí thức và nhân dân để quyết câu giờ giữ quyền lực là không chính danh.
Theo định đề: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” của Marx, chúng ta thấy thực tế đã không chấp nhận cuộc thí nghiệm XÓA TƯ HỮU hãi hùng nhất trong lịch sử loài người của Marx-Engels-Lenin với tham vọng “XÓA TƯ HỮU, XÓA CÁ NHÂN, XÓA NHÀ NƯỚC, XÓA MÂU THUẪN, XÓA ĐẢNG CỘNG SẢN, XÓA CÁC GIAI CẤP VÀ ĐẢNG CỦA NÓ, XÓA CHÍNH BIỆN CHỨNG PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CỘNG SẢN ÁO TƯỞNG PHI BIỆN CHỨNG – NƠI KHÔNG CÓ CÁI DỐI TRÁ, KHÔNG CÓ CÁI ÁC ĐỘC VÀ CÁI XẤU XA, NƠI TUYỆT ĐỐI TỰ GIÁC, TUYỆT ĐỐI TỰ DO, TUYỆT ĐỐI GIÀU CÓ, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ NGOẠI TÌNH, KHÔNG CÒN HÔN NHÂN, KHÔNG CÒN GIA ĐÌNH KIỂU CŨ, KHÔNG CÒN NGÂN HÀNG, KHÔNG CÒN TIỀN TỆ…”. Đó là một xã hội bịa đặt không có thật: vì không có cái ác thì cái thiện cũng bị triệt tiêu, không có cái ngụy thì cái chân cũng biến mất, không có cái xấu thì cái đẹp cũng chẳng còn…
Một trăm sáu mươi hai năm từ khi “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Marx–Engels ra đời đến nay, hàng trăm triệu sinh mạng đã bị giết, hàng tỉ người bị tù đầy, bị ngược đãi để “các vị lãnh tụ kính yêu” làm cuộc thí nghiệm đẫm máu cải tạo thế giới từ TƯ HỮU sang CÔNG HỮU, từ TƯ BẢN sang VÔ SẢN, từ CÁ NHÂN sang TẬP THỂ, XÓA QUỐC GIA chỉ còn QUỐC TẾ, XÓA HOÀN TOÀN THẾ GIỚI CŨ, NHÂN LOẠI CŨ chỉ còn MỘT THẾ GIỚI MỚI TINH, NHÂN LOẠI MỚI TINH KHÔNG CÒN TRUYỀN THỐNG, KHÔNG CÒN LỊCH SỬ, KHÔNG CÒN QUÁ KHỨ, KHÔNG CÒN TÔN GIÁO… Chao ôi, khi một con người không còn quá khứ, một dân tộc không còn lịch sử, con người ấy, dân tộc ấy sẽ biến thành tinh tinh, xã hội tinh tinh hay thành những cục bột biết ca hát?… Rút cục, cuộc thí nghiệm cộng sản kinh hồn trên phạm vi toàn thế giới đã hoàn toàn thất bại. Những nước cộng sản cứng đầu nhất như Bắc Triều Tiên, Cuba hiện nay cũng đang rục rịch thí nghiệm mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tập toẹ học lại những bước đi làm giàu vỡ lòng nhân loại đã có từ trước khi Marx ra đời. Đây là sự thật không thể nào chối cãi, dù cãi cối cãi chày bằng còng số tám hay nhà tù, họng súng v.v…
Cám ơn Marx, đã cho chúng tôi đề bài “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để làm một bài tập làm văn về sự thật này. Cám ơn ngài cố Tổng thống nước Ba Lan tự do Lech Kaczyński đã cho chúng tôi ý tưởng rất hay: chỉ có sự thật mới giải phóng con người, làm chủ đề bài tham luận. Chúng tôi cũng xin cám ơn tiêu đề của cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật hướng về sự thật đất nước” của Ban Tuyên giáo Trung ương đã gợi ý, khích lệ chúng tôi dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra.
Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến truyện “Bộ long bào của vị hoàng đế” của văn hào Andersen. Thằng bé trong thiên truyện đã liều mạng xé toang bộ long bào hoang tưởng của vị hoàng đế kia bằng cách hét thật to: ông vua cởi truồng! Tiếng kêu thất thanh của chân lý ấy có làm đám đông đang bị quyền lực hôn mê, luôn miệng tung hô vị hoàng đế mặc bộ long bào đẹp nhất tỉnh ra hay không? Nhưng hình như ngay sau khi gọi sự vật bằng tên của nó, thằng bé do sự thật, do tự do phái đến đã biến mất. Do đó, mới còn biết bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế, ca ngợi các ngài khoác những bộ long bào tuyệt vời của trần gian…
Sự thật giản dị nhường ấy, sao bị cả đám đông lờ đi? Mới hay sự cám dỗ của dối trá có bùa ngải quỷ sứ, mê hoặc con người trong bóng tối, trong đe dọa, trong hấp lực của củ cà rốt treo trước miệng con lừa… Sự thật chỉ có thể tồn tại công khai dưới ánh sáng mặt trời. Xã hội của những hội kín vây bủa con người trong lừa mị, trong sợ hãi u u minh minh, luôn xua đuổi và cầm tù sự thật. Chối bỏ sự thật, những xã hội do băng đảng hội kín cầm quyền hầu như không bao giờ đi cùng đường với lẽ phải và công lý.
Chúng tôi không dám làm thằng bé trong thiên truyện kia của Andersen; làm vị thiên sứ của sự thật này, coi chừng khả năng biến mất là điều có thể xảy ra. Hãi quá!
Chúng tôi chỉ xin kể ra ba vị nhà văn Việt Nam hình như cũng đang thử đóng vai trò của thằng bé ấy, vai trò thiên sứ của sự thật, của tự do.
Đây là lời của nhà văn Đỗ Chu bùi ngùi, chua xót, khi ông nói về sự lãnh đạo của Đảng với nhà văn; sao nhà văn giống chú cún con ve vẩy đuôi theo ông chủ trong sân nhà thế: “Tớ yêu Đảng như yêu vợ. Vợ còn sống thì tớ nghe vợ. Vợ chết thì tớ lập bàn thờ khấn vái cho đến chết. Đảng cũng là vợ của tớ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho Đảng tắm. Mua nước hoa cho Đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên gường. Đảng bảo ra đường là ra đường…” (Trích bài “Nhà văn Đỗ Chu yêu Đảng như yêu vợ” của Nguyễn Trọng Tạo ngày 13/7/2010). Về việc này, mới thấy Nguyễn Vĩ xưa thánh thật, khi ông viết: “nhà văn An Nam khổ như chó!”.
Đây là mấy câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Chính (con trai cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, người rất nhiều năm trước và sau 1975 từng làm Tổng Thư ký – ngày nay gọi là Chủ tịch – Hội Nhà văn Việt Nam): “Mấy thằng bạn văn nghệ chửi đổng hát hay / Cổ họng rắn hổ mang trơn tuột liếm mồi trong các HỘI ĐOÀN / hót hít chính trị như chó hít hóng cứt…” (Trích trong bài thơ “Đêm Sài Gòn” in trong tập thơ Chẹc chẹc của Nguyễn Đình Chính, do Tân Hình thức Publishing Club ấn hành trên mạng 2010).
Đây là nhà văn đại tá công an Mai Vũ, trước Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, đã lên tiếng đòi tự do sáng tác, mặc dù từ năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã cởi trói cho các nhà văn:
“Đây là vấn đề nhạy cảm mà không phải ai cũng có dũng khí dám nói thật. Nhằm thiết lập một trật tự xã hội tư duy đồng chiều, chúng ta đã chính trị hóa mọi đời sống xã hội. Điều đó thật tai hại, nó làm khô héo tinh thần dân tộc. Chính trị hóa khoa học đã dẫn đến phủ nhận chân lý khách quan, làm méo mó khoa học. Trong lịch sử Xô Viết trước kia, đã có thời người làm vườn Lưxenkô – Mitsurin được tôn vinh như những nhà cải cách vĩ đại, còn Mooc găng, Menđen là những kẻ phục vụ chủ nghĩa tư bản vì thuyết gen di truyền. Kết quả, nhà di truyền học thiên tài Vavilôp đã phải tự sát, còn nền di truyền học nước Nga thì lụn bại, để lại một vết nhơ đau đớn trong đời sống khoa học xã hội Xô Viết. Đó là vụ ngụy khoa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chính trị hóa giáo dục cũng chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân xây dựng tương lai.
Hội Nhà văn không phải là dàn hợp xướng để hát theo cái gậy chỉ huy của người nhạc trưởng. Nó là lãnh địa của những tư duy và sáng tạo cá nhân, nó là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn lấy sứ mạng phục vụ Tổ quốc và nhân dân trên hết.
Nhà văn viết theo mệnh lệnh của trái tim, mà trái tim nhà văn thuộc về Tổ quốc và nhân dân. Anh ta là tội đồ và đáng nguyền rủa nếu thóa mạ Tổ quốc và dân tộc. Còn khuynh hướng chính trị tùy thuộc quyền lựa chọn của mỗi nhà văn. Hãy để con ngựa Văn tung vó trên cánh đồng bát ngát của tự do” (“Về Hội nhà văn của chúng ta” của Mai Vũ, in trên website Trần Nhương ngày 11-7-2010)
Tiếp nối ba nhà văn trên, chúng tôi xin mời quý vị đọc lại bài thơ “Bài ca sự thật” của chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) đã in trên báo Tuổi trẻ số tất niên ngày 24- 01-1987
BÀI CA SỰ THẬT
Sự thật của tôi
Sự thật của anh
Sự thật của chúng ta
Sự thật của mọi người?
Nhân loại có bao thời
Sự dối trá làm quan toà phán xử
Bru-nô ơi trái đất vẫn tròn
Mà chân lý nghìn sau còn trả giá
Nhưng đất nước vẫn đi tìm sự thật
Trong câu hát có mồ hôi nước mắt
Có con nghê đá đầu đình cười cợt các triều vua
Có thằng Bờm chẳng tin lời hứa hão
Cái quạt mo không để phú ông lừa
Vua Hùng ơi Người đi tìm sự thật
Bằng cách ngày đầu năm xuống ruộng cày bừa
Bao triều đại xưa đổ vì ưa nói dối
“Muốn nói gian làm quan mà nói”
Sự thật giấu trong nhà dân đen
Sự thật từng vật vờ đi như ăn mày đầu đường xó chợ
Sự thật làm anh hề, chú mõ
Sự thật như nàng Thị Kính oan khiên
Sự thật trốn vào ngụ ngôn, ngạn ngữ sấm truyền
Sự thật có khi mượn Xuý Vân mà giả dại
Sự thật chiếc lá đa bay qua bao thời đại
Bay về đây trời nổi can qua
Con vua thất thế quét chùa sãi ơi!
Vĩnh biệt chú Cuội
Vĩnh biệt thành tích ma, báo cáo láo thành thần
Bệnh hình thức gọi sai tên sự vật
Người đói phải nói lời no
Vị đắng sao lại kêu là mật?
Ngục tù mang nhãn hiệu tự do!
Vĩnh biệt khái niệm quét vôi và từ ngữ nước sơn
Đạo đức dính trên đầu môi chót lưỡi
Vĩnh biệt những bóng ma cơ hội
Những cái đầu già cỗi tự bên trong
Những con mắt nhìn người bằng bóng tối
Có nhận ra tia nắng mới trong lòng ?
Tôi là người tập yêu sự thật
Tập nghe nên có lúc ù tai
Tập nhìn nên chói mắt
Đất nước đổi thay
Cơn đau đẻ những dòng sông quằn quại!
Hạt thóc và hạt máu có bao giờ nói dối?
Bốn nghìn năm dân tộc tôi
Đi từ bờ bên kia
Đến bờ bên này của sự thật
Để mỗi con người hôm nay trên mặt đất
Được cầm trong tay một tia nắng mặt trời…
Để kết thúc bản tham luận, xin kính mời quý vị cùng chúng tôi hô 3 khẩu hiệu sau:
Khẩu hiệu một:
KHÔNG CÓ SỰ THẬT, KHÔNG CÓ LẼ PHẢI VÀ CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: không có, không có, không có)
Khẩu hiệu hai:
CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
(xin hô ba lần: chỉ có, chỉ có, chỉ có)
Khẩu hiệu thứ ba:
SỰ THẬT LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: tiêu chuẩn, tiêu chuẩn, tiêu chuẩn)
Xin cám ơn quý vị.
Trần Mạnh Hảo
Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.
Xin chứng minh
Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…
Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.
Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?
Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.
Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.
Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự.
Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.
Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?
Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?
Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.
Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.
Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.
Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.
Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…
Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?
Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?
Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, tránh voi chẳng xấu mặt nào, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…
Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.
Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.
Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.
Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể.
Năm 1986, theo gương Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì chôn chủ nghĩa tư bản (như Marx-Engels dạy) đã quay ngược lại chôn chính học thuyết cộng sản, bằng cách xây dựng nền kinh tế tự do đa thành phần tư bản chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi chết đói. Theo Marx dạy: kinh tế nào, chính trị ấy: hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Nay, kinh tế Việt Nam là tư bản tự do mà chính trị vẫn giữ nền chính trị độc tài xã hội chủ nghĩa là sai quy luật, là không chính danh, là đầu chuột đuôi voi, là ông nói gà bà nói thóc lép, là hồn Trương Ba, da hàng thịt…
Marx–Engels từng công khai tuyên bố trong trước tác của mình: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương pháp phê phán thế giới cũ để tìm được một thế giới mới… Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi…”. Rõ ràng, chính Marx và Engels đã coi học thuyết của mình chỉ là những giả thuyết, những phép thử, những phỏng định về tương lai, tuyệt nhiên không giáo điều cho lý thuyết của mình là chân lý vĩnh hằng. Những ai đã, đang coi học thuyết Marx là chân lý bất biến là đang chống Marx, là muốn dùng Marx giả, Marx dỏm bịt mắt trí thức và nhân dân để quyết câu giờ giữ quyền lực là không chính danh.
Theo định đề: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” của Marx, chúng ta thấy thực tế đã không chấp nhận cuộc thí nghiệm XÓA TƯ HỮU hãi hùng nhất trong lịch sử loài người của Marx-Engels-Lenin với tham vọng “XÓA TƯ HỮU, XÓA CÁ NHÂN, XÓA NHÀ NƯỚC, XÓA MÂU THUẪN, XÓA ĐẢNG CỘNG SẢN, XÓA CÁC GIAI CẤP VÀ ĐẢNG CỦA NÓ, XÓA CHÍNH BIỆN CHỨNG PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CỘNG SẢN ÁO TƯỞNG PHI BIỆN CHỨNG – NƠI KHÔNG CÓ CÁI DỐI TRÁ, KHÔNG CÓ CÁI ÁC ĐỘC VÀ CÁI XẤU XA, NƠI TUYỆT ĐỐI TỰ GIÁC, TUYỆT ĐỐI TỰ DO, TUYỆT ĐỐI GIÀU CÓ, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ NGOẠI TÌNH, KHÔNG CÒN HÔN NHÂN, KHÔNG CÒN GIA ĐÌNH KIỂU CŨ, KHÔNG CÒN NGÂN HÀNG, KHÔNG CÒN TIỀN TỆ…”. Đó là một xã hội bịa đặt không có thật: vì không có cái ác thì cái thiện cũng bị triệt tiêu, không có cái ngụy thì cái chân cũng biến mất, không có cái xấu thì cái đẹp cũng chẳng còn…
Một trăm sáu mươi hai năm từ khi “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Marx–Engels ra đời đến nay, hàng trăm triệu sinh mạng đã bị giết, hàng tỉ người bị tù đầy, bị ngược đãi để “các vị lãnh tụ kính yêu” làm cuộc thí nghiệm đẫm máu cải tạo thế giới từ TƯ HỮU sang CÔNG HỮU, từ TƯ BẢN sang VÔ SẢN, từ CÁ NHÂN sang TẬP THỂ, XÓA QUỐC GIA chỉ còn QUỐC TẾ, XÓA HOÀN TOÀN THẾ GIỚI CŨ, NHÂN LOẠI CŨ chỉ còn MỘT THẾ GIỚI MỚI TINH, NHÂN LOẠI MỚI TINH KHÔNG CÒN TRUYỀN THỐNG, KHÔNG CÒN LỊCH SỬ, KHÔNG CÒN QUÁ KHỨ, KHÔNG CÒN TÔN GIÁO… Chao ôi, khi một con người không còn quá khứ, một dân tộc không còn lịch sử, con người ấy, dân tộc ấy sẽ biến thành tinh tinh, xã hội tinh tinh hay thành những cục bột biết ca hát?… Rút cục, cuộc thí nghiệm cộng sản kinh hồn trên phạm vi toàn thế giới đã hoàn toàn thất bại. Những nước cộng sản cứng đầu nhất như Bắc Triều Tiên, Cuba hiện nay cũng đang rục rịch thí nghiệm mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tập toẹ học lại những bước đi làm giàu vỡ lòng nhân loại đã có từ trước khi Marx ra đời. Đây là sự thật không thể nào chối cãi, dù cãi cối cãi chày bằng còng số tám hay nhà tù, họng súng v.v…
Cám ơn Marx, đã cho chúng tôi đề bài “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để làm một bài tập làm văn về sự thật này. Cám ơn ngài cố Tổng thống nước Ba Lan tự do Lech Kaczyński đã cho chúng tôi ý tưởng rất hay: chỉ có sự thật mới giải phóng con người, làm chủ đề bài tham luận. Chúng tôi cũng xin cám ơn tiêu đề của cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật hướng về sự thật đất nước” của Ban Tuyên giáo Trung ương đã gợi ý, khích lệ chúng tôi dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra.
Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến truyện “Bộ long bào của vị hoàng đế” của văn hào Andersen. Thằng bé trong thiên truyện đã liều mạng xé toang bộ long bào hoang tưởng của vị hoàng đế kia bằng cách hét thật to: ông vua cởi truồng! Tiếng kêu thất thanh của chân lý ấy có làm đám đông đang bị quyền lực hôn mê, luôn miệng tung hô vị hoàng đế mặc bộ long bào đẹp nhất tỉnh ra hay không? Nhưng hình như ngay sau khi gọi sự vật bằng tên của nó, thằng bé do sự thật, do tự do phái đến đã biến mất. Do đó, mới còn biết bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế, ca ngợi các ngài khoác những bộ long bào tuyệt vời của trần gian…
Sự thật giản dị nhường ấy, sao bị cả đám đông lờ đi? Mới hay sự cám dỗ của dối trá có bùa ngải quỷ sứ, mê hoặc con người trong bóng tối, trong đe dọa, trong hấp lực của củ cà rốt treo trước miệng con lừa… Sự thật chỉ có thể tồn tại công khai dưới ánh sáng mặt trời. Xã hội của những hội kín vây bủa con người trong lừa mị, trong sợ hãi u u minh minh, luôn xua đuổi và cầm tù sự thật. Chối bỏ sự thật, những xã hội do băng đảng hội kín cầm quyền hầu như không bao giờ đi cùng đường với lẽ phải và công lý.
Chúng tôi không dám làm thằng bé trong thiên truyện kia của Andersen; làm vị thiên sứ của sự thật này, coi chừng khả năng biến mất là điều có thể xảy ra. Hãi quá!
Chúng tôi chỉ xin kể ra ba vị nhà văn Việt Nam hình như cũng đang thử đóng vai trò của thằng bé ấy, vai trò thiên sứ của sự thật, của tự do.
Đây là lời của nhà văn Đỗ Chu bùi ngùi, chua xót, khi ông nói về sự lãnh đạo của Đảng với nhà văn; sao nhà văn giống chú cún con ve vẩy đuôi theo ông chủ trong sân nhà thế: “Tớ yêu Đảng như yêu vợ. Vợ còn sống thì tớ nghe vợ. Vợ chết thì tớ lập bàn thờ khấn vái cho đến chết. Đảng cũng là vợ của tớ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho Đảng tắm. Mua nước hoa cho Đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên gường. Đảng bảo ra đường là ra đường…” (Trích bài “Nhà văn Đỗ Chu yêu Đảng như yêu vợ” của Nguyễn Trọng Tạo ngày 13/7/2010). Về việc này, mới thấy Nguyễn Vĩ xưa thánh thật, khi ông viết: “nhà văn An Nam khổ như chó!”.
Đây là mấy câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Chính (con trai cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, người rất nhiều năm trước và sau 1975 từng làm Tổng Thư ký – ngày nay gọi là Chủ tịch – Hội Nhà văn Việt Nam): “Mấy thằng bạn văn nghệ chửi đổng hát hay / Cổ họng rắn hổ mang trơn tuột liếm mồi trong các HỘI ĐOÀN / hót hít chính trị như chó hít hóng cứt…” (Trích trong bài thơ “Đêm Sài Gòn” in trong tập thơ Chẹc chẹc của Nguyễn Đình Chính, do Tân Hình thức Publishing Club ấn hành trên mạng 2010).
Đây là nhà văn đại tá công an Mai Vũ, trước Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, đã lên tiếng đòi tự do sáng tác, mặc dù từ năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã cởi trói cho các nhà văn:
“Đây là vấn đề nhạy cảm mà không phải ai cũng có dũng khí dám nói thật. Nhằm thiết lập một trật tự xã hội tư duy đồng chiều, chúng ta đã chính trị hóa mọi đời sống xã hội. Điều đó thật tai hại, nó làm khô héo tinh thần dân tộc. Chính trị hóa khoa học đã dẫn đến phủ nhận chân lý khách quan, làm méo mó khoa học. Trong lịch sử Xô Viết trước kia, đã có thời người làm vườn Lưxenkô – Mitsurin được tôn vinh như những nhà cải cách vĩ đại, còn Mooc găng, Menđen là những kẻ phục vụ chủ nghĩa tư bản vì thuyết gen di truyền. Kết quả, nhà di truyền học thiên tài Vavilôp đã phải tự sát, còn nền di truyền học nước Nga thì lụn bại, để lại một vết nhơ đau đớn trong đời sống khoa học xã hội Xô Viết. Đó là vụ ngụy khoa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chính trị hóa giáo dục cũng chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân xây dựng tương lai.
Hội Nhà văn không phải là dàn hợp xướng để hát theo cái gậy chỉ huy của người nhạc trưởng. Nó là lãnh địa của những tư duy và sáng tạo cá nhân, nó là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn lấy sứ mạng phục vụ Tổ quốc và nhân dân trên hết.
Nhà văn viết theo mệnh lệnh của trái tim, mà trái tim nhà văn thuộc về Tổ quốc và nhân dân. Anh ta là tội đồ và đáng nguyền rủa nếu thóa mạ Tổ quốc và dân tộc. Còn khuynh hướng chính trị tùy thuộc quyền lựa chọn của mỗi nhà văn. Hãy để con ngựa Văn tung vó trên cánh đồng bát ngát của tự do” (“Về Hội nhà văn của chúng ta” của Mai Vũ, in trên website Trần Nhương ngày 11-7-2010)
Tiếp nối ba nhà văn trên, chúng tôi xin mời quý vị đọc lại bài thơ “Bài ca sự thật” của chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) đã in trên báo Tuổi trẻ số tất niên ngày 24- 01-1987
BÀI CA SỰ THẬT
Sự thật của tôi
Sự thật của anh
Sự thật của chúng ta
Sự thật của mọi người?
Nhân loại có bao thời
Sự dối trá làm quan toà phán xử
Bru-nô ơi trái đất vẫn tròn
Mà chân lý nghìn sau còn trả giá
Nhưng đất nước vẫn đi tìm sự thật
Trong câu hát có mồ hôi nước mắt
Có con nghê đá đầu đình cười cợt các triều vua
Có thằng Bờm chẳng tin lời hứa hão
Cái quạt mo không để phú ông lừa
Vua Hùng ơi Người đi tìm sự thật
Bằng cách ngày đầu năm xuống ruộng cày bừa
Bao triều đại xưa đổ vì ưa nói dối
“Muốn nói gian làm quan mà nói”
Sự thật giấu trong nhà dân đen
Sự thật từng vật vờ đi như ăn mày đầu đường xó chợ
Sự thật làm anh hề, chú mõ
Sự thật như nàng Thị Kính oan khiên
Sự thật trốn vào ngụ ngôn, ngạn ngữ sấm truyền
Sự thật có khi mượn Xuý Vân mà giả dại
Sự thật chiếc lá đa bay qua bao thời đại
Bay về đây trời nổi can qua
Con vua thất thế quét chùa sãi ơi!
Vĩnh biệt chú Cuội
Vĩnh biệt thành tích ma, báo cáo láo thành thần
Bệnh hình thức gọi sai tên sự vật
Người đói phải nói lời no
Vị đắng sao lại kêu là mật?
Ngục tù mang nhãn hiệu tự do!
Vĩnh biệt khái niệm quét vôi và từ ngữ nước sơn
Đạo đức dính trên đầu môi chót lưỡi
Vĩnh biệt những bóng ma cơ hội
Những cái đầu già cỗi tự bên trong
Những con mắt nhìn người bằng bóng tối
Có nhận ra tia nắng mới trong lòng ?
Tôi là người tập yêu sự thật
Tập nghe nên có lúc ù tai
Tập nhìn nên chói mắt
Đất nước đổi thay
Cơn đau đẻ những dòng sông quằn quại!
Hạt thóc và hạt máu có bao giờ nói dối?
Bốn nghìn năm dân tộc tôi
Đi từ bờ bên kia
Đến bờ bên này của sự thật
Để mỗi con người hôm nay trên mặt đất
Được cầm trong tay một tia nắng mặt trời…
Để kết thúc bản tham luận, xin kính mời quý vị cùng chúng tôi hô 3 khẩu hiệu sau:
Khẩu hiệu một:
KHÔNG CÓ SỰ THẬT, KHÔNG CÓ LẼ PHẢI VÀ CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: không có, không có, không có)
Khẩu hiệu hai:
CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
(xin hô ba lần: chỉ có, chỉ có, chỉ có)
Khẩu hiệu thứ ba:
SỰ THẬT LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: tiêu chuẩn, tiêu chuẩn, tiêu chuẩn)
Xin cám ơn quý vị.
Trần Mạnh Hảo
Chỉ Có Sự Thật Mới ....... Sự Thật 2
Sự thật hai.
Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).
Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?
Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị!
Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.
Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.
Trích bài tham luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo.
( Còn tiếp xin mời đọc )
Những Sự Thật.
Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).
Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?
Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị!
Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.
Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.
Trích bài tham luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo.
( Còn tiếp xin mời đọc )
Những Sự Thật.
Chỉ Có Sự Thật Mới ....... Sự Thật 1
Sự thật một.
Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…
Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?
Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?
Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…
Trích bài tham luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo.
( Còn tiếp xin mời đọc )
Những Sự Thật.
Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…
Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?
Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?
Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…
Trích bài tham luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo.
( Còn tiếp xin mời đọc )
Những Sự Thật.
Abonner på:
Innlegg (Atom)