søndag 29. november 2009

Những Điều Kiện Tiên Quyết

Những Điều Kiện Tiên Quyết.

NHỮNG AI ĐÃ HOẶC ĐANG NGẮM NGHÉ HỢP TÁC VỚI CỘNG SẢN.

Cộng sản Việt Nam đừng nghĩ rằng đu dây với Mỹ được mà hý hững, chỉ có con đường duy nhất là từ bỏ chế độ Cộng sản, thành khẩn nhận tội và xin lỗi trước quốc dân và thế giới về các tội ác chống dân tộc như thảm sát trong cải cách ruộng đất, thảm sát Mậu Thân, đàn áp và tiêu diệt các tôn giáo, đàn áp và tiêu diệt các đảng phái đối lập và đồng bào sắc tộc, trả thù quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa, bán đứng tổ quốc và dân tộc cho Tàu cộng, và phải trả lại các tài sản mà Cộng sản đã cướp đoạt của nhân dân từ năm 1945 đến nay. Phải thả ngay các tù nhân chính trị - tù nhân lương tâm, xin lỗi và bồi thường cho họ và gia đình. Đó là những điều kiện tiên quyết để nói chuyện hòa hợp hòa giải.

Nếu còn ngoan cố không nhận tội và xin lỗi công khai trước quốc dân và thế giới thì mọi lời tuyên truyền chỉ là trò lừa bịp để nhuộm đỏ Việt Nam, củng cố quyền lực của một chế độ công an trị độc tài tàn bạo, gian ngoan xảo trá, áp bức bóc lột nhân dân, tước đoạt mọi quyền tự do căn bản của con người. Thật là phi lý khi kẻ làm nên vô vàn tội ác, chưa bao giờ biết nhận tội và nói lời xin lỗi nạn nhân, chưa bao giờ biết cải tà quy chính mà nay lại đòi nạn nhân của nó phải hòa hợp hòa giải; đúng là trò gian manh của bọn ăn cướp dựa vào quyền lực và tiền bạc để khỏa lấp che giấu mọi ý đồ thâm độc hầu duy trì và củng cố sự ác.

Chỉ có những kẻ ngây thơ nhẹ dạ, những kẻ nông nỗi, những kẻ tham mồi danh lợi bất chấp phải trái, những kẻ ăn phải bã độc của cộng sản, những kẻ vô ý chí, những kẻ chóng quên, những kẻ phản bội chính nghĩa, những kẻ thật thà bị lợi dụng, và những kẻ đầu cơ trục lợi mới hợp tác với kẻ thù của dân tộc là Cộng sản mà không hề đưa ra một điều kiện tiên quyết nào đối với Cộng sản Việt Nam cả.

Mọi lý luận cho rằng phải hợp tác với Cộng sản để "cải hóa" họ dần dần là lấy trứng chọi đá và không biết bản thân mình là ai. Mọi lý luận cho rằng phải làm gián điệp cho Mỹ xâm nhập vào Việt Nam để lèo lái Cộng sản Việt Nam đi theo Mỹ, là những ý niệm phi lịch sử và chẳng hiểu chủ nghĩa Cộng sản là cái gì cả. Mỹ chưa hề chiến thắng Cộng sản Việt Nam hay Trung Hoa, và hiện đang là con nợ lớn nhất của Trung cộng. Trong mắt cộng sản Việt Nam thì Mỹ chỉ là anh nhà giàu có tiền và sức mạnh, nhưng là loại vai u thịt bắp, xưa nay chỉ chuyên nuôi dưỡng những bọn ăn hại đái nát trên thế giới, cộng sản Việt Nam vẫn mơ sẽ có ngày cùng bọn cộng sản quốc tế cắm cờ đỏ trên tòa Bạch ốc.

Cho nên: NGÀY NÀO MÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT TRÊN CHƯA ĐƯỢC CỘNG SẢN VIỆT NAM THI HÀNH THÌ NGÀY ĐÓ TOÀN DÂN VIỆT NAM CÒN PHẢI CHỐNG CỘNG CHO ĐẾN CÙNG ĐỂ CỨU TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC THOÁT KHỎI THẢM HỌA ĐỎ VÀ LÀM TÔI TỚ CHO TRUNG CỘNG.

Ninh Thuận

Từ Trèo Tường Ðến Vượt Biển

Từ Trèo Tường Ðến Vượt Biển.

Trèo tường và vượt biển là những quyết định một sống, một chết của người sống dưới chế độ CS, tự đặt đời mình lên chiếu bạc: để hoặc được sống tự do, hoặc chết, chứ không chấp nhận cuộc sống không ra sống. Cho tới nay, đã có gần 1400 người chết khi vượt tường Bá linh và 75,000 người ngồi tù vì âm mưu trèo tường bị phát giác trước khi thực hiện. Về vượt biển, thì đã có gần 1 triệu người bỏ mình trên biển Đông, hoặc bị hải tặc sát hại. Thế mới biết hai chữ “tự do” thực là đắt gíá và chế độ CS bị ghê tởm từ đông sang tây.
Tại Đức, .sau khi bị chia làm đôi, Đông Đức do Nga kiểm soát và Tây Đức do Anh, Pháp, Mỹ chịu trách nhiệm thì đã có khỏang 3.5 triệu người chạy từ Đông qua Tây để tìm tự do. Ngày 8/12/61, Đông Đức đóng cửa biên giới và cho xây bức tường Ô Nhục giữa Đông và Tây Bá Linh để ngăn cản làn sóng tỵ nạn. Bức tường ô nhục với đầy đủ các cạm bẫy giết người này là tác phẩm của Tổng Bí Thư Liên Xô, Kruschev và Đệ Nhất Tổng Bí Thư Đông Đức, Ulbright. Nhưng bức tường này không ngăn cản được những người dân Đông Đức tìm tự do.
Người ta còn nhớ sau khi kiểm soát Đông Đức, Liên Sô đã liên tục thanh trừng nội bộ, bắt bớ và giam cầm những người bất đồng chính kiến, theo dõi kiểm soát dân chúng nghiêm ngặt. Trong khi đó mức sống ngày càng khó khăn, thực phẩm đắt và khan hiếm.. Hơn 1 triệu người Đông Đức đã xuống đường biểu tình. Chính quyền Đông Đức sợ hãi phải vào ẩn trú ở Tổng hành dinh của Hồng quân Liên Sô. Cuộc chống đối đầu tiên này đã bị xe tăng Liên Sô đàn áp thẳng tay, ghì chăt dân Đông Đức dưới xích sắt. .
Tháng 3/1989, Thủ Tướng Hungary, nhận được tín hiệu của Gorbachev, đã gỡ bỏ hàng rào kẽm dọc theo biên giới. Lập tức 60,000 người đông Đức ào ạt chạy sang Tây Đức. Chính quyền Đông Đức không kiểm soát được nữa. Ngày 9/11/89 bức tường Bá Linh hoàn toàn sụp đổ. Người ta nhảy múa, ca hát quanh bức tường. Rồi với bất cứ vật gì có trong tay, người ta đập phá bức tường , và ăn mừng với những lát bánh mì nướng. Ngay cã những người lính Đông Đức cũng tiếp tay phá hủy bức tường này. Ngay trong tháng đầu đã có 2 triệu người Đông Đức tràn qua Tây Đức. Bức tường Bá Linh sụp đổ là cánh cổng mở ra cho nền dân chủ.không phải riêng nước Đức, mà còn của các quốc gia Âu châu khác như Slovakia, Hungary, Balan, Latvia, Slovenia, và Estonia.

Nhiều người thắc mắc đâu là nguyên do chính của sự sụp đổ bức tường Bá Linh ? Để kỷ niệm 20 năm của ngày thống nhất nước Đức, tháng 11/2009, vợ chồng ký gỉa Katrina Vanden Heuvel và Stephen F. Cohen, biên tập viên tờ “The Nation” đã làm một cuộc phỏng vấn ông Mikhail Gorbachev, vị tổng thống Liên Xô vào thời điểm đó.
Khi được hỏi: “Bức tường Bá Linh được phá đồ và chấm dứt chiến tranh lạnh là do cuộc cách mạng dân chủ ở Đông Âu hay là do sức mạnh của Hoa Kỳ ? Hoặc do cả hai ?”
Tổng Thống Gorbachev đã trả lời:” Đây là kết quả công cuộc cải tổ ở Liên Xô, khi quá trình chuyển hóa theo đường hướng dân chủ đã đạt đến đỉnh vào tháng 3/1989, tức là thời điểm khi lần đầu tiên trong lịch sử Nga đã diễn ra cuộc bầu cử dân chủ và có tính chất cạnh tranh. Đó là cuộc bầu cử Quốc Hội mới ở Liên Sô. Kết quả là 35 bí thư đảng uỷ khu vực đã thất cử. Xin nói thêm là 84% đại biểu được bầu là đảng viên, tuy nhiên nhiều đảng viên chỉ là người dân thường làm công nhân hoặc lao động trí óc. Đây là cuộc bầu cử cực kỳ quan trọng. Có nghĩa là phong trào đã đi theo hướng dân chủ, công khai, và đa nguyên. Những quá trình tương tự cũng xảy ra ở Trung và Đông Âu…”
Khi được hỏi: “.Sau cuộc bầu cử ở Liên Sô vào tháng 3/1989, việc bức tường Bá Linh sụp đổ là không thể tránh khỏi ?”

TT Gorbachev trả lời: ” Đúng như vậy.”.”
Như vậy, bức tường Bá Linh sụp đổ cũng là do nhiều yếu tố đúc kết lại. Sự cải tổ của Liên Sô theo đường hướng dân chủ là một điểm mấu chốt. Sức mạnh của nhân dân Đức và sự ủng hộ của Hoa Kỳ cũng không kém phần quan trọng.
Xoay qua cục diện VN, dân VN khao khát tự do không kém gì người Đức. Bức tường Bá Linh sụp đổ đem laị niềm hy vọng cho dân VN, nhưng 20 năm qua rồi ! chế độ vô nhân vẫn tồn tại, và tồi tệ hơn bao giờ hết, còn thêm tội buôn dân, bán nước. Nó như thế vì có sự tiếp tay của các thế lực tài phiệt nhằm khai thác tài nguyên nhân lực VN trong khung cảnh kinh tế toàn cầu.

Người VN, gồm 3 triệu người hải ngoại và 80 triệu người dân trong nước vẫn hằng khao khát một bầu trời tự do, một làn gió dân chủ cho quê hương VN. Chúng ta không thể hy vọng gì nhiều của thế giới. Chúng ta chỉ có thể tin cậy vào chính bàn tay và khối óc của chúng ta. Ông Dieter Von Wichmann, một trong số 75,000 người ngồi tù ở Đông Đức vì tội âm mưu trèo tường đã có lời nhắn gửi cho những ai còn đang sống dưới ách CS: “Hãy hiểu giá trị của Dân Chủ, bảo vệ nó, và đừng để ai cướp nó đi. Cũng đừng chịu thua một chế độ nào, mà phải can đảm đòi hỏi quyền của mình. Nếu không sẽ không bao giờ có thay đổi.”

Triệu Vũ

Khúc Ruột Ngàn Dặm

Khúc Ruột Ngàn Dặm.

Sau khi cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, và kể từ đó cho tới thập niên 80 CSVN đã cố gắng xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng đã thất bại. CSVN đã đưa ra những chính sách quốc doanh, đánh tư bản và đẩy dân miền Nam đi kinh tế mới, và hậu qủa là đưa người dân miền Nam đến sự ngheo nàn và thíu ăn: Xe hơi (ô tô) thì “cải tiến” lại chạy bằng than (hơi nước); xe đạp thì có người phải lấy rơm quấn vào răng xe thây cho vỏ và ruột xe; áo quần thì vá hơn cả chục mảnh; gạo thì không có để ăn v.v. Nói chung lại CSVN đã không biết làm thế nào để phát triển nền kinh tế khá hõn theo chủ nghiã xã hội. Ngược lại nền kinh tế VN dâm chân tại chổ và tệ hại hơn nữa nó đi thụt lùi so với những nước tư do, và đưa nước VN đến sự ngheo nàn đói khổ.

Không lối thoát, CSVN đã nghĩ đến “Khúc ruột ngàn dậm.” Giữa thập niên 80, CSVN đã ngấm ngầm (vì sợ xấu hổ) kêu cứu Người Việt Hải Ngoại (NVHN) viện trợ qua hình thức cho gởi qùa về cho thân nhân. Một cuộc viện trợ “Vĩ Đại” từ NVHN ồ ạc gởi qùa về VN cứu nguy cho đảng CSVN gần chết. Đến 1986, CSVN không còn con đường nào khác hõn là phải mở cửa để đón nhận thế giới tư bản vào. Rồi việc chuyển tiền về VN được CSVN hợp thức hóa. Một lần nữa NVHN đã hà hơi cho đảng CSVN được sống. Mỗi năm NVHN đã gởi tiền viện trợ không hoàn lại (cho không biếu không) lên đến hơn 8 tỉ. Số tiền NVHN gởi về mỗi năm đã giúp cho đảng CSVN huênh hoang đến bây giờ và còn nói phéc là đảng và nhà nước ta đã có những thành qủa cao trong công cuộc xây dựng đất nước.

Sẽ có nhiều người (nhất là CSVN) nói như vậy là không có khoa học: không có một số liệu thông kê chính xác, nhưng thật ra nó cũng đơn giãn để nhận ra thực tế là như vậy và CSVN biết rỏ hơn ai hết. Chính phủ nào cũng cần có một ngăn sách để hoạt động và CSVN không có sự ngoại lệ. Ngăn sách do đâu có, do sự sản xuất; ai sản xuất? Người dân sản xuất. CSVN ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội chừng nào lại càng thất bại chừng đó và lại càng ra sức bóc lột người dân VN để duy trì cái đảng CSVN nhưng vẫn không đủ để bộ máy chính quyền và đất nước khá hơn. Vì vây, CSVN đã nghĩ đến “Khúc ruột ngàn dậm.” Số tiền viện trợ cho không và biếu không của NVHN hằng năm đã một phần không nhỏ giúp CSVN nuôi cái đảng CSVN từ trung ương đến địa phương, từ quân đội đến công an.
Bây giờ nhìn về khía cạnh kinh tế chi tiếc một chút để sau đó so sánh và kết luận tại sao CSVN vẫn muốn nhận NVHN làm “Khúc ruột ngàn dậm.”
Tiền người dân phải làm cong lưng để đóng thuế cọng thêm vào tiền lời từ xuất khẩu như là, gạo, cà fê, nước mắm, tơ lụa, dầy dép v.v., con số này có thể phỏng đoán cao tay lắm lên được vài tỉ mỗi năm; không đủ để xây dựng và đưa VN ra khỏi cái nghèo được. CSVN phải đi vay mượn từ những ngân hàng quốc tế hoặc từ những nước tư bản. Ví dụ nhý là chương trình viện trợ ODP của Nhật. Nhưng nên nhớ rằng tiền viện trợ này không đưa một lần mà đưa theo từng giai đoạn. Và cũng nên nhớ rằng người dân VN sẽ phải còng lưng trả nợ sau này. Thêm vào, CSVN đã và đang mời mọc những nước tư bản đầu tư vào VN. Vì vậy, 8 tỉ của NVHN gởi về là số tiền không phải là nhỏ để giúp CSVN sinh tôn.
Tiền viện trợ 8 tỉ cho không và biếu không của NVHN gởi về mỗi năm. Với một số tiền được bồi đấp hằng năm như vậy thì đúng ra nền kinh tế VN phải phát triển mạnh– những thân nhân nhận được tiền, rồi qua nhu cầu đời sống thì nó đã tạo nên một dây chuyền cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và việc làm. Và người dân VN đã có thể thóat được cái nghèo, nhưng CSVN đã không làm được. Có lẽ nhiều người trong chúng ta hỏi, vậy thì tiền nó chạy đi đâu? Một phần nó chạy vào túi mấy ông CSVN, một phần nó chạy ra nước ngoài theo nhu cầu tiêu dung mà phải nhập hàng hoá vào, và một phần nó vào tay của những người biết chụp thời cơ làm ăn và biết sống với CSVN và thuộc loại con ông cháu cha. Rất tiếc phần rất lớn số tiền này đã chạy ra nước ngoại qua nhu cầu nhập cảng. Nếu số tiền này luân chuyển trong nước thôi thì nó sẽ giúp phát triễn nền kinh tế của VN rất lớn.
Để kết luận tại sao CSVN cần “Khúc ruột ngàn dậm”: So với số tiền CSVN đi vay mượn 1tỉ để kích thích kinh tế VN, thì số tiền 8 tỉ NVHN gởi về mỗi năm không phải là nhỏ cho sự phát triễn kinh tế của VN hiện nay. Chính vì vậy mà CSVN cần “khúc ruột ngàn dậm” của NVHN. Và nói thẳng ra rằng, bộ mặc kinh tế VN có khá hơn một chút hiện nay là một phần do tiền của NVHN gởi về mỗi năm.

Ngoài vấn đề kinh tế ra, CSVN còn cần “khúc ruột ngàn dậm” ở khía cạnh chính trị và tâm lý nữa: Chiến thắng bằng sức mạnh và chưa chiến thắng được nhân tâm là cuộc chiến thắng chưa toàn vẹn, và đây là một cái nhục và cái đau của CSVN. Hơn 2 triệu NVHN — và có lẽ 80 triệu dân trong nước — tâm đã không phục CSVN. Vì vậy, CSVN làm đủ mọi cách để chính phục nhân tâm của NVHN — mặc dầu CSVN một thời đã nhục mạ NVHN– qua đủ mọi chiêu bài văn hóa nào là: “Giao lưu văn hóa”, “Đại đoàn kết”, “Gặp gỡ Việt Nam” và rồi “Hội nghị việt kiều lần thứ nhất” v.v., nhưng tiếc thây cho CSVN đã thất bại ê chề. Sau khi kết thúc cái gọi là Hội Nghị Việt Kiều ở Hà Nội thì CSVN ngậm đắn nuốc cay cái chiêu bài Đoàn Kết, Xây Dưng và Văn Hóa tuyền truyền mà không Lừa Bịp được ai. Và ngay cả người dân trong nước cũng biết mấy ông CSVN chơi trò Lừa Bịp tuyên truyền. CSVN thấy cộng đồng NVHN lớn mạnh, đặc biệt là chất xám. CSVN thèm lắm và chơi trò dụ khị hoài mà không thành. Thật là tội nghiệp cho CSVN.

Từ ngày có cái thuyết Karl Marx ra đời, nhân loại đã xa lánh và tẩy chay ngay những ngay đầu. Thời đó những học giã và trí thức đã cho đó là học thuyết mơ hồ và điên khùng. Sau này Lenine chỉ lợi dụng được những thành phần Công, Nông để làm cuộc cách mạng vô sản. Để rồi biết bao nhiêu triệu ngýời vô tội phải chết oan ức bởi cái chủ nghĩa vô sản đó, rồi thì đất nước nghèo đói thua xa những nước tư do. Văn hóa cách mạng đã lỗi thời rồi không Lừa Bịp được ai nữa đâu. Tại sao bây giờ phải đi mời mọc những nước tư bản vào giúp để xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội vậy ???

NVHN biết thế nào là đoàn kết và bảo tồn văn hóa VN như thế nào, không đợi đến bây giờ các ông CSVN mới làm. Lúc nào cũng đi sau người ta từ 30 đến 50 năm về văn hóa lẫn kinh tế mà bầy đặc múa rều.
Thế kỷ 21 rồi, nhân loại đã ý thức được nền dân chủ như thế nào và quyền tý do của con người phải được bảo vệ đúng nghĩa nhý thế nào. Chủ nghĩa vô sản đã mục nát hết rồi. Đừng có mơ tưởng nữa. Hãy trã lại quyền tư do cho người dân để người dân VN tự quyết định vận mạng của đất nước. Hãy nhớ rằng, làm sao dân tộc VN lại đi thù ghét dân tộc VN, nhưng chính đảng CSVN đã làm cho dân tộc VN bị chia rẻ. Hãy mạnh dạng dẹp bỏ cái đảng CSVN đi. Và hãy nhớ rằng NVHN lúc nào cũng là Khúc Ruột Ngàn Dậm của dân tộc Việt Nam Tư Do thật sự không CS.

Hoàng Ngọc

Khúc Ruột Ngàn Dặm !

DANH SÁCH VIỆT GIAN THAM DỰ HỘI NGHỊ VIỆT CỘNG

DANH SÁCH VIỆT GIAN THAM DỰ HỘI NGHỊ VIỆT CỘNG NĂM 2009:

1- Nữ "khoa học gia" Nguyễn Thị Quý là chuyên gia về tế bào học tại Úc.

2- Vũ Mạnh Huỳnh, Việt kiều Mỹ, làm việc trong ngành sinh hoá.

3- Thạc sỹ Lizbeth Nguyễn, làm việc tại tập đoàn sinh hoá BiogenIdec, Việt kiều Mỹ.

4- Tiến sĩ Nguyễn Quốc Bình, Việt kiều Canada – Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ sinh học Sài Gòn.

5- Tiến sĩ Nguyễn Trọng Bình, Việt kiều Mỹ – Khoa học gia ngành Sinh vật phân tử và công nghệ.

6- Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Lương Dũng, Việt kiều Đức, Cán bộ giảng dạy Đại học Bách khoa Sài Gòn.

7- Tiến sĩ Nguyễn Trí Dũng, Việt kiều Nhật, Giám đốc Cty NICD – Minh Trân.

8- Họa sĩ Lê Bá Đảng, Việt kiều Pháp.

9- Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Quý Đạo, Việt kiều Pháp.

10- Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo, Việt kiều Pháp.

11- Bác sĩ Bùi Minh Đức, Việt kiều Mỹ.

12- Tiến sĩ Lê Phước Hùng, Việt kiều Mỹ.

13- Thạc sĩ Phạm Đức Trung Kiên, Việt kiều Mỹ, giám đốc điều hành Quỹ giáo dục Việt Nam của Chính phủ Hoa Kỳ VEF.

14- Giáo sư - Tiến sĩ Đoàn Kim Sơn, Việt kiều Pháp, Đại học Cơ và Kỹ thuật hàng không.

15- Giáo sư Toán học Lê Tự Quốc Thắng, Việt kiều Mỹ – Viện Công nghệ Georgia, Hoa Kỳ.

16- Phan Thành, Chủ tịch HĐQT Hiệp hội doanh nghiệp người VN ở nước ngoài tại Sài Gòn, Việt kiều Canada.

17- Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn, Việt kiều Úc, Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Australia.

18- Tiến sĩ - Nhạc sĩ Nguyễn Lân Tuất, Việt kiều Nga, Chủ nhiệm khoa sáng tác Hàn lâm Viện âm nhạc tỉnh Novosibirs.

19- GS TS Huỳnh Hữu Tuệ, du học tại đại học Laval ở Canada từ năm 1960, chuyên ngành viễn thông và xử lý thông tin. Từ năm 2007, làm Hiệu trưởng Đại học Quốc tế Bắc Hà.

20- Lê Trọng Văn, làm cho BBC tiếng Việt trước 1975, Việt kiều Mỹ.

21- Lê Thiết Hùng trưởng đoàn Việt Kiều Ba Lan.

22- Hoàng Văn Vinh, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Ekaterinburg (Nga).

23- TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chánh ngân hàng từ hơn ba mươi năm qua, nguyên sáng lập viên ngân hàng First Vietnamese American Bank tại California, Hoa Kỳ.

24- Nguyễn Chánh Khê, Việt kiều Mỹ.

25- TS. Tô Thanh Bình, Cộng hòa Liên bang Đức.

26- TS. Nguyễn Quốc Vọng, Giáo sư, Trường Khoa học ứng dụng, Đại học RMIT, Melbourne Vic 3001, Úc.

27- Nguyễn Huỳnh Mai, Việt kiều tại Bỉ.

28- Ông Nguyễn Văn Hiền, Chủ tịch HĐQT Trung tâm thương mại Đồng Xuân, Berlin (Đức).

29- Doanh nhân Nguyễn Công Chánh, San Francisco - Mỹ.

30- Bùi Kiến Thành, chuyên gia tài chính, Việt kiều Canada.

31- Kỹ sư Đỗ Anh Thư, việt kiều Mỹ, giám đốc điều hành hội VNHELP, đặt văn phòng tại 500 E. Calaveras Blvd, Suite 307, Milpitas, CA 95035, Mỹ. VNHELP được thành lập năm 1996.

32- Calvin Trần, Việt kiều Mỹ

33- Hoàng Văn Vinh - Chủ tịch Hội Người VN tại tỉnh Svetlov, Nga.

34- Tô Quý Phú - Hội Thân hữu Ai Lao tại Pháp.

35- Bác sĩ Hoàng Anh Dũng - Việt kiều Bỉ, chuyên gia ghép thận của BV Erasme thuộc Đại học ULB.

36- Nguyễn Đức Thành - Chủ tịch Hội Người VN ở Anh.

37- Mayer Bùi Thị Thu Minh - Việt kiều Đức.

38- Phạm Thị Dung - Hội Đồng Hương Hải Phòng tại Đức.

39- Tô Quốc Phú - kỹ sư xây dựng tại Pháp.

40- Bác sĩ Việt kiều Bùi Kim Hải - bác sĩ gia đình tại Bỉ.

41- TS. Nguyễn Kiểm Thân, du học tại Thụy Sĩ về ngành quản trị kinh doanh tại Đại học Lausanne, có vợ và 2 người con trai cùng về Việt Nam. Một người tên Nguyễn Thân Hiệp, đang làm cố vấn thuế cho hãng kế toán PricewaterhouseCoopers. Một người tên Nguyễn Thân Hảo, làm thiện nguyện ở Hội An cho Làng Toàn Cầu do bà Le Ly Hayslip sáng lập.

42- Hoàng Văn Khẩn - Việt kiều Thụy Sĩ.

43- Bùi Văn Hòa - Việt kiều Nga, Chủ tịch Tập đoàn Mekong Group.

44- Anh Rossi Edouard - thành viên Hội Thân hữu Ai Lao tại Pháp.

45- Souab Djamilam (tên Việt Nam là Xinh - mẹ Việt, bố Algeria), Việt kiều ở Algeria, Giám đốc Petro Việt Nam tại Algeria.

46- Mihoubi Yamina, Việt kiều Algeria.

47- Mathilde, người Pháp và vợ là văn sĩ Tuyết Trần.

48- Người trẻ nhất trong số Việt kiều từ Pháp về dự hội nghị là Nguyễn Mạnh Phát Thomas (30 tuổi) - thạc sĩ công nghệ thông tin tại Pháp. Sau khi tốt nghiệp, trở về SàiGòn làm việc cho IBM VN trên cương vị Giám đốc chương trình, giám sát các dự án phát triển của các công ty lớn của Pháp ở nước ngoài.

49- Kostas Sarantidis có tên Việt Nam là Nguyễn Văn Lập, người Hi Lạp (tự xưng mình là "ông Việt Minh người Hi Lạp"). Nguyên là lính lê dương đào ngũ theo Việt Minh - Cộng sản năm 1946, sau đó gia nhập quân đội cộng sản Việt Nam.

50- James H. Spencer, cha Mỹ mẹ Việt, hiện công tác tại khoa Qui hoạch đô thị, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu toàn cầu hoá thuộc Đại học Hawaii. Bố mẹ James hiện sống ở New York và nhà họ là một trong những nơi mà các quan chức trong Phái đoàn Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc thường lui tới.

52- Nguyễn Hữu Nhiệm, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Thủ đô Bratislava, Cộng hoà Slovakia.

53- Nguyễn Hạnh Phước, Việt kiều tại Mỹ.

54- Hoàng Đình Thắng, Việt kiều ở Cộng hòa Czech.

55- Nguyễn Thị Thật, Việt kiều ở Pháp.

56- Lê Văn Dinh, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại tỉnh Sakeo, huyện A Răn, Thái Lan.

57- Trần Thị Mùi, Phó Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Slovakia.

58- Vũ Thị Thư – Việt kiều ở Cộng hòa Czech.

59- Cao Văn San, Việt kiều Thái Lan.

60- Bùi Ái, Việt kiều Pháp.

61- Hoàng Văn Lộc, Phó Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Vương quốc Anh.

62- GS/TSKH Nguyễn Đăng Hưng, Việt kiều tại Bỉ.

63- Đinh Viết Tứ, Việt kiều Mỹ, sống tại California, và tham gia vào hai đài phát thanh tiếng Việt là đài “Tiếng quê hương” và “Việt Nam ngày nay” tại Mỹ, tuyên bố " Bưng Bô cho Việt Cộng". Đinh Viết Tứ là người đã thành lập đài Tiếng Vọng Quê Hương năm 1996, được khoảng 1 năm thì dẹp tiệm, sau đó chuyển sang cái gọi là chương trình phát thanh Việt Nam Quê Hương, sau đó nhập bọn với sư Việt cộng Thích Pháp Châu là người đã thành lập đài phát thanh Tiếng Quê Hương năm 2003, là tiền thân của nhóm V-LIFE chuyên sản xuất DVD dưới dạng tuần tin Anh-Việt, chuyên quảng cáo và tuyên truyền cho Việt Cộng.

64- Bác sĩ Nguyễn Tăng Tri, Việt kiều từ Canada.

65- Nguyễn Như Hà, chuyên ngành Luật tại Đại học Strasbourg, Pháp.

66- Lê Thị Anh Thư - Hội phó Hội Việt kiều Hàn Quốc.

67- Hồ Quang Đặng, Việt kiều Mỹ, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Dân trí School Equipment, chuyên cung cấp trang thiết bị cho trường học.

68- Đỗ Trọng Ngọc, Việt kiều Canada, họa sĩ, nhiếp ảnh gia, nhà báo; đã từng có 3 cuộc triển lãm tại Hà Nội, định cư 26 năm ở Vancouver, hiện làm tại báo Người Việt Hải Ngoại.

69- Nguyễn Quốc Cường, Trưởng ban hòa giải cộng đồng người Việt tại Ba Lan.

70- Lê Thanh Bình – Trưởng đại điện hội người Việt Nam tại Ba Lan.

71- TS. Lê Văn Mừng, Phó chủ tịch đầu tiên của hội người Việt Nam tại Ba Lan, nguyên Chủ tịch hội đồng hương Thái Bình.

72- Hồ Chí Hưng, Phó chủ tịch hội người Việt Nam – Ba Lan.

73- Bác sĩ Bùi Duy Tâm, Việt kiều ở San Francisco, Hoa kỳ.

74- Phùng Tuệ Châu, cựu Luật sư, cựu phóng viên của Việt Nam Thống Tấn Xã thời Việt Nam Cộng Hòa, làm việc cho Đài phát thanh Tiếng Quê Hương của Việt Cộng tại Mỹ. Tuyên bố tại Hà Nội: “Mục đích của Đài phát thanh Tiếng Quê Hương: Tuyên truyền cho Việt Cô5ng. Đài phát thanh Tiếng Quê Hương do sư Việt Cộng Thích Pháp Châu thành lập năm 2003. Tiếng Quê Hương là đài phát thanh Internet, có sự hợp tác của Luật sư Đinh Viết Tứ là người đã thành lập đài Tiếng Vọng Quê Hương năm 1996, được khoảng 1 năm thì dẹp tiệm, ông Tứ sau đó chuyển sang cái gọi là chương trình phát thanh Việt Nam Quê Hương, sau đó nhập bọn với Thích Pháp Châu. Nhóm V-LIFE chuyên phát hành DVD dưới dạng tuần tin bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh, là một dạng khác của đài phát thanh Tiếng Quê Hương. Xin đừng lầm lẫn với đài phát thanh Quê Hương chống Cộng.

75- Nghệ sĩ Alain Vũ, Việt kiều Pháp.

76- Phùng Kim Vy, thành viên của Hội Doanh nghiệp Việt kiều tại Canada và Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ Doanh nhân Việt kiều, đang đầu tư xây dựng khu nghỉ mát The Cliff ở Mũi Né, Bình Thuận.

77- Nguyễn Bá Thuần, Việt kiều Đan Mạch.

78- David Dương, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Mỹ-Việt tại San Jose, California.

79- Nguyễn Hoài Bắc, Việt kiều Canada.

80- Thích Hạnh Tấn, Việt kiều Ðức.

81- Thích Như Điển, Việt kiều Ðức.

82- GS Trần Thanh Vân, Việt kiều Pháp.

83- LS. Nguyễn Hữu Liêm, Việt kiều Mỹ, chủ tịch Hiệp Hội Doanh Nhân Việt Mỹ VAEA tại San Jose, California. Sau khi dự hội nghị về có đăng bài ca tụng chế độ cộng sản và hội nghị này, bài đăng trên Talawas ngày 27/11/2009

Danh sách này sẽ tiếp tục được cập nhật khi chúng tôi nhận được thêm tin tức và phối kiểm đầy đủ.

Tin Nóng.

Sao Nỡ Đành Quên

Sao Nỡ Đành Quên.

Khi con người còn ăn lông ở lổ, loài chó đã trở thành một trong những người bạn thiết thân. Ban đầu loài chó hoang chỉ mon men đến gần nơi trú ngụ của những đàn người, để ban ngày thì ăn mót những mẫu thịt thừa, xương cặn, tối đến thì được sưởi ấm từ những bếp than hồng mà con người dùng để giữ lửa, để ngăn thú dữ, và cũng để giữ ấm cho “ngôi nhà”,…. Dần dà các thế hệ chó mẹ đẻ chó con rồi hậu duệ của đàn chó hoang thuở nào trở nên quấn quýt với loài người khi được loài người cho ăn no ngủ ấm, để dáp lại ân nghĩa của con người.

Sự việc trên đã xảy ra non 3 thập kỷ rồi, bỗng nhiên mọi chi tiết lại hiện về mồn một trong ký ức khi gần đây từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 11 vừa qua một đại hội cái gọi là “hoành tráng” của 1000 người Việt(gian ) ở nước ngoài vừa diễn ra tại Hà nội, bởi cho dù quý đại biểu Việt kiều là người Nam hay người Bắc cũng đều đã phải bỏ nước ra đi vì một lý do rất chung bởi họ đều là nạn nhân của chế độ cộng sản. Nếu xuất thân từ đất Bắc hẳn họ biết quá rõ về những chiếc chày vồ trí mạng mà đảng và nhà nước cộng sản đã giáng lên đầu thân nhân và đồng bào của họ qua chính sách tiêu thổ kháng chiến khiến, rồi những vụ đấu tố trong cải cách ruông đất từ 1953 cho đến 1956 khiến hàng trăm ngàn nông dân miền Bắc phải thiệt mạng chỉ vì ông cha của họ đã lưu truyền cho gia đình họ hơn 5 sào ruộng. Chắc họ biết rõ hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc đã vì kinh hoàng với những tội ác của cộng sản mà phải rời bỏ bờ tre gốc lúa, quê hương bản quán ở đất Bắc để di cư vào nam vào năm 1954, và hơn 3 triệu đồng bào khác cũng đã bị đe dọa, bị ngăn chặn khi trên đường di cư, rồi phải ở lại đất Bắc để chịu đựng những năm tháng đọa đày nơi địa ngục trần gian ấy bởi họ đã trót mang tư tưởng di cư vào nam để “âm mưu chống lại Đảng”. Vâng, dẫu họ vẫn còn sống sót để có cơ hội trở thành “khúc ruột ngàn dặm”, nhưng chắc họ vẫn còn nhớ với chủ trương “giết lầm hơn bỏ sót” với khẩu hiệu “TRÍ PHÚ ĐỊA HÀO ĐÀO TẤT GỐC, TRỐC TẬN NGỌN” hàng ngàn sỹ phu Bắc Hà cùng các tiểu thương, các công chức ở đàng ngoài đã bị hành hình hoặc hạ phóng. Còn nếu những đại biểu Việt kiều là những người sinh ra và lớn lên từ bên nay bờ Bến Hải thì chắc họ vẫn chưa thể quên biến cố tết Mậu thân với hơn 7,000 đồng bào vô tội ở Huế bị thảm sát bằng hình thức đập đầu hoặc chôn sống! Chắc họ vẫn còn nhớ mùa hè đỏ lửa 1972 với hơn 15.000 đồng bào Quảng Trị đã bị đã bị đại pháo của cộng quân nghiền nát như thịt bằm trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” dài non 10 cây số! Dù cái gọi các đại biểu người Việt đến được bến bờ tự do bằng đường biển hay đường bộ thì chắc họ vẫn còn nhớ những ngày kinh hoàng đối mặt với bão tố phong ba hay hải tặc giữa đại dương, với nhiều thuyền nhân phải ăn thịt người chết để sống còn, với những thuyền nhân đã bị cướp, bị hãm hiếp, những thuyền nhân phải tự thiêu, phải treo cổ tự sát ngay sau khi bị Cao Ủy Tỵ Nạn từ chối tư cách tỵ nạn và cả với hơn 70 % những thuyền vượt biên không đến được bến bờ, để một số trở thành tù nhân trong các trại lao cải vì tội “phản quốc”, nữ tù vượt biên đã bị cán bộ quản giáo hãm hiếp, và nhiều, rất nhiều triệu thuyền nhân đã phải vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển lạnh!

“Chưa đi đảng gọi Việt gian
Đi rồi đảng lại chuyển sang Việt Kiều
Chưa đi, phản động trăm điều
Đi rồi, khúc ruột đáng yêu nghìn trùng”….

Từ sau cái gọi là đại hội người Việt(gian) định cư ở nước ngoài lần thư nhất đó, đã có nhiều bài báo viết về những “dự mưu” của đảng cộng sản Việt nam về việc tổ chức “Hội Nghị Việt Kiều Yêu Quái” này. Chắc đám thần dân cái gọi là của CHXHCN Việt Cộng, hàng ngày vẫn phải đọc, phải nghe những chủ trương, cái gọi là chính sách của đảng bằng sự tuyên truyền xảo trá về chiến lược “đối phó với âm mưu diễn biến hòa bình của đế quốc Mỹ là bè lũ người Việt lưu vong ở nước ngoài”, người viết chỉ qua bài này để bày tỏ nổi băn khoăn của mình rằng tội ác của cộng sản vẫn còn nguyên đó, sao nỡ đành quên ?

Nguyễn Phúc Bảo Ân

lørdag 28. november 2009

Rau Tía Tô – Vị Thuốc & Những Món Ăn Ngon

Rau Tía Tô – Vị Thuốc & Những Món Ăn Ngon.

Tía tô có tên khoa học là Perilla frutescens hay còn gọi là é tía, tử tô, xích tô (gọi là tử, xích tía vì cây có màu tím). Không chỉ là một loại rau thơm, tía tô còn được dân gian coi là thảo dược.
Tía tô là một trong số khoảng 8 loài cây thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae hay Labiatae). Tía tô vị cay, mùi thơm. Có 2 loại tía tô:
- Tía tô mép lá phẳng: màu tía nhạt, ít thơm.
- Tía tô mép lá quăn: màu tía sẫm, mùi thơm mạnh. Tía tô mép lá quăn có giá trị
sử dụng cao hơn.
Chữa bệnh từ tía tô
Với giá trị dinh dưỡng khá cao, giàu vitamin A, C, giàu hàm lượng Ca, Fe, và P, loại cây này không những có thể dùng để chế biến các món ăn ngon miệng mà có tính năng chữa bệnh khá cao. Từ thân lá, cành đến hạt của tía tô đều có thể sử dụng làm thuốc. Lá dùng làm gia vị rất phổ biến đồng thời là vị thuốc rất hay dùng để trừ cảm mạo. Hạt làm trà uống và thuốc hạ khí, cành làm thuốc an thai.
Các công dụng của tía tô thường được biết đến là: trị cảm lạnh, nôn mửa, cảm sốt, sốt rét, nhức đầu, lợi tiểu, ra mồ hôi, bụng trướng, táo bón, dị ứng, trúng độc, đau khớp xương...
Tía tô là vị thuốc được đông phương y dược xếp vào loại giải biểu (làm cho ra mồ hôi) thuốc nhóm phát tán phong hàn (nhóm do lạnh gây bệnh) cần chữa bằng cách cho ra mồ hôi, khỏi sốt.
Tía tô còn có các tên như é tía, tử tô, xích tô (gọi là tử, xích tía vì cây có màu tím). Không nhầm với tía tô tử là hạt của cây tử tô (thận trọng khi viết hai tên này là của 2 vị thuốc không hoàn toàn giống nhau đều cùng lấy từ một cây)
Tía tô có tính ấm, vị cay, vào 3 kinh phế - tâm - tỳ, không độc. Lá dùng làm gia vị rất phổ biến đồng thời là vị thuốc rất hay dùng để trừ cảm mạo. Hạt làm trà uống và thuốc hạ khí, cành làm thuốc an thai. Trường hợp không có thì dùng thay thế cho nhau cũng được.
Chữa cảm mạo: giải cảm lạnh
Xông: Lấy lá tía tô cùng các lá thơm khác tạo thành nồi lá xông và lau rửa. Nếu lá được rửa sạch kỹ thì có thể lấy ra một bát để uống trước hay sau khi xông. Xông xong lau khô mồ hôi cả người đắp chăn nằm nghỉ.
Nhớ nước sôi mới cho lá xông vào nồi - đậy vung kín và khi xông mở vung. Cần chú ý kẻo bỏng và chỉ xông cho người lớn ngồi vững trong chăn. Rất thận trọng với người già gầy yếu và trẻ em.
Cháo tía tô: Nấu cháo gạo tẻ cho ra bát, trộn lá tía tô non thái chỉ. Ăn nóng. Có thể thêm hành lá tươi thái nhỏ. Có cho trứng vào hay không hiện nay còn 2 ý kiến trái ngược nhau có và không. Xông xong nằm nghỉ một lúc dậy ăn bát cháo giải cảm này là phương pháp giải cảm lạnh dân gian rất có hiệu nghiệm.
Bài thuốc sắc uống
Hương tô tán: Chữa cảm mạo phong hàn, sốt, gai rét, đau đầu, tức ngực. Lá tía tô 8g, hương phụ 8g, trần bì 6g, cam thảo 4g. Gừng 2 lát, sắc nước uống. Có thể kết hợp "nồi xông".
Có thai bị cảm mạo: Tía tô, kinh giới, mỗi thứ 1 nắm lá cho 2 bát nước sắc còn 1 bát uống ấm. Tiếp đó cho ăn cháo nóng, đập vào bát 1 quả trứng gà tươi (có trứng gà đen càng tốt).
Cảm mạo: Lá tía tô 1 nắm, vỏ quýt khô lâu năm 1 cái, gừng 3 lát. Đun nước sôi rồi cho 3 thứ vào, đun lại cho sôi, uống nóng... Nếu khó uống cho ít đường phèn. Bài này thích hợp khi bệnh nhân có nôn mửa, đau bụng.
Chữa ho, hen, đàm suyễn tức ngực, khó thở
Tía tô bổ hư, giáng khí dùng cho trường hợp khó thở ở trẻ em, người già, người có thai vừa hiệu quả, vừa an toàn.
Do ngoại cảm phong hàn: Có viêm đường hô hấp dùng bài Tam tử dưỡng thân thang: tổ tử (hạt tía tô) 6-12g, la bạc tử (hạt cải củ) 8-12g, bạch giới tử 6-8g (hạt cải bẹ trắng). Sắc uống ngày 1 thang.
Thương hàn ho suyễn: 1 nắm lá tía tô nấu nước uống dần là dứt cơn suyễn (Thiên kim phương).
Người lớn tuổi hay thở suyễn, đuối hơi: Hạt tía tô 1 lạng, sao qua tán bột, đổ 2 bát nước vào quấy đều, lọc bỏ bã. Nấu cháo ăn lúc đói (Nam dược thần hiệu).
Trẻ em ho nhiều thở gấp, mặt tím tái: Hạt tía tô 20g tán thành bột, hòa với nước đun sôi để còn âm ấm, lọc bỏ bã cho uống. Cẩn thận hơn thì cho bột vào túi vải hãm vào nước sôi. Hoặc lấy bột này hòa vào cháo, hãm vào nước sôi hoặc hòa vào nước cơm cho trẻ uống.
Ho tuổi già (lão khái) ho nhiều đờm đặc , khó thở (viêm phế quản mãn tính). Nếu không phải do phong hàn và bệnh khác thì dùng thang "Tam tử phụng mẫu" gồm có tô tử, lai phục tử, xuyên bối mẫu mỗi vị 8g và bạch giới tử 2g. Sắc uống nóng.
Ho suyễn do phế hư hoặc đàm trắng đục dính, nặng ngực: Dùng phương "Tử tô tử tửu" (Y tiện): hạt tía tô 90g, rượu 1 lít. Hạt tía tô sao thơm, tán bột ngâm rượu gạo ngon trong 10 hôm chắt lấy nước trong bỏ bã. Uống mỗi lần 15-30ml. Ngày 3 lần sáng, trưa, tối (nếu ho đờm vàng, cổ khô, miệng khát, môi đỏ không dùng).
Hóa đàm giáng khí: Dùng cháo tô tử (Thiên gia thực liệu diệu phương): tô tử hạt 20g xay nhuyễn như hồ cho nước vào rồi ép lấy nước để nấu cháo, gạo tẻ 100g. Cháo được quấy với đường phèn để ăn. Không dùng cho người có tiêu chảy.
Rối loạn tiêu hóa
Ngộ độc thức ăn: Đau bụng đi ngoài, nôn mửa do ăn các loại thức ăn như cua, cá.
Lá tía tô đủ dùng, giã lấy nước cốt để uống: Nếu có ngứa nổi mẩn (dị ứng) thì lấy bã đã sắc hoặc lá tươi xoa sát. Hoặc tử tô giải độc thang: lá tía tô 10g, gừng tươi 8g, sinh cam thảo 2g. Nước 600ml sắc còn 200ml chia 2-3 lần trong ngày, uống nóng.
Lời khuyên: Ăn các loại thủy hải sản tanh lạnh đều nên kèm rau thơm gia vị lá tía tô tươi. Nhưng lưu ý có kinh nghiệm không ăn lá tía tô với cá chép vì có thể sinh nhọt.
Táo bón người già suy nhược: Hạt tía tô, hạt me lượng bằng nhau giã nhuyễn cho nước lắng lấy nước nấu chín. Hoặc hạt tía tô, hạt vừng đều 10g, giã nhuyễn cho nước lấy nước nấu cháo, bài này được dùng cả khi táo bón do ung thư ruột.
Những món ngon cùng rau tía tô:
Lá tía tô có thể dùng ăn sống hoặc nấu chín trong một số món ăn ngon miệng như: ốc móng tay xào tía tô, mực cuộn tía tô, chả tía tô… Xin giới thiệu cách làm 4 món ăn từ tía tô rất dễ làm:
1. Ốc móng tay xào tía tô:
Ốc móng tay ngâm nước, rửa sạch, tách lấy thịt, ướp với 1/2 muỗng cà phê bột nêm.
Lá tía tô rửa sạch, thái sợi nhỏ.
Thịt ba rọi đem luộc chín, thái thật nhỏ.
Bắc chảo lên bếp cho dầu vào phi thơm với tỏi băm. Tiếp theo cho nước me vào xào, 20sau đó cho ốc móng tay, thịt ba rọi vào rồi nêm đường, 1/2 muỗng cà phê bột nêm. Sau cùng cho tía tô vào đảo đều, tắt lửa.
2. Mực cuộn tía tô:
Làm sạch mực, thái nhỏ, quết với bột nêm, tiêu.
Đậu Hòa Lan hạt trụng chín, cà rốt trụng và thái hạt lựu, vớt ra để ráo, trộn với mực. Trộn bột chiên giòn với trứng gà.
Rửa sạch lá tía tô, để ráo, cho mực lên, cuộn lại, nhúng vào bột chiên giòn, lăn qua bột chiên xù rồi thả vào chảo dầu nóng, chiên vàng. Món mực cuốn d ùng kèm với tương ớt.
3. Chả tía tô:
Tía tô rửa sạch, để ráo. Thịt nạc dăm băm nhuyễn trộn với hành tỏi, chút bột nêm. Cho thịt nạc dăm vào lá tía tô cuộn lại, đem chiên vàng. Có thể dùng với bún và cơm đều được.
4. Gỏi thịt bò rau tía tô:
- 1 củ hành tây và cà rốt thái chỉ ngâm dấm đường chua ngọt.
- Thịt bò ướp tỏi gừng gia vị lửa to cho vào xào chín nhanh.
- Rau tía to thái khúc to, thịt bò nguội bớt (vì nóng quá cho vào nó làm chín rau)
- Cho tất cả trộn đều với nhau thêm đường hay chua cho vừa ý rồi rắc lạc rang đập dập lên trên. Lá tía tô to cuốn các thứ ăn hoặc ăn với bánh đa nướng xúc hay bánh phồng tôm.

Trương Lê.

Chỉ Quanh Quẩn Với Nhau

Cái gọi là Đại Hội Việt Kiều tại Hà Nội đã kết thúc, tuy nhiên những tin tức chuyển ra thì rất im lìm lạnh lẽo không dồn dập như lúc ban đầu. Nghe nói phí tổn cho các đại biểu hải ngoại về Việt Nam là do CSVN đài thọ, như thế thì chi phí tổ chức cho Đại Hội rất lớn và dĩ nhiên hy vọng đạt được từ Đại Hội của đảng CSVN cũng rất cao. Cao như thế nào thì không biết nhưng có thể thấy ngay là Đại Hội đã thất bại.

Thất bại là vì mấy lý do:
Thứ nhất hầu hết người về dự đại hội phải là người do đảng cử đảng chọn, tức là nếu không có liên hệ với đảng thì cũng phải được do đảng chấm hay đảng muốn chiêu dụ, và như vậy thì đại hội của đảng VC không còn ý nghĩa kết hợp mọi chính kiến mà do đảng nắm chặt.

Thứ hai, trong khi đó người Việt hải ngoại đại đa số vẫn nghi ngờ và không ủng hộ chế độ độc tài trong nước cho nên đã chọn thái độ bất hợp tác với những kêu gọi tham dự đại hội của đảng. Vì thế cho nên chẳng tạo được bao nhiêu chú ý dầu rằng có vài lên tiếng của những cò mồi hay vài cây viết chính trị sa lông tỏ vẻ lo ngại về sự quan trọng giả tưởng của đại hội.

Thứ ba những sai trái của chế độ cứ ngày càng chồng chất ngoài bản chất độc tài. Tham nhũng tràn lan trở thành quy luật sinh hoạt xã hội, từ trên xuống dưới. Cắt đất dâng biển Việt Nam cho Trung Quốc, và khấu đầu luồn cúi nhà nước Tầu, im lặng cho hải quân Tầu hà hiếp, trấn áp ngư dân Việt nam. Trên rừng thì cho Tầu mang người vào khai thác Bauxite Tây Nguyên bất kể những thiệt hại môi trường và an ninh quốc gia. Dưới đồng bằng thì dân Tầu ra vào Việt Nam không cần chiếu khán, tự do quần tụ thành khu, thành xóm riêng, làm ăn buôn bán. Hàng hoá Trung Cộng thì tràn ngập thị trường tại Việt Nan, được sửa sạch xuất xứ để cạnh tranh bất chính với hàng ngoại quốc khác, mặc cho hàng nội hoá bị giết chết vân vân. Cho nên người hải ngoại không mấy ai muốn dính líu với chế độ xấu xa này, trừ mấy kẻ buôn bán và mấy tay chính trị thời cơ.

Thứ tư, sự kiện một đại hội Việt kiều mà không tổ chức được ngay tại hải ngoại đã là một thất bại to lớn, rút từ kinh nghiệm năm ngoái, thử thăm dò tổ chức cái gọi là đại hội của các cựu học sinh Jean Jacques Rousseau tại Paris. Quảng cáo tung ra con số hai ngàn người, mà rút cuộc hỏi các cựu học sinh Rousseau thật sự không mấy ai biết. Và cái đại hội này qua đi trong âm thầm lặng lẽ.

Nói chung trong tháng 11 năm 2009, Việt Cộng đã ra sức thổi phồng hai màn trình diễn, một tại hải ngoại, một ở trong nước. Hải ngoại thì có tổ chức Meet Việt Nam (Gặp gỡ VN) tại San Francisco, Hoa Kỳ, nhằm quảng cáo đầu tư và hợp tác tại Việt Nam. Trong nước thì có Đại hội Việt kiều Kỳ Một với mong mỏi thu hút được một số nhân vật có chút tên tuổi nào đó để tuyên truyền với trong nước rằng là nhà nước ta đã có ảnh hưởng lên cộng đồng hải ngoại. Nhưng cả hai tổ chức này đều đã thất bại.
Vụ San Francisco thì gặp biểu tình chống đối đông đảo. Phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng mong vớt vát bằng cách cùng tùy tùng đến nhà bác sĩ Bùi Duy Tâm để lấy hình ảnh đi với bài tuyên truyền. Nhưng khổ thay hình ảnh đăng lên chỉ thấy có một ông bác sĩ mặt thịt khăn đóng áo dài đứng xoa tay cung kính với 5 người trong phái đoàn. Ngoài ra thì thêm dăm ba mặt Mỹ bạn bè, ngồi chen chúc trong một phòng khách gia đình. Ngược lại, trên mạng internet thì lại tràn ngập những lời phê phán khinh miệt của giới bác sĩ Việt Nam hải ngoại và quần chúng dành cho bác sĩ mà Trương Vĩnh Trọng khen là có những đóng góp được đảng và nhà nước đánh giá cao. Ở trong nước thì tin tức về hội nghị Việt kiểu đáng kể nhất chỉ là sự tham dự của Nguyễn Minh Triết mà người ta hiểu rằng nó biểu lộ sự mong mỏi của CSVN cho đại hội được chú ý.

Quanh đi quẩn lại dù có quyền và có tiền do biến thái thành tài phiệt với sự giúp đỡ của các tư bản ngoại quốc, giới lãnh đạo CS hiện nay quanh quẩn lại chỉ có nhau, và líu ríu theo sau là những kẻ thời cơ trục lợi, trí thức cũng như thương nhân và chính trị sa lông. Những kẻ này, nói chung vẫn còn có một chút xấu hổ, nghĩa là thường thì dấu mặt ngậm miệng. Trừ vài kẻ mặt trơ trán bóng như Nguyễn cao Kỳ, Phạm Duy hay Bùi duy Tâm, mới ca tụng không biết đỏ mặt những hạng thủ lãnh Việt Cộng đã tàn hại đất nước cho tới tận nay. Có thể rằng vài bữa nữa khi bộ máy tuyên truyền đã có thì giờ sào nấu chau chuốt xong những bản tường thuật đại hội Việt Kiều, may ra thì sẽ thêm vài tên tuổi để cho những kẻ như Kỳ, Duy, Tâm bớt cảm thấy lẻ loi.

Tuệ Vân.

Ðây là danh sách Việt kiều (VC nằm vùng hãi ngoại) được lũ thú cầm quyền Hà Nội phổ biến để vinh danh.
Người đứng đầu và điều khiển danh sách này là:
. TháiThanh-Giản

Ðặc công Tuyên vận VC:
• Bs. Kiều Quang Chấn-Cali
• Bs. Nguyễn Ngọc Hương-Springvale
• Bs. Nguyễn Thị Thu Cúc-Richmond
• Bs. Trần Thanh Nhơn-Melbourne
• Bs.Hồng Anh Dũng-Belgium
• Bs.Quỳnh Kiều-Cali
• Cao Huy Thuần-Pháp
• Cao Lương Thiện-Si
• Cựu Nghị Nguyễn Sang-Melbourne
• Gs. Tâm Ðàn-Úc
• Gs. Võ Kim Sơn-Bolsa
• Gs.Tạ Văn Tài-USA
• Hồng Nguyên Nhuận-Sydney
• Huỳnh Tấn Lê-Cali-HHHG
• Hà Dương Tường-Pháp
• Họa sĩ Dương Văn Thành- Thụy Ðiển
• Hồ Lê Khoa, Chồng Bs.Cúc-Clayton
• Hồ Tú Bảo-Nhật
• Hồ Văn Xuân Nhi Jr.-Cali
• Hồng Quang-USA (Giao Ðiểm)
• Ks. Ðỗ Anh Thư-San José -USA
• Lm. Nguyễn Ðình Thi-Pháp
• Ls. Nguyễn Hữu Liêm-USA
• Lê Văn Chiêu-Cali
• Lê Văn Hướng-Sj
• Lương Cần Liêm-Pháp
• Nguyễn Cao Kỳ-USA
• Nguyễn Mỹ Lý-Úc
• Nguyễn Văn Hiếu-Melbourne
• Nguyễn Xuân Hồng-Cali
• Nguyễn Xuân Thu- Melbourne
• Phan Mạnh Lương-USA
• Phan Văn Giưỡng-St Albans
• Phạm Trọng Luật-Pháp
• Phạm Văn Minh-Sydney
• Thích Giác Nhiên-Houston
• Thích Hạnh Tấn-Ðức
• Thích Mãn Giác-USA
• Thích Nguyên Hạnh-USA
• Thích Phước Huệ-Sydney
• Thích Phước Tấn-Melbourne
• Trung Dung-V.Home Group-USA
• Trần Bình Nam-Úc
• Trần Hữu Dũng-Ohio
• Trần Văn Thọ-Nhật
• Ts. Huỳnh Hữu Tuệ-Canada
• Ts. Lâm Như Tạng-Sydney
• Ts. Lê Dũng Tráng-Pháp
• Ts. Lê Quang Bình-USA
• Ts. Lê Văn Tâm-Ðức
• Ts. Nguyễn Văn Chuyển-Nhật
• Ts. Phạm Gia Thu-Canada
• Ts. Thái Kim Lan-Germany
• Ts. Trương Nguyễn Trân-Pháp
• Ts. Trần Minh Tâm-Thụy Sĩ
• Ts. Trần Tiễn Khanh-USA
• Ts. Ðỗ Hữu Tâm-Irvine
• Vĩnh Hảo-Houston
• Vũ Quang Việt-LHQ
• Vũ Ðức Vượng-San Jose
• Ðồn Thị Thanh Tâm-Úc
• Ðặng Văn Hiền-Sydney
• Bùi Văn Sơn-Norway

Vết Thương Ðã Hằn Sâu

Vết Thương Ðã Hằn Sâu.

Cái điều tệ hại nhất ở nước ta từ ngày bọn cộng sản nắm quyền 60 năm nay, đó là sự dối trá lươn lẹo, lừa gạt khắp nơi khắp chốn. Từ trung ương chóp bu ở thủ đô Hà Nội, cho tới tại địa phương thôn xóm miền quê, đâu đâu cũng thấy người ta lừa dối, thủ thế, dùng đủ mọi đòn phép thủ đọan mà đối xử với nhau. Điển hình nhất là chính Hồ Chí Minh đã có lần nói với cán bộ ngành công an rằng: “ Nói dối mà có lợi cho chúng ta, thì không phải là nói dối”! Cụ thể là báo Nhân dân là cơ quan nói dối, bịp bợm nhiều nhất. Nói dối mỗi ngày, nói dối quanh năm.
Vào năm 1946 - 47, vì biết người dân không ưa chủ trương chuyên chính vô sản, nên Hồ Chí Minh đã lừa dối, giả vờ giải tán đảng cộng sản. Rồi tuyên bố ” Tôi không có một cái đảng nào khác, ngòai cái đảng Việt nam”. Nhưng đến năm 1954, khi trở về lại thủ đô Hà Nội được rồi, thì ông lại tuyên bố :”Đảng của ta là đảng cầm quyền”. Rõ rệt là từ cáo Hồ trở xuống, bất cứ người cộng sản nào thì cũng ngang nhiên làm mọi điều gì miễn là có lợi cho uy quyền, cho thế lực của đảng, mà không bao giờ phải áy náy trong lương tâm về tính cách thất nhân, thất đức của các hành động đó. Và cứ như vậy, lâu ngày sự dối trá lừa bịp đã trở thành một nếp sống tự nhiên, là chuyện bình thường của xã hội.

Đã đến lúc nhân dân phải được biết rõ về cái mặt trái của chuyện “huyền thoại lãnh tụ”, vốn được bộ máy tuyên truyền khổng lồ của đảng cộng sản tô vẽ thêu dệt lên, đến độ thần thánh hóa, nhằm bịp bợm bao nhiêu thế hệ người dân Việt nam chúng ta. Thế hệ lớp người trẻ ngày nay có thừa khả năng để tìm cho ra sự thật đàng sau những dối trá, bịp bợm nham hiểm đê tiện như thế. Các em phải cùng nhau ra tay vào công việc “giải trừ cái bệnh sùng bái lãnh tụ có tác dụng ngu dân, lạc hậu đã quá lâu như vậy”.
Bây giờ đảng cộng sản bắt cả nước phải học tập tư tưởng và tác phong một con người hèn hạ, dối trá đốn mạt đến như vậy, thì thử hỏi luân lý đạo đức truyền thống của dân tộc chúng ta để ở đâu cả rồi ? Và còn cái “Lăng Hồ chí Minh” hiện vẫn còn nằm chình ình ở giữa thành phố Hà Nội, thì mỗi năm chi phí hết bao nhiêu là tiền bạc của nhân dân? Thật là một sự lãng phí vô lối về tài sản quốc gia, nhất định là không thể nào kéo dài mãi mãi được nữa.

Đã có nhiều sách báo và cả hình ảnh mô tả rất chi tiết về cái sự dã man độc ác, bất nhân và vô luân của chính sách tàn bạo này rồi. Nên ở đây chỉ xin ghi lại cái hậu quả tai hại khủng khiếp của chiến dịch này trong nếp sống của xã hội nông thôn miền Bắc mà thôi. Điều tệ hại nhất là chiến dịch này đã bày đặt, ép buộc người dân công khai tố cáo, mạt sát lẫn nhau, đến nỗi chính người vợ tố cáo chồng, con tố cáo cha mẹ, anh chị em ruột tố cáo lẫn nhau. Mà toàn là thứ “tố điêu”, do cán bộ trong đội cải cách xui xiểm, thúc giục và ép buộc người này nêu ra những điều bệ rạc, sai trái “được cán bộ bày đặt sẵn” nhằm triệt hạ một số đối tượng do đội cải cách đã lựa chọn trước tại mỗi nơi thôn xóm, để quy họ vào “ thành phần giai cấp địa chủ ”.
Rồi vào giai đoạn “sửa sai”, thì lại có vụ “trả thù” do gia đình các nạn nhân tìm cách “ăn thua đủ” với loại người đã vu oan giá họa cho các thân nhân của họ. Điều này càng làm cho nếp sống ở nông thôn thêm ngột ngạt căng thẳng,gay cấn. Rút cục lại là chiến dịch phát động cải cách ruộng đất, và tiếp theo là chánh sách cưỡng bức “tập thể hóa nông nghiệp”, đã phá tan nếp sống an bình, thuận thảo giữa các gia đình, dòng họ ở nông thôn, mà cho đến nay, dù đã trên nửa thế kỷ trôi qua, nhân dân tại miền Bắc nước ta vẫn chưa làm sao mà phục hồi lại sinh lực và hàn gắn được cái sự đổ vỡ trầm trọng nơi xã hội nông thôn ngàn xưa của dân tộc chúng ta được.
Nói vắn tắt lại, cái hậu quả lâu dài của tệ nạn cải cách ruộng đất và tập thể hóa nông nghiệp là đã phá nát tan hoang cái truyền thống hài hòa yên ấm do cha ông ta đã nhiều thế hệ mới xây dựng lên được.

Trong cơn say mê điên loạn của chủ trương “cách mạng triệt để” bằng các thủ đoạn sắt máu và thâm độc, đảng cộng sản đã du nhập chánh sách “tiêu diệt tôn giáo” từ Liên Xô, Trung quốc, phá hoại không biết bao nhiêu cơ sở thờ phượng của các tôn giáo như đình, chùa, miếu đền cũng như các nhà thờ. Không những vậy, mà họ còn khống chế lũng đoạn giới tu sĩ, gây phân hóa chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo tinh thần. Sự truyền bá lý thuyết duy vật cực đoan, quá khích còn làm cho lớp người nhẹ dạ mất hết quan niệm về giá trị cao đẹp của luân lý đạo đức, của tôn giáo, khiến cho họ chẳng còn biết sợ hãi bị lương tâm dày vò cắn rứt, mỗi khi làm điều chi xằng bậy sai quấy, mà chỉ còn biết coi trọng “ giá trị vật chất là trên hết!”
Hậu quả là sinh hoạt tôn giáo đã bị bóp nghẹt, không sao phát triển nơi quần chúng nhân dân, nhất là nơi các thế hệ trẻ. Từ đó, người dân lần hồi mất hết ý niệm về lý tưởng đạo đức, về tinh thần khoan dung nhân ái của bậc trượng phu quân tử, xem nhẹ tấm lòng từ bi bác ái mà từ xa xưa vốn là rường cột trong hệ thống giá trị tinh thần của nền văn hóa dân tộc. Rõ ràng là xã hội đã bị băng hoại đến cực độ về phương diện nhân nghĩa luân lý.
Sự phá sản, xuống cấp về đạo đức lễ nghĩa như vậy còn tác hại sâu xa nặng nề đến truyền thống đạo hạnh của các gia đình và dòng tộc, vốn là cơ sở nền tảng để nuôi dưỡng và hun đúc tinh thần yêu nước, thương nòi cho các thế hệ con cháu của quảng đại quần chúng nhân dân.
Nói tóm lại, đây là sự tàn phá nguy hại nhất cho cơ sở đạo đức tâm linh, mà vốn là căn bản của nền văn hóa dân tộc. Sự tàn phá này sâu rộng đến nỗi dân tộc chúng ta sẽ phải mất nhiều thế hệ sau nữa mới có thể phục hồi gây dựng lại xã hội tại quê nhà như thuở xưa được. Đây chính là cái vết thương trầm trọng, thâm độc nhất và nguy hiểm nhất, mà người cộng sản đã mú quáng và nhẫn tâm gây ra, khiến làm tê liệt sâu thẳm trong tận đáy tâm hồn của tập thể dân tộc chúng ta.

Đứng trước tình trạng đổ vỡ nặng nề như vậy của quê hương đất nước do đảng cộng sản gây ra từ trên 60 năm nay, chúng ta phải làm gì để góp phần phục hồi và tái thiết lại xứ sở? Đó là cái vấn nạn lớn lao đặt ra trước hết cho tầng lớp sĩ phu trí thức ưu tú, cho giới lãnh đạo tinh thần trong các tôn giáo, rôi đến giới chuyên gia trong các ngành nghề chuyên môn. Tất cả quý vị là “vốn quý của đất nước”, là “nguyên khí của quốc gia”. Quý vị không thể nào mà cứ khoanh tay bất động, và lẩn tránh mãi cái trách nhiệm nặng nề của mình đối với quê hương xứ sở được.

Chúng tôi chỉ biết trình bày trung thực và chính xác về tình trạng nguy ngập như vậy, và lên tiếng báo động với toàn thể bà con về chuyện này. Mà không hề dám có tham vọng đưa ra một giải pháp lớn lao cụ thể nào cho vấn đề trọng đại này của toàn thể quốc gia. Chúng tôi chỉ biết kêu gọi đến tinh thần dấn thân nhập cuộc của tất cả mọi con dân ưu tú người Việt nam hiện đang ở trong cũng như ở ngoài nước, đặc biệt là giới lãnh đạo tinh thần và tầng lớp sĩ phu quân tử, để cùng nhau “nối vòng tay lớn” nhằm cứu nguy đất nước khỏi cơn khủng hoảng trầm luân này.

Đoàn Thanh Liêm.

Trò Chơi Thằng Cuội

Trò Chơi Thằng Cuội.

Nhân Quyền,Dân Chủ nói ngoài môi
Quyền lợi hỗ tương mới tuyệt vời
Ai chết mặc ai ,tiền bỏ túi
Đấu tranh lương tháng thắng lương tâm !

Mở mắt ra xem chớ lạc lầm
Trò chơi thằng Cuội cõi cung Trăng
Mãi đem bánh vẽ ra rao bán ?
Mơ mộng vầng Trăng có chị Hằng !!!

Chán thay "Chính trị" quá suy đồi
Tráo trở lừa Thầy hại bạn thôi
"Cách mạng" thảy toàn trò võ miệng
Ngàn năm tiếng xấu lũ tanh hôi.

Đất nước đến thời kỳ mạt vận
Anh hùng đành chịu cảnh đơn côi
Mài gươm phát nguyện chờ Thiên định
Toàn diện toàn dân cứu lại đời.

Trần Bửu Hạnh

Từ Trèo Tường Ðến Vượt Biển

Từ Trèo Tường Ðến Vượt Biển.

Trèo tường và vượt biển là những quyết định một sống, một chết của người sống dưới chế độ CS, tự đặt đời mình lên chiếu bạc: để hoặc được sống tự do, hoặc chết, chứ không chấp nhận cuộc sống không ra sống. Cho tới nay, đã có gần 1400 người chết khi vượt tường Bá linh và 75,000 người ngồi tù vì âm mưu trèo tường bị phát giác trước khi thực hiện. Về vượt biển, thì đã có gần 1 triệu người bỏ mình trên biển Đông, hoặc bị hải tặc sát hại. Thế mới biết hai chữ “tự do” thực là đắt gíá và chế độ CS bị ghê tởm từ đông sang tây.
Tại Đức, .sau khi bị chia làm đôi, Đông Đức do Nga kiểm soát và Tây Đức do Anh, Pháp, Mỹ chịu trách nhiệm thì đã có khỏang 3.5 triệu người chạy từ Đông qua Tây để tìm tự do. Ngày 8/12/61, Đông Đức đóng cửa biên giới và cho xây bức tường Ô Nhục giữa Đông và Tây Bá Linh để ngăn cản làn sóng tỵ nạn. Bức tường ô nhục với đầy đủ các cạm bẫy giết người này là tác phẩm của Tổng Bí Thư Liên Xô, Kruschev và Đệ Nhất Tổng Bí Thư Đông Đức, Ulbright. Nhưng bức tường này không ngăn cản được những người dân Đông Đức tìm tự do.
Người ta còn nhớ sau khi kiểm soát Đông Đức, chính quyền Liên Sô đã liên tục thanh trừng nội bộ, bắt bớ và giam cầm những người bất đồng chính kiến, theo dõi kiểm soát dân chúng nghiêm ngặt. Trong khi đó mức sống ngày càng khó khăn, thực phẩm đắt và khan hiếm.. Hơn 1 triệu người Đông Đức đã xuống đường biểu tình. Chính quyền Đông Đức sợ hãi phải vào ẩn trú ở Tổng hành dinh của Hồng quân Liên Sô. Cuộc chống đối đầu tiên này đã bị xe tăng Liên Sô đàn áp thẳng tay, ghì chăt dân Đông Đức dưới xích sắt. .
Tháng 3/1989, Thủ Tướng Hungary, nhận được tín hiệu của Gorbachev, đã gỡ bỏ hàng rào kẽm dọc theo biên giới. Lập tức 60,000 người đông Đức ào ạt chạy sang Tây Đức. Chính quyền Đông Đức không kiểm soát được nữa. Ngày 9/11/89 bức tường Bá Linh hoàn toàn sụp đổ. Người ta nhảy múa, ca hát quanh bức tường. Rồi với bất cứ vật gì có trong tay, người ta đập phá bức tường , và ăn mừng với những lát bánh mì nướng. Ngay cã những người lính Đông Đức cũng tiếp tay phá hủy bức tường này. Ngay trong tháng đầu đã có 2 triệu người Đông Đức tràn qua Tây Đức. Bức tường Bá Linh sụp đổ là cánh cổng mở ra cho nền dân chủ.không phải riêng nước Đức, mà còn của các quốc gia Âu châu khác như Slovakia, Hungary, Balan, Latvia, Slovenia, và Estonia.

Nhiều người thắc mắc đâu là nguyên do chính của sự sụp đổ bức tường Bá Linh ? Để kỷ niệm 20 năm của ngày thống nhất nước Đức, tháng 11/2009, vợ chồng ký gỉa Katrina Vanden Heuvel và Stephen F. Cohen, biên tập viên tờ “The Nation” đã làm một cuộc phỏng vấn ông Mikhail Gorbachev, vị tổng thống Liên Xô vào thời điểm đó.
Khi được hỏi: “Bức tường Bá Linh được phá đồ và chấm dứt chiến tranh lạnh là do cuộc cách mạng dân chủ ở Đông Âu hay là do sức mạnh của Hoa Kỳ ? Hoặc do cả hai ?”
Tổng Thống Gorbachev đã trả lời:” Đây là kết quả công cuộc cải tổ ở Liên Xô, khi quá trình chuyển hóa theo đường hướng dân chủ đã đạt đến đỉnh vào tháng 3/1989, tức là thời điểm khi lần đầu tiên trong lịch sử Nga đã diễn ra cuộc bầu cử dân chủ và có tính chất cạnh tranh. Đó là cuộc bầu cử Quốc Hội mới ở Liên Sô. Kết quả là 35 bí thư đảng uỷ khu vực đã thất cử. Xin nói thêm là 84% đại biểu được bầu là đảng viên, tuy nhiên nhiều đảng viên chỉ là người dân thường làm công nhân hoặc lao động trí óc. Đây là cuộc bầu cử cực kỳ quan trọng. Có nghĩa là phong trào đã đi theo hướng dân chủ, công khai, và đa nguyên. Những quá trình tương tự cũng xảy ra ở Trung và Đông Âu…”
Khi được hỏi: “.Sau cuộc bầu cử ở Liên Sô vào tháng 3/1989, việc bức tường Bá Linh sụp đổ là không thể tránh khỏi ?”

TT Gorbachev trả lời: ” Đúng như vậy.”
Như vậy, bức tường Bá Linh sụp đổ cũng là do nhiều yếu tố đúc kết lại. Sự cải tổ của Liên Sô theo đường hướng dân chủ là một điểm mấu chốt. Sức mạnh của nhân dân Đức và sự ủng hộ của Hoa Kỳ cũng không kém phần quan trọng.

Xoay qua cục diện VN, dân VN khao khát tự do không kém gì người Đức. Bức tường Bá Linh sụp đổ đem laị niềm hy vọng cho dân VN, nhưng 20 năm qua rồi ! chế độ vô nhân vẫn tồn tại, và tồi tệ hơn bao giờ hết, còn thêm tội buôn dân, bán nước. Nó như thế vì có sự tiếp tay của các thế lực tài phiệt nhằm khai thác tài nguyên nhân lực VN trong khung cảnh kinh tế toàn cầu.

Người VN, gồm 3 triệu người hải ngoại và 80 triệu người dân trong nước vẫn hằng khao khát một bầu trời tự do, một làn gió dân chủ cho quê hương VN. Chúng ta không thể hy vọng gì nhiều của thế giới. Chúng ta chỉ có thể tin cậy vào chính bàn tay và khối óc của chúng ta. Ông Dieter Von Wichmann, một trong số 75,000 người ngồi tù ở Đông Đức vì tội âm mưu trèo tường đã có lời nhắn gửi cho những ai còn đang sống dưới ách CS: “Hãy hiểu giá trị của Dân Chủ, bảo vệ nó, và đừng để ai cướp nó đi. Cũng đừng chịu thua một chế độ nào, mà phải can đảm đòi hỏi quyền của mình. Nếu không sẽ không bao giờ có thay đổi.”

Triệu Vũ

Mùa Lễ Tạ Ơn

Mùa Lễ Tạ Ơn.
Happy Thanksgiving.

Thế là một mùa Lễ Tạ Ơn nữa lại đến. Thông thường thì ở Mỹ, Lễ Tạ Ơn là một dịp để gia đình họp mặt. Mọi người đều mua một tấm thiệp, hay một món quà nào đó, đem tặng cho người mình thích, mình thương, hay mình từng chịu ơn.. Theo phong tục bao đời nay, thì trong buổi họp mặt gia đình vào dịp lễ này, món ăn chính luôn là món gà tây (turkey). Từ mấy tuần trước ngày Lễ TẠ ƠN, hầu như chợ nào cũng bày bán đầy những con gà tây, gà ta, còn sống có, thịt làm sẵn cũng có... Cứ mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, có cả trăm triệu con gà bị giết chết, làm thịt cho mọi người ăn nhậu. Người Việt mình thì hay chê thịt gà tây ăn lạt lẽo, nên thường làm món gà ta, gà đi bộ.

Nếu nói về hai chữ "TẠ ƠN" với những người mà ta từng chịu ơn, thì có lẽ cái list của chúng ta sẽ dài lắm, bởi vì không một ai tồn tại trên cõi đời này mà không từng mang ơn một hay nhiều người khác. Chúng ta được sinh ra làm người, đã là một ơn sủng của Thượng Đế. Cám ơn quê hương Việt Nam, với 2 mùa mưa nắng, với những người dân bần cùng chịu khó. Quê hương nơi đã đón nhận chúng ta từ lúc sinh ra, để lại trong tim biết bao nhiêu là kỷ niệm cả một thời thơ ấu. Quê hương là nỗi nhớ, niềm thương của chúng ta, ngày lại ngày qua ở xứ lạ quê người... Cám ơn Mẹ, đã sinh ra con và nuôi dưỡng con cho đến ngày trưởng thành. Cám ơn Mẹ, về những tháng ngày nhọc nhằn đã làm lưng Mẹ còng xuống, vai Mẹ oằn đi, về những nỗi buồn lo mà Mẹ đã từng âm thầm chịu đựng suốt gần nửa thế kỷ qua. Cám ơn Ba, đã nuôi nấng, dạy dỗ con nên người. Cám ơn Ba, về những năm tháng cực nhọc, những chuỗi ngày dài đằng đẵng chạy lo cho con từng miếng cơm manh áo, về những giọt mồ hôi nhễ nhại trên lưng áo Ba, để kiếm từng đồng tiền nuôi con ăn học.... Cám ơn các Thầy Cô, đã dạy dỗ con nên người, đã truyền cho con biết bao kiến thức để con trở thành một người hữu dụng cho đất nước, xã hội.

"Trăm năm trước thì ta chưa gặp,
Trăm năm sau biết gặp lại không?
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau..."
Và cứ thế mỗi năm, khi mùa Lễ Tạ Ơn đến, chúng ta lại đi mua những tấm thiệp, hay một chút quà để tặng Mẹ, tặng Chị, tặng những người thân thương, và những người đã từng giúp đỡ. Cuộc sống này, đôi lúc chúng ta cũng cần nên biểu lộ tình thương yêu của mình, bằng một hành động gì đó cụ thể, dù chỉ là một lời nói "Con thương Mẹ", hay một tấm thiệp, một cành hồng. Tình thương, là phải được cho đi, và phải được đón nhận, bởi lỡ mai này, những người thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không ?

Hoàng Thanh.
Mùa Thanksgiving 2009.

lørdag 21. november 2009

Vận Mệnh ( Chuyện Vui )

Vận Mệnh.

Có một gã đàn ông kia chán ngấy việc mình phải đi làm mỗi ngày trong khi vợ thì cứ ở nhà. Anh ta muốn vợ thấy những việc anh phải cáng đáng ở sở nên cầu nguyện như sau:
“Lạy Chúa, con phải đi làm mỗi ngày và phải cực nhọc suốt 8 tiếng đồng hồ ở sở làm, trong khi vợ con thì tà tà ở nhà.
Con muốn vợ con biết những gì con phải trải qua, xin Chúa tráo đổi thân hình nàng và con chỉ một ngày thôi. Amen”.

Trong sự khôn ngoan vô hạn của Ngài, Đức Chúa Trời bèn chấp thuận và hoàn thành điều ước của gã đàn ông.

Ngay sáng hôm sau, gã thức dậy trong cơ thể người đàn bà.

Gã ra khỏi giường, làm bữa ăn sáng cho người “chồng” của mình, đánh thức các con, mặc đồ đi học cho chúng, cho chúng ăn sáng, sửa soạn đồ ăn trưa mang theo, chở chúng tới nhà trường, chạy về nhà lấy quần áo đem đi tiệm giặt sấy và ghé nhà băng gửi tiền, đi chợ mua thức ăn, đoạn về nhà quăng thức ăn vào tủ lạnh, ngồi trả bills và tính toán
tiền bạc trong trương mục.

Anh ta chùi rửa hộp đựng phân mèo, tắm con chó. Lúc đó đã đến 1 giờ trưa và anh ta lật đật sắp xếp giường ngủ, soạn quần áo dơ bỏ vào máy giặt, hút bụi, lau nhà, chùi sàn nhà bếp.
Chạy đến trường chở các con và suốt đường về phải cải vả với chúng. Lấy sữa và bánh cho các con xong, cho chúng vào bàn ngồi làm bài tập thầy cô đã cho mang về làm, xong lại dọn ra bàn ủi đồ, vừa ủi quần áo vừa xem TV.

Đúng 4:30 anh ta bắt đầu gọt khoai tây, rửa rau làm sà lách sửa soạn các món thịt dành cho bữa ăn chiều.
Sau bữa ăn chiều, anh ta lau bếp, bỏ chén dĩa vào máy rửa chén, xếp quần áo vừa giặt xong, mang các con ra tắm, và đưa chúng vào đi ngủ.
Vào 9 giờ đêm anh ta đã mệt đờ người, dù mọi chuyện nhà vẫn chưa xong, cũng phải lên giường, rồi cũng phải “trả bài” cho “chồng”, mệt cũng phải rán.

Sáng hôm sau, anh ta thức giấc và lập tức quì cạnh giường và cầu nguyện: “Chúa ơi, con không biết những điều con đã suy nghĩ. Con đã quá lầm lẫn mà ganh tỵ với việc vợ con ở nhà suốt ngày.
Chúa ơi, xin giúp con được tráo đổi lại vai trò như cũ.”
Đức Chúa Trời, trong sự khôn ngoan vô hạn của Ngài, trả lời: “Con yêu quí, Ta cảm nhận được là con đã học được bài học nên sẵn lòng cho con tráo đổi lại như cũ.
Nhưng con phải đợi 9 tháng, vì tối hôm qua con đã thọ thai!"

NST.

Không Cho Phép Mình Quên !

Không Cho Phép Mình Quên !

Nhiều người cho rằng chiến tranh đã kết thúc 34 năm rồi, vả lại Việt cộng cũng thay đổi rồi, sao lại chống hoài ?
Với tôi, những bài học, những kinh nghiệm thương đau mà thế hệ Cha Anh đã có với Việt Cộng nhắc tôi phải cảnh giác luôn luôn.
-Bài học số 1: Việt Cộng giết người Quốc Gia ngay trong thời kỳ phôi thai kháng Pháp, đánh Nhật, vì Việt Cộng muốn cướp quyền lãnh đạo đất nước, để có thể toàn quyền làm tay sai cho Cộng Sản quốc tế trước kia, và nay cho quan thầy Trung Cộng.

-Bài học số 2: Trong những kỳ cải cách ruộng đất, Việt Cộng đã giết biết bao người dân vô tội, giết ngay cả những người mà có lẽ chẳng bao lâu trước đó đã hào phóng bỏ ra vàng, tiền của đóng góp trong các cuộc quyên góp cho Việt Cộng.

-Bài học số 3: Ký kết ngưng bắn với Việt Cộng chưa ráo mực thì tên tội đồ Hồ Chí Minh xua ngay quân giết hàng ngàn đồng bào miền Nam vô tội trong Tết Mậu Thân 1968.

-Bài học số 4: Việt Cộng xé ngay bản hòa đàm Paris mà chúng vừa ký 1973.

-Bài học số 5: Trường học Cai Lậy, nơi bao trẻ thơ đang ê a bên trang sách, sao lại là mục tiêu pháo kích của Việt Cộng? Sao Việt Cộng lại nhẫn tâm bắn vào hàng ngàn đồng bào vô tội đang trốn chạy cái gọi là bọn "giải phóng quân" trên đại lộ kinh hoàng?

-Bài học số 6: Việc đổi tiền, thực chất là một cuộc ăn cướp tài sản của người dân miền Nam, được tiến hành chỉ một ngày sau đó. Đây là một nhóm thổ phỉ cai trị, chứ không phải là một nhà nước pháp trị. 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy 1 đồng tiền Hồ! Việt Cộng có cái gì để mà đổi ?

-Bài học số 7: "Ngày mai em sẽ chở các con đến đây thăm anh", Mẹ tôi bịn rịn chia tay Ba tôi sau khi chở Ba tôi đến địa điểm tập trung "cải tạo". "Em về ráng lo cho Thầy Mẹ và các con. Đêm nay chắc chắn anh sẽ bị đem đi nơi khác. Và em cũng đừng mong anh sẽ về sau 10 ngày ", Ba tôi căn dặn.

Trên đây là một ít trong số những bài học "cơ bản" mà tôi luôn tự nhắc mình và “không bao giờ cho phép mình quên!”
Có nhiều người cho rằng Việt Cộng đã thay đổi rồi. Với tôi, Việt Cộng chỉ là một loài tắc kè dỏm và hạ cấp. Nó thay đổi màu để tồn tại, để tiếp tục lừa bịp, che đậy cái bản chất bất biến của chúng là tàn ác và đê hèn. Với những người cùng một dòng máu Việt thì chúng chẳng chừa một hành vi bẩn thỉu nào, nhưng với kẻ thù phương Bắc, kẻ thù mà ngàn năm trước cha ông ta đã chỉ mặt đặt tên, thì CSVN lại quì gối. Khi đọc bản tin Giang Trạch Dân vào tắm ở Đà nẵng, rồi vào Saigon gặp mặt hoa kiều Chợ Lớn, sau đó mới bay ra Hà nội để gặp bọn đàn em ở Ba Đình, lòng tôi sôi sục căm hờn, tủi nhục.
Với cái thằng Tàu phù này, Việt Nam xem chừng chỉ là cái ao làng của nó. Khi đọc bản tin thấy đám du khách Trung Cộng phất cờ, đón đuốc thế vận trên đường phố Saigon trong khi những người dân Việt bị cô lập, bị đẩy ra xa, tôi biết rằng tôi vẫn còn sáng suốt. Tôi vẫn thấy rõ cái tồi tệ, xấu xí của Việt Cộng dù đang được che đậy dưới một cái áo màu mè bên ngoài của một con tắc kè. Lấy căn cứ vào đâu mà nói Việt Cộng đã thay đổi ?
Tôi may mắn có một người cha sáng suốt với những phân tích sắc bén, thuyết phục. Ông luôn là người đầu tiên tôi tìm đến để tham khảo và hỏi ý kiến khi nghe hoặc đọc thấy những biến động nào trong xã hội. Là một cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ở tuổi ngoài 70, ông vẫn canh cánh trong lòng chuyện vận mạng đất nước. Ông hun đúc tinh thần yêu nước cho con cháu trong gia đình qua các câu chuyện kể, qua những nhận định tình hình, nhắc nhở con cháu tỉnh táo trước những mưu chước của Việt Cộng. Ông nhắc con cháu dành chút thời gian thắp một nén nhang, đặt một ít hoa, nơi đài chiến sĩ Việt-Mỹ nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong.
Tôi luôn cố gắng theo Ba tôi tham gia các cuộc biểu tình nghiêm túc trong Cộng Đồng. Tôi phụ giúp giảng dạy Việt ngữ cho các em nhỏ với hy vọng góp một bàn tay phá vỡ cái nghị quyết 36 mà Việt cộng đã và đang cố gắng thực hiện tại hải ngoại qua sách báo, qua các chương trình ca nhạc của chúng. Tôi tranh thủ giờ ăn trưa trong công ty, để viết bài và tham gia tranh luận trên các diễn đàn với cố gắng "giành dân, lấn đất" với Việt Cộng trên mạng điện toán. Tôi cố gắng giải thích cho các con tôi khi chúng thắc mắc về lá cờ máu chúng thấy trong sách báo.
Là người Việt nên tôi vẫn nhớ Ông Bà ngày xưa có dạy "một câu nhịn, chín câu lành". Tôi cũng cho mình là một người Công Giáo kiên định và vâng phục. Chúa tôi có dạy rằng "Nếu có kẻ tát con má bên phải, con hãy đưa má bên trái cho kẻ đó tát".

Việt cộng ngày xưa đày Ba tôi nơi rừng sâu, chỉ thả về khi Ba tôi khập khễng trên đôi nạng gỗ với một bệnh án sống thêm được vài tháng là hết. Mấy chị em tôi bị xếp vào hàng cuối cùng trong xã hội vì "trúng" đủ mọi "tiêu chuẩn" của Việt Cộng, dân Bắc di cư - đạo Công giáo - con Ngụy quân Ngụy quyền. Ngày xưa Việt Cộng gọi chúng ta là đĩ điếm bám chân "đế quốc" thì nay là "khúc ruột ngàn dặm", một khúc ruột mà hàng năm có thể gửi về trong nước gần 10 tỉ. Bao nhiêu đồng bào nghèo lê lết sống bên Cambodia hay còn kẹt lại ở Philippines, bao nhiêu công nhân làm "tôi mọi" khắp nơi, bao nhiêu cô gái bán thân khắp vùng Đông Nam Á, thì sao không là "khúc ruột"?
Trước, Việt Cộng giết dân miền Bắc trong "cải cách ruộng đất", chôn sống dân miền Trung trong Mậu Thân, đày đọa, thủ tiêu quân cán chính miền Nam sau ngày "chiếm miền Nam", nay Việt Cộng lại tiếp tục cướp đất của bao người dân thấp cổ, bé miệng, tiếp tục tàn phá quê hương, phá bỏ đạo đức làm người. Người dân đã chẳng những "một nhịn", mà trăm ngàn "nhịn", mà "lành" vẫn không thấy, làm sao có "lành" với quỷ ?

Lạy Chúa, Việt Cộng đánh đồng bào con thê thảm trong "cải cách ruộng đất". Việt Cộng chôn sống đồng bào con trong Tết Mậu Thân. Việt Cộng đánh gia đình con và biết bao gia đình miền Nam tan nát sau cái gọi "ngày giải phóng". Việt Cộng đày đọa áp bức đến nổi dân chúng miền Nam phải rời bỏ quê hương vượt biển Đông. Hàng ngàn người đã bỏ mình, đã ô nhục, nhơ nhớp dưới tay hải tặc. Nay Việt Cộng tiếp tục đánh phá các Cộng Đồng người Việt hải ngoại, nơi chúng con đang xây dựng lại cuộc sống mới cho thế hệ mai sau. Lạy Chúa, chẳng những cả hai má chúng con đã để cho Việt Cộng tát, mà toàn thân, lục phủ ngũ tạng cũng tang thương. Thì nay xin Chúa cho con theo câu "có lúc con phải hiền như con trừu, có khi con phải khôn ngoan như con rắn". Có phải cực đoan không khi tôi chống Cộng, hay Việt Cộng đã thay đổi chăng ?

Tôi viết bài này trong niềm tưởng nhớ những chiến sĩ anh dũng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong cuộc chiến, những đồng hương tôi chết trên biển Đông, vì lý tưởng tự do.

Nguyễn Khánh Vũ.

Sự Hấp Hối Của ĐẢNG CSVN

Những Lời Bộc Bạch Của Một Đảng Viên
Hay Sự Hấp Hối Của Đảng CSVN ?

Lâu nay tôi không viết blog, nhưng hôm nay tôi muốn viết, tôi buộc phải viết, tôi không giải thích được tâm trạng của mình lúc này, nhưng tôi cảm nhận rõ ràng một sự thôi thúc phải nói ra những gì mình suy nghĩ cho nhiều người đọc. Sự thôi thúc đó đến từ đâu tôi cũng không chắc, nhưng thật tình là tôi vẫn rất run sợ khi post bài này, tôi không phải là người dũng cảm, nhưng tôi thấy mình cần làm điều đó. Và tôi cũng chỉ có nơi này để viết, để nói ra được sự thật, blog là nơi duy nhất ở xã hội này người ta có thể nói thật, còn lại đều là một cuộc sống dối trá với chính mình và mọi người.

Tôi đã gần 50 tuổi, đang làm cho một viện nghiên cứu, đã được 15 năm tuổi Đảng. Thật lòng là tôi đã nghĩ đến việc ra khỏi Đảng nhưng lại không dám thực hiện, tôi không đủ can đảm và mạnh mẽ để chấp nhận một cách kiếm sống mới hoàn toàn mà tôi không tự tin với nó. Đã suy nghĩ rất nhiều cách mưu sinh khác nhưng vẫn không thấy cái nào là được. Các con tôi phải còn vài năm nữa mới có thể tự lo được. Cái này chính là bổng lộc mà cấp trên ban phát vì nghiên cứu cho có, xong cho vào tủ, chủ yếu là viết theo ý muốn cấp trên rồi lập hội đồng khen nhau mấy câu, thế là xong.
Giàu thì chủ yếu là các sếp lớn vì đề tài nào các sếp cũng có tên để chia tiền dù chẳng làm gì, có khi cũng chẳng nhớ nổi cái tên đề tài.

Nói thật là ngày xưa tôi vào Đảng cũng với động cơ như thế, nhưng không nghĩ rằng như thế chỉ mới là cái bắt buộc sơ đẳng, muốn ngoi lên được đòi hỏi phải nhiều thủ thuật lắm, và phải biết luồn cuối thật giỏi, chà đạp người khác mà không bị cắn rứt. Mà cả 2cái này tôi đều dỡ, có lúc thấy phải làm nhưng làm cũng không đạt yêu cầu. Chuyên viên như tôi bây giờ toàn phải nói vẹt, nói dối đến mức mất tư cách mà chẳng biết phải làm sao. Giờ mới thấy mình hèn nhưng đã muộn. Tự an ủi trấn an mình “mưu sinh mà, thôi đành vậy…”

Những người Đảng viên như tôi, bây giờ chiếm đa số tuyệt đối trong Đảng, đến 95%. Qua đó biết rõ rằng Đảng viên bây giờ đều chán nãn và bi quan, không còn tin vào đường lối chủ nghĩa Cộng Sản và học thuyết Mác Lê-Nin nữa. Hầu hết những Đảng viên như tôi bây giờ đều mong muốn một sự thay đổi, nhưng họ lại sợ thay đổi. Lý do quan trọng nhất là họ sợ bị trả thù như lịch sử đã từng xảy ra, như Đảng đã từng làm, họ nghe thấy sự hung hăng và cực đoan của các Việt Kiều qua các lần biểu tình chống đối người trong nước qua làm họ sợ. Rồi kiểu tuyên truyền của Đảng cũng tăng thêm điều đó, nếu bạn là Đảng viên, đi họp sinh hoạt Đảng thì sẽ nghe thấy những lời lẽ cảnh báo rất nặng nề, nào là các thế lực thù địch, nào là sẽ không đội trời chung với Đảng viên, âm mưu diễn biến hòa mình có thể mất nước v.v..

Tôi đang đứng trước một trạng thái chông chênh, giữa những lựa chọn không dễ dàng: Theo hiện trạng và thói xấu của xã hội để sống dễ dàng hoặc thay đổi để không theo nó, hay tham gia vào những sự thay đổi của người khác làm xã hội tốt hơn. Tôi muốn cái sau nhưng nhiều lần đã không vượt qua được chính mình. Hàng này tôi bị buộc phải học và thực hành theo cái gọi là đạo đức HCM, nhưng toàn là những gì đạo đức giả và ngụy quân tử.

Gần đây tôi bắt đầu tin dần vào những gì vô hình như là định mệnh, số phận, vận nước, không tìm thấy căn cứ khoa học nào, nhưng có lẽ niềm tin là tâm linh, không phải biện chứng khoa học. Do vậy, tôi cũng hy vọng như nhiều người dân đang hy vọng, hồn thiêng sông núi sẽ phù hộ cho vận mệnh của đất nước. Tôi muốn nói với những người muốn mưu sự lớn và thực sự vì đất nước nhân dân, hãy nhắm vào những gì thiết thực nhất vì cuộc sống của đa số người dân, mục đích chính, những điều đó thiết thực với người dân.
Chế độ hiện nay dù làm ra vẻ chống đối và mạnh tay với những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền; giả bộ như là sợ những điều đó đe dọa sự cầm quyền của họ nhưng thực ra họ rất mong muốn những người đấu tranh này lao vào những mục tiêu như vậy vì chúng chẳng thể nào thu hút quần chúng.

Những gì thiết thực đối với quần chúng thì rất nhiều, nhiều vô kể, không thể nhắm đến hết tất cả một lúc được. Những con người sáng suốt sẽ nhận ra một vài điểm thật quan trọng từ những nhu cầu này, nhấn mạnh nó, giương nó lên làm ngọn cờ để tạo ra động lực cho đa số dân chúng thì mới có thể tạo ra lực lượng và thế lực thay đổi cái hiện nay được.
Điều đáng mừng là một vài năm gần đây đã thấy xuất hiện vài người có tầm nhìn như vậy, nhìn được những mấu chốt từ những gì rất thiết thực. Tôi có hân hạnh được trao đổi với những người như vậy trên blog và cảm nhận được sức mạnh tư duy của họ cho dù họ không nói gì về điều đó.

Nếu ai muốn copy bài này để phổ biến thì cứ tự nhiên làm đừng hỏi ý kiến tôi. Mà cũng mong các bạn hãy làm điều đó vì có thể một ngày nào đó, tôi không đủ sự can đảm, không vượt qua nổi sự hèn nhát nên sẽ xóa hẳn cái blog này.

Đa số Đảng viên và quan chức hiện nay đều hèn nhát như tôi vậy, những người dũng cảm có tư cách thì rất ít, những người này đều không lên cao được. Những kẻ chức vụ càng cao thì không những hèn mà còn nhát, thượng đội hạ đạp. Bản chất bọn chúng là những kẻ sợ sệt đủ thứ, chúng chỉ hung hăng khi nắm quyền lực trong tay và đối xử thô bạo với kẻ dưới hoặc những người không có chút quyền gì.

Tôi đảm bảo rằng, khi có một sự thay đổi bọn người này là những kẻ trốn chạy đầu tiên hoặc quay ngoắc tức thì theo lực lượng mới. Bọn chúng đa số (tôi là thiểu số) đều là những kẻ giàu có, giờ thì lắm tiền nhiều của, sợ chết và sẵn sàng trở thành kẻ phản bội cho người khác sai bảo nếu được đảm bảo rằng không làm gì bọn chúng.

Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắc và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa. Tôi thì nghĩ điều đó không tùy thuộc vào Đảng CSVN nữa, cái này ngoài khả năng của họ rồi. Nó tùy thuộc vào lực lượng thay đổi có thể hành động lúc nào thì lúc đó sẽ có sự thay đổi. Còn thay đổi như thế nào thì lại tùy thuộc vào cái lực lượng này có muốn làm điều tốt cho người dân hay không. Thật là khủng khiếp nếu đất nước này tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.

Hãy tha thứ cho tôi nêu ai đó vô tình bị xúc phạm từ những điều tôi viết, nhưng tôi vẫn tin những người đó rất ít, đếm trên đầu ngón tay.
Tạm biệt mọi người, cũng có thể là vĩnh biệt…. Chúc mọi người vui khỏe và an toàn, chúc Việt Nam thay đổi tốt đẹp.

Tôi đã thực sự ân hận vì đã vào cái Đảng bán nước cầu vinh này.

Tâm Sự Một Người.

Viết Về Anh Người Hùng Nước Việt

Viết Về Anh Người Hùng Nước Việt.

Tôi lập gia đình sớm, năm tôi 18 tuổi đã theo chồng ra Nha Trang. Trong thời chiến, tôi cũng như bao thiếu nữ khác phải chấp nhận đời sống vợ của một chiến binh. Chồng tôi là một sĩ quan mới ra trường năm 1962, anh đã tình nguyện vào đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), một đội ngũ làm Cộng quân khiếp vía, đối với Cộng quân những người chiến sĩ này là hình ảnh của tử thần, là đội binh tinh nhuệ. Ðến trong âm thầm và ra đi trong lặng lẽ, để lại bao kinh hoàng và khiếp đảm đối với VC. Nhất là "đàn con của Giặc Hồ" được nhồi sọ từ một chủ thuyết Nga-Tàu, tràn qua dòng Bến Hải đau thương, chứng tích chia lìa Nam Bắc. Vượt Trường Sơn mang theo cuồng vọng, đôi dép râu lê lết bằng những hình hài không tim óc "sanh Bắc tử Nam" dẫm trên đường mòn Hồ Chí Minh ô nhục, một kẻ tội đồ của lịch sử, của dân tộc.

Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào hình ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh ? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleimer gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, Bình Giả... máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùn bất trắc, hiểm họa rình rập theo những bước chân xâm nhập, nổi chết toa rập cùng sương lam chướng khí trực chờ !!!

Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xoáy mòn tâm trí tôi, tôi vẫn còn nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.

Đến năm 1965, ở tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa) có một trận chiến rất lớn đó là trận Bình Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng Quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an lòng được trong tâm trạng nổi lòng chinh phụ dõi bóng chinh phu! Cứ mổi lần chàng chuẩn bị đi vào "miền gió cát", nhảy vào giữa lòng đất địch là mổi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nổi lo âu, niềm đau đợi chờụ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, Bình Giả... đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà lòng tơi bời vụn nát....sợ anh về trên đôi nạn gổ, tôi nghẹn ngào nghỉ đến ngày anh trở về "bên hòm gổ cài hoa..." chỉ nghỉ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương rì rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đình tôi tại Sàigòn.

Sài gòn không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đã vội qua.... "Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi", Sài gòn vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra "nắng Sài gòn em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông". Trời ơi, tôi còn tâm trí nào để chìm đắm trong những giòng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như riễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim, bay súng nổ đạn bay, thây người ngả qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên hình hài còm cỏi của Mẹ Việt Nam! Tôi làm gì có áo lụa Hà Đông để mặc, nổi ước mơ đó đối với tôi là vô nghĩa, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn hình hài nha anh, nha Hồ đăng Nhựt dấu yêu của em!

Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân, năm đó tôi mang thai đứa con đầu lòng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều. Tôi hỏi xin cho gặp, các ông ấy nói: thiếm đã đến trể mất rồi, chú Nhựt mới vừa từ giả chúng tôi bước ra bãi phi cơ trực thăng. Từ trong vô thức não nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ : "bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in". Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mã trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bậc bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái. Bình Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh......thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó!!! Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh kể cả tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đã quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về..... Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng đã hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đã bị lộ, nên anh đã băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Vãi tại Bà Rịa. Chàng đã nguyên vẹn trở về, cám ơn thượng đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài gòn.

Đến năm 1966, các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế, Điện Biên Phủ.... cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleimer, trận chiến này các đội và trưởng toán đã hy sinh rất nhiều. Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng của không lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đã bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực. Nhiều chiếc đã bị bắn rơi, lửa bốc cháy ngút trời, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH.

Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng, lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng Hai Chiến Thuật sắp về, tôi được tin từ Sài gòn và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép.
Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài gòn và đứa con thứ ba đã chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài gòn, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Chồng tôi đã phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C.3 tại Biên Hòa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là trung tá Phạm Duy Tất đưa anh nhận chức làm trưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở Bình Long và Lộc Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B.3 hành quân ở B.15 cho đến năm 1972.

Năm 1972, khởi đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, đỉnh tận cùng của điêu linh, thẳm sâu của tang tóc, đẩy người dân xuống cuối đáy địa ngục. Chiến trường trở nên khốc liệt hơn, kinh khủng hơn, tàn bạo hơn....bom đạn cày nát mãnh đất quê hương nghèo khó. Mẹ Việt Nam mở trừng mắt máu lệ đầm đià, hơi thở Mẹ Việt Nam đứt quảng từng hồi, thân thể Mẹ Việt Nam run rẩy từng cơn, tan hoang như địa chấn, sụp đổ như cơn đại hồng thủy.... Trước bờ vực thẳm tử sinh, người dân miền Nam từng bước gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định mệnh. Máu và nước mắt, thây người và khăn sô...!!!

Đến cuối 1972 LLĐB được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Phòng, Nha Kỷ Thuật và các quân binh chủng khác. Chồng tôi đã chọn về Sở Liên Lạc Nha Kỷ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.

Đầu năm 1975, chồng tôi được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuộc và Kontum. Lúc này tình hình chiến sự trở nên căn thẳng, hổn loạn, phương tiện di chuyễn vô cùng khan hiếm và khó khăn. Hai ngày ròng rã chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Hòa và đã được lên đường sau đó. Khi đến trình diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, thiếu tá Cao Triều Phát đã đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông thiếu tá Phát bảo chồng tôi, "mầy" đã xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc tình hình đang rối ren vì được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng mình sẽ về chung cho vui. Vì vậy, anh đã nhờ thiếu tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn vài hôm sau anh sẽ về Sài gòn.

Trên đường rút quân "triệt thoái cao nguyên", dọc theo quốc lộ sự di chuyển rất hổn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đau binh và cướp bốc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài gòn, chỉ còn 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùn. Chiều cùng ngày trên đường rút quân, anh cùng thiếu tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B.40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không còn xác, thiếu tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nhìn không ra.

Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bổng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bổng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đão, tôi ngả qụy chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lãnh xác chồng.

"Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ". Trời ơi, Hồ Ðăng Nhựt ơi ! Anh đã bỏ mẹ con em, anh đã bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngã. Tôi cùng các anh em đi đến Nghiã Trang Quân Đội tại Biên Hòa, được một chú lính đưa tôi đi qua dãy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn hình hài thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời ơi ! "em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong", thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đã bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đã từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đã từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mổi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặn sim bạt ngàn. Bây giờ "áo bào đã thay chiếu anh về đất" yêu đương kia đã cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...!!!

Một chút niềm riêng về Nha Trang dấu yêu ngày tháng cũ. Nha Trang những ngày mưa đổ điù hiu se sắc buồn. Nhớ những ngày đơn độc trong trại gia binh, nhớ Duy Tân con đường dọc theo bờ biển đèn ngoài khơi nhấp nháy như ngàn sao, phố đêm Nha Trang trông huyền ảo lấm tấm như ngàn trân châu trải đều trên nét xiêm hài nhung thẳm của giai nhân. Tất cả chìm sâu vào đáy dĩ vãng rong rêu, mổi lần hồi tưởng lòng tôi lại rạt rào thương tủi, lòng tôi lại trào dâng bao kỷ niệm. "Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" hình bóng chinh nhân khi ẩn, khi hiện, nổi trôi theo từng dòng chữ, từng âm thanh đứt lià "vẵng nghe tự đáy hồn thương tích, bao tiếng kèn truy điệu năm xưa."

Lưu Trùng Duơng.

Vinh Danh Anh Người Lính VNCH (Thơ)

Vinh Danh Anh Người Lính VNCH.

Anh lính trẻ oai hùng chiến trận,
Vượt lằn tên chặn bước quân thù.
Sớm đầu NAM, tối BẮC lên non,
Thân xác đổ, làm nền dân chủ.

Trong chiến trận kinh hồn bom đạn,
Kẻ quay về chẳng vẹn toàn thân.
Người mất tích thân chia vạn mảnh,
Chỉ còn chăng,CHIẾN SĨ VÔ DANH.

Sương lạnh mồ hoang theo năm tháng,
Mà hồn chiến sĩ vẫn lang thang.
Ai người hậu thế ? còn tưởng nhớ !
Đốt nén hương cho mảnh xương tàn.

Hồng Hãi

Hồn Ca Trên Biển Ðông (Thơ)

Hồn Ca Trên Biển Ðông.

Ngày nào còn CSVN, ngay cả những người đã chết trên các đảo hoang vu, lìa xa Tổ Quốc, cũng không được yên nghỉ ngàn thu...

1.
Hồn ai đó ?
Chập chờn trên khói sóng
Dòng máu tươi theo nước chẳng hòa tan.
Hồn ai đó ?
Vạn tinh cầu chao bóng
Đảo ghềnh xa còn vọng tiếng kêu than.
Hãy về đây – trên sóng nước dâng tràn
Chung tiếng khóc nghẹn đau cùng Dân Tộc.

Hồn ai đó ?
Đã lìa xa Tổ Quốc
Vẫn còn ôm sông núi xuống mồ hoang.
Tiếng oan khiên từ đáy vực còn vang
Hay chìm đắm giữa khơi ngàn sóng dữ ?
Mảnh thuyền tan, bập bềnh trôi viễn xứ
Biết về đâu ? Hồn phiêu bạt nơi đâu ?
Thân cá Hồi tan tác đã chìm sâu
Không tìm thấy lối quay về chốn cũ !
Giữa trùng khơi vang tiếng cười dã thú
Hải tặc giằng co thân xác – kinh hoàng.
Tiếng Mẹ kêu, dòng máu chảy đầy khoang
Tay vời níu đàn con run khiếp sợ.
Biển lạnh chiều hoang, trần gian nín thở,
Vòng tai ương kiếp nạn đến vô cùng.

Hồn ai đó ?
Bờ Tự Do bốn hướng, cõi mông lung
Tìm đâu thấy - giữa muôn trùng đen thẳm ?
Tiếng kêu “Trời!” trước phút giây chìm đắm
Biến tan vào giông bão, thét trùng dương.
Vực mồ sâu thịt rã máu còn vương
San hô trắng hay là xương ai trắng ?
Dòng tóc đen bám ghềnh xa hoang vắng
Thành rong rêu sẫm tím một màu tang.

Hồn ai đó ?
Chiếc thuyền Không Gian
Trôi về Vô Tận.
Bánh xe Thời Gian chuyển ngàn uất hận
Chập chờn mấy cõi U Minh.
Lịch Sử nghìn thu trang giấy rợn mình
Ghi chép lại phút kinh hoàng Vượt Biển !

2.
Hồn ai đó ?
Đảo hoang sơ, ai về đây khấn nguyện
Mộ bia tàn, ai thắp nén hương dâng ?
Nơi Ba-Đình vui chuốc rượu Vô Thần
Cười nghiêng ngả mừng reo hò chiến thắng !
Đồng ruộng phơi bày xương trắng
Oan khiên máu lệ thành sông.
Bao thây vùi trong sóng nước biển Đông
Còn sót lại mấy hoang tàn di tích ?

Hồn ai đó ?
Đảo xa xôi mộ phần cô tịch
Giấc ngủ chẳng bình an.
Họ còn theo, cố phá đập tan (* - CSVN)
Để tô hồng chế độ :
• “Nếu Chủ nghĩa huy hoàng, không ai chối bỏ
Không có người vượt thoát để tồn sinh !!!”
Nhưng bia đời như nắng rọi bình minh
Luôn soi rõ từng vết sâu tội ác
Của loài dã tâm với ngôn từ khoác lác
Đang tôn thờ chủ thuyết lai căn.

Hồn ai đó ?
Từ bao cõi vĩnh hằng
Xin về đây chứng kiến.
Tấm lòng chúng tôi, trọn đời Tâm Nguyện
Chí bền gan, xin vẹn Nghĩa Tình.
Dù ngăn cách Tử Sinh
Giữa hai bờ Nhật Nguyệt.
Dù có ai phá tan mộ huyệt
Đến nghìn sau hồn mãi còn đây.
Nhìn trùng khơi sóng nước dâng đầy
Gửi mơ về cố quốc.
Hồn vẫn sống trong lòng Dân Tộc
Vì hai chữ Tự Do.
Chiều GALANG bão tố sóng to
Hay tĩnh lặng trăng rơi thềm đá.
Sáng PINANG nắng xuyên rừng lá
Hay đêm vờn tiếng hát nhân ngư.
Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang vu
Không tên tuổi – sá gì tên với tuổi !
Dù xác thân đã hòa chung cát bụi
Biển Đông còn - HỒN MÃI SỐNG THIÊN THU !

Võ Đại Tôn

Rất Hữu Ích: Nhất Là Cho Phụ Nữ

Rất Hữu Ích: Nhất Là Cho Phụ Nữ.

Sau khi đã đọc 9 mẹo trọng yếu sau đây, bạn hãy chuyển bản tin này tới những người mà bạn quan tâm.

Trong cái thế giới chúng ta đang sống, cẩn thận bao giờ cũng hơn. Cứ phổ biến, đừng sợ làm phiền lòng ai cả.

1. Mẹo lấy từ Tây Quân Đô (Teakwando): Cùi chỏ là điểm mạnh nhất trên thân thể bạn. Nếu bạn ở khá gần để có thể dùng, hãy dùng!

2. Nếu một tên cướp yêu cầu bạn đưa cái bóp và/hoặc cái sắc:
ĐỪNG TRAO CHO HẮN.
Hãy quăng cái bóp ra xa....
Rất có cơ may là hắn quan tâm đến cái bóp và/hoặc cái sắc của bạn hơn chính bạn, và hắn sẽ đi mà nhặt lấy.
HÃY CHẠY NHƯ ĐIÊN VỀ HƯỚNG KIA!

3. Nếu bạn bị quẳng lên một thùng xe, hãy đạp văng mấy cái đèn đuôi và thò cánh tay bạn ra khỏi cái lỗ và cứ vẫy như điên. Tên lái xe không thấy bạn, nhưng mọi người khác sẽ thấy. Cách này đã cứu được nhiều người.

4. Các bà có khuynh hướng vào xe sau khi mua sắm, ăn uống, làm việc, v.v., và ngồi xuống (ghi sổ chi thu,hoặc liệt kê các thứ, v.v. )

XIN ĐỪNG LÀM THẾ!

Kẻ gian vẫn đang trông chừng bạn, và đây là thời cơ tốt nhất để hắn lên ngồi ở chỗ hành khách, kê súng vào đầu bạn, và bảo bạn phải đi đâu.

VỪA LÊN XE,
HÃY KHÓA CỬA LẠI VÀ ĐI NGAY.

Nếu có người đang ở trong xe với một khẩu súng chĩa vào đầu bạn

XIN ĐỪNG LÁI XE ĐI,
Xin nhắc lại:
XIN ĐỪNG LÁI XE ĐI!

Thay vì thế, hãy nổ máy, và lao vào bất cứ thứ gì, nhằm phá hỏng xe.

Cái Bao Hơi sẽ cứu bạn. Nếu kẻ kia ngồi ở ghế sau hắn sẽ bị thương. Xe vừa đâm sầm vào hãy lao ra và chạy. Như thế thì tốt hơn là để người ta tìm thấy thân thể bạn ở một nơi xa vắng.

5. Một vài lưu ý về việc bạn lên xe tại một bãi đậu xe, hoặc một nhà đậu xe:

A.) Để ý: nhìn chung quanh bạn, nhìn vào trong xe của bạn, nhìn vào sàn lối đi của hành khách, và nhìn vào ghế sau.

B.) Nếu bạn đậu xe bên cạnh một xe tải lớn, hãy vào xe bằng cửa của khách. Nhiều tên giết người hàng loạt tấn công nạn nhân bằng cách kéo họ vào trong xe tải của chúng trong khi các bà tìm cách vào xe.

C.) Hãy nhìn chiếc xe đậu phía tài xế của xe bạn, và phía khách… Nếu một người đàn ông đang ngồi đó một mình trên ghế gần xe bạn nhất, bạn nên đi ngược lại vào trong chợ, hoặc nơi làm việc, và xin một người bảo vệ/cảnh sát đưa bạn trở ra.

THÀ ĐƯỢC AN TOÀN VẪN HƠN LÀ NGẠI LÀM PHIỀN.
(và thà bị coi là hoang tưởng hơn là phải chết.)

6. LUÔN LUÔN đi thang máy thay vì leo cầu thang. (Vùng cầu thang là nơi đáng sợ nếu ở một mình và là nơi thuận tiện để gây tội ác. Điều này đặc biệt đúng về ĐÊM!)

7. Nếu kẻ gian có một khẩu súng và bạn chưa bị hắn khống chế:

CỨ CHẠY ĐI!

Kẻ gian chỉ bắn trúng bạn (một mục tiêu di động) 4 trên 100 lần; Và cho dù thế, chắc:

SẼ KHÔNG TRÚNG PHẢI một cơ quan trọng yếu. CHẠY, Tốt nhất theo hình chữ chi ( zig zag )!

8. Là phụ nữ, chúng ta luôn cố tỏ ra dễ thương:

THÔI NGAY ĐI!

Quý bà có thể bị cưỡng hiếp, hoặc bị giết. Ted Bundy, tên giết người hàng loạt, là một tên đẹp trai, có giáo dục, LUÔN LUÔN khai thác mối thiện cảm của những quý bà không biết nghi ngờ. Hắn đi bộ tay chống gậy, hoặc bước khập khiễng, và thường xin giúp đỡ vào xe hoặc với xe của hắn, và đó là lúc hắn bắt cóc nạn nhân kế tiếp.

9. Một Điểm An Toàn khác: Có người mới bảo tôi rằng bạn của chị đã nghe tiếng con nít khóc ngoài cổng đêm trước, Và cô ấy đã gọi cảnh sát vì lúc ấy đã khuya với lại cô ấy nghĩ chuyện này có gì khác thường. Cảnh sát đã bảo cô ta:

'Dù thế nào, NHẤT ĐỊNH KHÔNG mở cửa.'

Rồi người đàn bà nói rằng nghe như đứa bé bò gần cửa sổ, và bà lo là nó bò ra đường, thì sẽ bị xe cán. Viên cảnh sát nói, 'Chúng tôi đã phái một đơn vị lên đường, nên dù thế nào, NHẤT ĐỊNH KHÔNG mở cửa.'

Ông bảo cô ta rằng họ nghĩ rằng một tên giết người hàng loạt đã thu băng tiếng con nít khóc và dùng mà dẫn dụ các bà ra khỏi nhà, nghĩ rằng có ai đó đã đánh rơi một đứa bé. Ông nói rằng ông chưa kiểm chứng được điều này, nhưng đã nghe nhiều bà gọi đến nói rằng họ nghe tiếng con nít khóc bên ngoài cửa nhà khi họ ở nhà một mình ban đêm.

Xin vui lòng gửi thông điệp này đi và NHẤT ĐỊNH KHÔNG mở cửa cho dù nghe tiếng đứa con nít khóc.

Rất có thể thông tin này cần được coi trọng bởi vì thuyết về Con Nít Khóc đã được nêu lên tại chương trình Những Kẻ Bị Truy Nã Nhất nước Mỹ, khi người mô tả sơ lược tên giết người hàng loạt tại Louisiana

Tôi ước mong bạn chuyển thông điệp này cho tất cả các phụ nữ bạn quen biết. Nó có thể cứu một mạng sống. Một ngọn nến không bị lu mờ đi khi thắp sáng một ngọn nến khác.

NST

Người Việt Ở Balan - Một Câu Chuyện Khủng Khiếp

Người Việt Ở Balan - Một Câu Chuyện Khủng Khiếp.

Không ai biết được con số chính xác, nhưng có ít nhất 30.000 dân tị nạn người Việt trên Ba Lan, phần lớn bất hợp pháp. Chúng tôi biết đuợc cặn kẽ hơn từ một thành viên tranh đấu cho nhân quyền người Ba Lan thuộc hiệp hội "Tiếng nói tự do", hiện đang công tác giúp đỡ số cư dân này.

Robert Krzysztoń, hiệp hội "Tiếng nói tự do": "Đấy là một cái bẫy: Cuộc hành trình đến Ba Lan được băng nhóm Mafia Việtnam tổ chức. Dân tị nạn được đưa đến Moscow, chặng này không khó. Ở đây họ bị gom thu giấy tờ với chiêu bài, phải đi đóng thị thực nhập nội Ba Lan vào thông hành. Và tiếp theo họ được cho biết là có rắc rối, phải trả thêm 10.000 đến 15.000 Dollars. Một số tiền họ không thể có được, Thông hành bị giữ, họ đành phải chịu nợ để được đi tiếp đến Ba Lan. Một số nợ quá lớn và để trả nổi họ phải làm suốt đời. Dẫu họ có trúng số độc đắc đi chăng, đám Mafia đòi nợ vẫn sẽ hàng tháng đến nhà gỏ cửa.

Thật rất khó khăn mới thâu được những hình ảnh khu chợ Việtnam vào ống kính. Ai ai cũng e ngại chúng tôi, phần đông thấy may quay phim ai nấy đều bỏ chạy. Nhiều người sống ở đây đã nhiều năm vẫn không nói được một chữ Ba Lan. Chúng tôi làm quen với người phụ nữ 45 tuổi tên Ngân, hành nghề với một bếp ăn lưu động. Một ngày mới của cô ta bắt đầu từ 1 giờ đêm.

Cô Ngân tâm tình: "Cách đây 9 năm tôi phải chạy trốn, vì sợ trả thù. Tôi không muốn kể nhiều hơn. Chồng và con còn ở lại Việtnam. Tôi nhớ chồng con lắm nhưng phải làm việc bù đầu 17 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần, tôi không còn thì giờ nghĩ đến nữa. Tôi kiếm không được nhiều, nhưng nếu tiết kiệm tôi có thể dư tiền để gọi điện mỗi tuần một lần về nhà. Giờ thì tôi phải đi bán hàng ..."

Chúng tôi tháp tùng theo cô Ngân, nhưng chỉ vài phút sau phải bỏ ngang không quay tiếp. Bởi cô Ngân không bán được gì cả khi có mặt chúng tôi bên cạnh. Sau đó chúng tôi mới nắm hiểu vì sao dân tị nạn ở đây lo sợ và Tòa Đại sứ Việt Cộng tại Warsaw khoác một vai trò tai tiếng bất hảo như thế nào. Chiều đến chúng tôi hẹn gặp tại ven ranh thành phố với một cảnh sát tình báo trách nhiệm điều tra trong khu vực cộng đồng người Việt.

Viên cảnh sát cho biết: "Họ sợ bọn Mafia. Đám doanh thương giầu có đem rất nhiều tiền từ Việt Nam sang đây để rửa. Họ mua hãng xưởng và đầu tư tại Ba Lan. Bọn họ có đường dây rất chặt chẽ với Hà Nội và với Tòa Đại sứ tại Warsaw. Một băng nhóm tội phạm có tổ chức, một hệ thống Mafia." Và với Mafia thì không đùa được. Đám tỵ nạn bất hợp pháp phải nộp tiền cho chủ, và tụi ấy có phương pháp riêng của chúng. "Đám này không bao giờ có văn bản hợp đồng. Lời nói là đủ. Khi một kẻ nào đó không trả tiền, sẽ bị bắt cóc và tra trấn cho đến khi phải xì tiền ra.

Một nhà báo Ba Lan đã mất hàng năm trường điều tra quyết phá vỡ bức tường im lặng này. Báo chí Ba Lan vừa rồi đã in bài tường thuật về những sự việc xảy ra.

Ton Leszek Szymowski, nhá báo: "Mỗi một con buôn trong chợ đều phải nộp thuế, đấy là nguyên tắc. Không cần biết anh buôn gì, giầy dép hoặc áo quần hoặc có một cửa hàng ăn uống, đều phải nộp thuế. Từ 100 đến 150 Dollars một tháng. Nếu không bọn hắn sẽ đốt cửa hàng anh. Chịu chi anh sẽ được bảo đảm an ninh, đối với mọi băng đảng.

Trong bếp một tiệm ăn, một dân tỵ nạn phi pháp rút hết can đảm kể cho chúng tôi nghe một cuộc vượt trốn liều lĩnh. Cuộc hành trình của anh ta từ Việt Nam đến Warsaw kéo dài hàng tháng trường.
Anh kể: "Thoạt tiên tôi muốn đi qua đường Moscow. Nhưng họ đề nghị tôi nên vượt rừng qua Trung Quốc. Tôi tin nghe theo, sau đó phải ngồi mãi trên tàu lửa và rồi nằm trong một thùng carton trên một chiếc xe tải. Xe chạy đến Kiew/ Ukraine. Họ đưa chúng tôi đến biên giới Ba Lan, và khi không người canh giữ, xe vượt biên giới và chở chúng tôi đến Warsaw, tại đấy họ tống tôi ra khỏi xe và thả tôi chơ vơ giữa đường.

Trả lời câu chúng tôi hỏi, người Việt sinh sống ở đâu. Anh ta trả lời đơn giản: Chỉ cần một người mướn được đâu đó trong những chung cư cao ốc một căn hộ, sẽ kéo thêm mười người nữa vào. Mười một người sinh sống trên 12 thước vuông.

Anh kể tiếp: "Tôi không hiện hữu, tôi ở ngoài vòng pháp luật. Công an chìm Việt Cộng vẫn con theo dõi tôi đến tận Ba Lan. Họ vẫn hăm dọa khủng bố tôi. Vài ba ngày một lần họ ghé qua đây, hăm tôi không được hoạt động chống đối. Và để dằn mặt họ quần tôi mội tháng một lần.

Một số ít dân tỵ nạn đến theo đường bay từ Moscow, với giấy tờ giả. Một ngày có hai chuyến Aeroflot đáp xuống Warsaw. Những giấy thông hành quá giá trị đến mức dân tỵ nạn Việt Nam luôn luôn bất tử. Tại những nghĩa trang Ba Lan không hề có một nấm mồ của người Việt. Và điều này kiến Cảnh sát Ba Lan bức tai vò đầu bao năm nay.

Dariusz Loranty, Cảnh sát Warsaw: Dân Việt Nam, nói không ai tin, sống mãi, chưa hề có ma chay tang lễ. Trước đây vài năm, chúng tôi, Cảnh sát Warsaw, thật tình có phỏng đoán, đám ấy ăn thịt đồng loại (theo như tường thuật này thì đây cũng là một cách ăn thịt đồng loại). Ai rồi cũng phải chết và phải được an táng. Một hôm chúng tôi kiếm được một xác chết bị quẳng đâu đấy vào trong rừng ở ven ranh Warsaw, đám Mafia thủ tiêu xác chết và sử dụng tiếp giấy tờ. Rồi lại thêm một kẻ tỵ nạn nữa sẽ đến từ Việt Nam, mang tên họ của người đã chết mà không ai kiểm soát được. Và với chúng tôi thì người Việt nào cũng giống nhau, không phân biệt được.
Năm vừa qua chỉ có 800 người nộp đơn xin tỵ nạn chính trị tại Ba Lan, tất cả đều bị từ chối. Người Việt sống và bị đối xử phi nhân và dã man. Nhưng vào thời điểm cuối cuộc tường trình chúng tôi nghe được một tin đồn kinh khủng.

Robert Krzysztoń, hiệp hội "Tiếng nói tự do": Có một sự việc liên quan đến dân Việt ở đây, không có chứng cớ, nhưng có thật. Tôi muốn nói về việc buôn bán bộ phận thân thể con người. Bọn Mafia đem người qua Ba Lan và sử dụng họ như một kho lạnh biết đi. Những người trẻ và khỏe mạnh. Họ được phép đi lại một mình nhưng bị kiểm soát rất chặt chẽ. Những người này rồi sẽ bị giết và lấy đi những bộ phận thân thể. Mọi dấu tích sẽ được cẩn thận xóa sạch. Những con người đó sẽ biến mất, chỉ còn lại tin đồn. Chúng tôi không biết đã có bao nhiêu, nhưng nguồn tin này tuyệt đối khá tin cậy.

Đối với số 30.000 người Việt cư ngụ bất hợp pháp tại Ba Lan vùng đất hứa của họ phần lớn thật ra là một địa ngục trần gian. Bọn Mafia gốc Việt hành xử nhóm người này tùy thích, ngay giữa lòng Châu Âu.

LCH

Hiểm Họa Xâm Lăng Của Trung Cộng

Quan Điểm Của Ông Ngô Đình Nhu
Về Hiểm Họa Xâm Lăng Trung Cộng.

Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí báu vào kho tàng tư tưởng chính trị thế giới, nếu có thể sống thêm 100 năm nữa để đọc sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc tổng hợp bao quát, đứng đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như tác giả của quyển Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình Nhu.

Khi hay tin Tông Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Ðình Nhu bị ám sát, Cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, (Taiwan) đã nhận xét:
Trung Hoa Dân Quốc đã mất đi chiến hữu tâm đầu ý hợp… Tôi khâm phục ông Diệm, ông Nhu xứng đáng là lãnh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tím được lãnh tụ cao quí như vậy.

Tuy nhiên, những người đã quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu qua các diễn văn mà Ông đã soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn trau chuốt, chính xác, nghiêm túc, sắc bén và chặt chẻ của ông Nhu.

Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất của người viết là, trước đây gần nữa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét Liên Sô sẽ tự giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ tập hợp lại với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu ngày nay. Nhưng điều hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đã không đưa ra những lời tiên đoán như một người thầy bói hay một chiêm tinh gia, trái lại, ông đã đưa ra những phán đoán của mình, sau khi đã phân tích và tổng hợp các dữ kiện lịch sử và các biến cố chính trị thế giới, một cách khoa học, khách quan và vô tư. Chính vì vậy, người viết nghĩ rằng tập sách này sẽ có một mãnh lực vô cùng hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ thực sự mong muốn xây dựng và phát triển đất nước, theo một đường lối khoa học, thực tiển và hợp lý nhất.

Sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng CSVN vì thiển cận và vì quyền lợi hẹp hòi và cũng có thể vì quyền lợi cá nhân ích kỷ của những tên đầu lãnh, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng khiếp hải đó của Trung Quốc, họ đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh vô nghĩa và phi lý, và đã đem lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang của người Việt, trong suốt hơn 30 năm… Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng đã là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay.

Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau: Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên.

Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.

Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.

Ðảng CSVN, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đưa đất nước chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động thái thú này của CSVN, sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của đất nước, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc, Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.

Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.

Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc.

Cũng qua ý niệm quốc gia dân tộc, chúng ta không thể để bọn CSVN thực hiện ý đồ làm tay sai cho Tàu Cộng, giải quyết vấn nạn của đất nước hiện nay là phải đập tan tập đoàn bán nước cầu vinh này, sau đó phát huy tinh thần tự quyết của dân tộc để đánh bọn ngoại xâm Tàu Cộng.

Huyết Hoa