Nước mắt 
anh không rơi trong ngục tù cộng sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả 
tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức 
từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến
 và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời 
chiến?
Không biết 
bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính 
trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi 
là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân 
dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội 
tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, 
người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để 
gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, 
giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, 
hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm 
không hề thay
 đổi.
Người
 thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ 
đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên 
thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh 
trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt 
xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. 
Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa 
vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.
Bắt đầu từ 
thập niên 60, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ
 thuyết ngoại lai, với những xích còng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê 
hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh 
mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, 
để bảo vệ miền Nam.
Ðất nước 
hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ.
 Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm 
ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh 
mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác 
vang trời không nghỉ.
Tiếng mưa 
bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi
 năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem 
hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và 
nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày 
anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được 
trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh 
bạn với gian nguy.
Anh với đầu
 đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm 
ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, 
Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở
 bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào 
hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, 
rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.
Anh đã đến 
những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa 
danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi 
ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân 
thối rữa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, 
Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền 
Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã 
đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi 
một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn 
ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân 
quốc gia được sống no ấm ở
 hậu phương.
Những người
 dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân cộng
 sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi cộng sản tới và núp 
bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn 
trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công 
việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì 
tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ 
buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm 
sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè 
phỡn trên máu xương của người lính.
Và ở hậu 
phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, 
và tương lai người lính đếm được trên từng ngón tay. Thế nên, người lính
 về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lõng. Bỗng hình như anh cảm thấy 
mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người 
lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở,
 báo chí và truyền hình.
Người lính 
bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn 
chương để tự phản bội chính mình, để thỏa mãn cho những kẻ trông con bò 
để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người
 lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống 
chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu 
chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân 
khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận 
mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca 
mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, 
áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non
 hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho 
cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài
 đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu
 phương.
Ðó là những
 người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hóa rẻ tiền, với đôi guốc vông 
kẽo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói
 ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo 
ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các
 trung tâm huấn luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì
 làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy 
sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.
Hạnh phúc 
của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son 
nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài 
thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. 
Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ 
chào đời tháng trước.
Người vợ 
lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại 
bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn 
bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh 
khăn sô.
Trong nỗi 
chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua 
để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất 
công to lớn, sự bạc đãi phũ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu
 oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.
Ở chiến 
trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ 
khinh khi, trên đầu anh có nhung nguoi sẵn sàng giẫm xác anh để cầu vinh
 cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.
Những người
 dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy 
lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. 
Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở 
hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao
 gồm quyền sống của anh.
Những kẻ để
 trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng 
trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc 
thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định 
kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính 
bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, 
anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.
Ngày Hòa 
Bình, 27 Tháng Giêng năm 1973 Hiệp Ðịnh Paris được ký kết hòa bình thật 
đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do 
nâng ly để chúc mừng cho hòa bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hòa 
bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, 
anh là vật thụ nạn trong cái hòa bình bi thảm.
Người lính 
vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành lũy để ngăn bước quân
 thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau,
 có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính ?
Những người
 lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng 
Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân 
mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn 
năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước 
đá lạnh giữa cái nắng cháy da.
Người lính,
 người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ 
bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà
 anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh 
mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi
 bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.
Và anh, anh
 phải đóng trọn vai trò cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu 
đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm
 trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ.
Và đồng 
minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian 
nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn 
anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những 
hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?
Cho nên, cả
 thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi 
mình anh, vì bởi dưới đường đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì 
đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn 
tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng 
như vị thần Atlas mang vác quả Ðịa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ
 mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.
Trên những 
con đường từ cao nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những
 người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong 
cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh 
đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết
 ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.
Bởi lãnh 
đạo (?)đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình 
trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm 
chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có 
thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường 
dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối 
loạn tràn ngập bóng quân thù ?
Anh đã khóc
 nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác 
bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có
 ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?
Thương
 cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một 
lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở
 Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi 
anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh 
tan vỡ từ lâu.
Lịch sử đã 
sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái 
đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô 
trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn 
chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để 
truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu 
nô lệ mới nhập tên. Hòa bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong 
đời người Cộng Sản, nhưng hòa bình không thật đến ở Việt Nam.
Người cộng 
sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hòa bình, 
không sống được trong hòa bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng
 mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.
Khởi đầu là
 việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hòa và hạ tượng Người Lính Việt 
Nam Cộng Hòa. Người lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ
 đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong 
trái tim của người dân Việt Miền Nam.
Bởi từ khi 
những người bộ đội cộng sản bước chân vào thành phố, thì người dân quốc 
gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối 
hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết
 trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi 
vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng
 rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh 
đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật 
về người cộng sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính
 vượt quá nỗi bi thương.
Hai mươi 
năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương 
binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ 
thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời 
để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của 
chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ 
và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.
Ðể cho bàn 
tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi
 chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu
 xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.
Nhưng lịch 
sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người cộng sản và 
cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc 
Việt Nam.
Anh, người 
lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số 
phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong 
thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê
 hương anh.
Bởi Cộng 
Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy 
trầm luân. Cũng chính từ chiến trường tù ngục này mà cộng sản đã chứng 
minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ cộng sản cuồng 
tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên 
một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết 
người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẽ, bằng lao động 
vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.
Người lính 
bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù
 nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không
 có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. 
Ðày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của 
anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào 
những mốc thời gian.
Người lính 
đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở 
rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa 
rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn, anh vượt
 qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử 
sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân
 đạp chữ đầu hàng.
Từ trong 
tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, 
để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần
 gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh
 đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)
Nước mắt 
anh không rơi trong ngục tù cộng sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả 
tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức 
từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến
 và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời 
chiến?
Và tuổi 
trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung 
dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè 
cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?
Hai mươi 
năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh 
phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, 
tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước 
vào đời lần nữa.
Anh không 
có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. 
Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê 
hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong 
những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.
Ba mươi năm
 vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt 
đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên 
những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới 
diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đã
 quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng 
như người lính Việt Nam Cộng Hòa, những anh hùng vô danh và sống đời 
thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.
Nhưng cho 
tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những 
người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, 
đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền 
trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn hồng thủy của Việt 
Nam.
Chúng ta, 
những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và 
chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng 
ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức 
nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ 
vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh
 diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.
Ngày nay, 
người cộng sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời
 phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người quốc gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân
 dung kỳ vĩ và nhiệm màu của người lính chúng ta. Có ai trong chúng ta 
sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh 
tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ 
tiền ra để quyên góp, xây lại tượng người lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm
 nào.
Ðể một mai,
 khi quê hương không còn giống cộng sản, ta đem anh về trở lại quê 
hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với 
đất nước lúc hồi sinh.
Bao nhiêu 
chuyên gia nhóm họp nhan đề “xây dựng lại đất nước trong thời hậu cộng 
sản.” Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày 
nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng 
mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã 
hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh 
danh người lính Việt Nam Cộng Hòa. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị 
Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, 
thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ 
tương lai.
Nguyễn Thị Thảo An. 


Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar