lørdag 9. mai 2009

Bauxite Là Chủ Trương Lớn Của Đảng CSVN ?

Bauxite Là Chủ Trương Lớn Của Đảng CSVN ?

Câu hỏi đặt ra là: tại sao Chính quyền cộng sản Việt Nam khăng khăng cho rằng khai thác bauxite ở Tây nguyên là chủ chương lớn của đảng, của nhà nước, mặc dù đã có nhiều kiến nghị không khai thác quặng này từ phía các nhà khoa học và nhân dân, kể cả Tướng Giáp? Và đây là những lý do để giải thích cho câu hỏi này:

1. Duy trì chế độ:

Như đã biết, chế độ hiện nay có một bộ máy chính quyền rất cồng kềnh, chân rết của nó bám sâu vào mọi tổ chức đoàn thể quần chúng, cùng với đội ngũ cảnh sát quân đội khổng lồ (chỉ một vụ án xử 8 người dân Thái Hà hiền lành thôi mà chính quyền đã huy động hằng trăm CSCĐ cùng với chó nghiệp vụ và vô vàn các thiết bị an ninh khác). Để duy trì được chế độ này thì cần một lượng kinh tế rất lớn. Thêm vào nữa, đây là một bộ máy gồm những “quan tham” rất “béo” do tham nhũng, mánh lới và cướp bóc. Vì thế, nguồn tiền đổ vào để nuôi bộ máy này cần rất nhiều. Lấy tiền đâu ra mà nuôi?

a. Tiền thuế:

Tiền thuế là một khoản thu lớn nhất của Chính quyền. Tuy nhiên với một chính quyền yếu kém về năng lực, bảo thủ trong tư duy, suy đồi về đạo đức và tham nhũng trong mọi tình huống thì một lượng lớn tiền thuế đã bị thất thoát.

Báo chí do nhà nước kiểm soát hằng ngày đưa tin về việc buôn lậu diễn ra ở Việt Nam là chuyện cơm bữa. Bất cứ mặt hàng nào cũng đều được người ta buôn lậu. Hàng buôn lậu ở Việt Nam được thực hiện bằng mọi hình thức, được vận chuyển bằng mọi con đường: đường bộ, đường sắt, đường biển và kể cả đường hàng không. Những kẻ buôn lậu thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, kể cả quan chức cao cấp ngoại giao của chính phủ, và kể cả phi hành đoàn của Hãng hàng không Việt Cộng.

Các công ty trong nước thi nhau lập hóa đơn khống tìm đủ mọi cách trốn/gian lận thuế. Thử hỏi bất cứ một công ty nào xem họ có trung thực thuế 100% không thì không có một công ty nào trả lời là trung thực cả. Bất cứ một công ty nào đều có hai hệ thống kế toán: hệ thống kế toán báo cáo thuế (để gian lận và trốn thuế) và hệ thống kế toán nội bộ công ty (kinh doanh thực tế của công ty).

Ngoài ra cán bộ thuế/kiểm toán còn móc ngoặc với các công ty để ăn chia v.v. Đây là một thực tai ai cũng biết. Với khoản thất thu như vậy, tiền thuế thu được sẽ không đủ để duy trì bộ máy khổng lồ của chính quyền vốn đã yếu kém mà lại tham lam. Như vậy, CSVN phải đi tìm thêm một nguồn tiền nào khác để bù đắp vào khoản thất thu này. Bauxite Tây Nguyên há không phải là một nguồn kinh tế lớn trước mắt sao!?

b. Tiền bán tài nguyên của cha ông:

Việt nam có rừng vàng biển bạc, nhưng đó là quá khứ. Hiện nay rừng bị khai thác bừa bãi, thiếu khoa học, khai thác quá mức dẫn đến rừng bị kiệt quệ. Nhiều mảnh rừng xưa là mái nhà của muông thú, thực vật, nay trở lên hoang tàn và bạc màu. Nguồn thủy sản cũng vậy, với cách khai thác cá “triệt để” bằng các biện pháp khai thác “vô tội vạ” như “tát cạn bắt sạch” không con nào sống sót. Môi trường ô nhiễm trầm trọng, các sinh vật lần lượt bị chết và tiệt chủng. Diễn ra tình trạng này là do sự quản lý yếu kém, quan lieu, tham ô của chính quyền và do sự nghèo đói, thất học của người nhân trong 70 năm qua.

Cha ông để lại không chỉ rừng vàng biển bạc mà còn để lại trong lòng tất cả một kho tàng. Những kho tàng này chỉ mình chính phủ mới được đặc quyền đặc lợi khai thác. Tuy nhiên với cách khai thác tài nguyên lên mà “chén” thì đến ngày tài nguyên cũng cạn kiệt. Dầu khí – vàng đen với trữ lượng khoảng 2,7 tỷ thùng hiện nay đang là “nồi cơm nóng” của chính phú. Tuy nhiên nồi cơm này đang mỗi ngày một vơi đi: “Trong thực tế sản lượng dầu ở VN đã bắt đầu giảm: năm 2005, sản lượng dầu thô của VN bình quân khoảng 370.000 thùng/ngày, thấp hơn so với năm 2004 (vốn là 403.000 thùng/ngày) gần 10%” Việt nam cũng có một nguồn than khổng lồ. Nhưng với cách khai thác và quản lý yếu kém, hầu như năm nào ngành than cũng báo cáo “lỗ”!?

Trước tình trạng nguồn tài nguyên bị cạn kiệt như vậy, các “nồi cơm” đang mỗi ngày vơi đi, thì 5,4 tỷ tấn bauxite sẽ là một “củ khoai” lớn cho chính quyền bám vào trong lúc sắp chết đói.

c. Tiền viện trợ:

Chế độ công sản thường rêu rao rằng: Chế độ tư bản đang “giãy chết”, đang tự đào mồ chôn mình. Tuy nhiên chế độ tư bản hiện này không thấy vay tiền của chế độ XHCN để kéo dài sự sống mà ngược lại. Dưới sự lãnh đạo “ngu dốt” của Đảng và nhà nước, CSVN đi vay tiền của bọn “đang giãy chết” về xây dựng “thiên đường” XHCN.

Tuy nhiên tuy đang “giãy chết” nhưng các nhà tư bản cho vay đều kèm theo những điều kiện. Mà điều kiện này thì luôn bất lợi cho bên vay, vì người đi vay, đi xin không được ra điều kiện, “đã ăn mày rồi còn đòi xôi gấc). Nên nhớ rằng các nhà tư bản không phải là những nhà làm từ thiện. Họ đã đi trước các “đỉnh cao trí tuệ của nhân loại” hàng thế kỷ về khoa học, kỹ thuật, kinh tế cũng như cách làm ăn kinh kế. Vốn ODA là vốn vay kiểu Cha vay Con Cháu Chắt phải trả. ODA là hình thức xuất khẩu “tư bản”. Nếu nhà Tư bản cho ta vay 100 đồng (100%) thì chính lúc cho vay họ đã lấy lại được 30 đồng (30%), nhưng thực tế chúng ta vẫn nợ họ 100 đồng bằng cách: phía vay phải chấp nhận Nhà thầu và Tư vấn của họ và kể cả công nghệ phải mua của họ. Tư vấn nước ngoài chúng ta phải chấp nhận trả một giá rất cao từ 20 nghìn USD đến 50 nghìn USD/tháng tương đương với từ 300-700 lao động có thu nhập trung bình của Việt Nam. Nhà thầu của họ, nên họ bỏ giá rất cao.

Ngoài ra ODA còn là một hình thức xuất khẩu văn hóa và bành chướng của Tư Bản, người Nhật Bản coi rằng: ở đâu có hàng hóa của Nhật, ở đâu có người Nhật là đất nước Nhật ở đó. Ngày xưa người ta mang súng đạn đi xâm chiếm các nước khác, ngày nay người ta mang tiền đi xâm chiếm, khai thác tài nguyên, bóc lột nhân dân lao động của quốc gia bản địa mà quốc gia này vẫn phải cảm ơn. Trên trường quốc tế thì phải luôn ủng những kẻ cho vay. Càng vay nhiều thì càng lệ thuộc nhiều.

CSVN hiểu hơn ai hết khoản vay ODA không phải là nguồn tài chính có mãi mà nó chỉ là khoản vay “nóng”. Đặc biệt là khi CSVN chần chừ trong vụ PCI, Nhật Bản bất ngờ tuyên bố tạm dừng cho vay đến khi nào Việt Nam có biện pháp hữu hiệu giảm trừ tệ nạn tham nhũng, lúc đó một loạt các dự án đang thực hiện và các dự án đang trong giai đoạn nghiên cứu khả thi đều phải dừng lại. Hơn nữa, đã vay là phải trả, mà khi trả thì phải trả gốc lẫn lãi, và cũng đã đến lúc phải trả. Như vậy CSVN phải đi tìm một nguồn kinh tế khác, an toàn hơn, dễ xơi hơn. Bauxite Tây nguyên không phải là đáp án sao!?, nên CSVN mới gọi là kế hoạch lớn.

2. Sự tồn tại của chế động không còn được lâu nữa:

Chế độ này đã được hình thành và nuôi dưỡng bằng chính xương máu của nhân dân, Nhưng khi nó trưởng thành nó trở lại đè đầu đè cổ áp bức và cướp bóc của nhân nhân.

Từ ngày chế độ này nó còn là trứng nước, nó đã được các địa chủ bỏ tiền ra nuôi nó. Đến khi nó đã trưởng thành nó quay lại hạ sát giới địa chủ. Thủ đoạn này không khác gì Hitle. Nhờ một khoản tiền khổng lồ do những người Do Thái đóng góp, Hitle đã thành công trên con đường chính trị của mình. Nhưng khi thành công, vì không muốn mang nợ người Do Thái, Hitle đã tìm các lý do để giết người Do Thái. Kết quả là hơn sáu triệu người Do Thái vô tội đã chết dưới tay kẻ mà mình đã nuôi dưỡng.

Cộng sản cũng vậy, sau khi cướp được chính quyền, dưới chiêu bài cải cách ruộng đất đã giết bao nhiêu người vô tội. “Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây một không khí kinh hoàng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, và tác hại mạnh đến sự đoàn kết dân tộc và nhiều thế hệ người Việt”. Với số người bị giết hại “trong chương trình Cái cách Rộng đất là không thể thống kê chính xác và còn gây tranh cãi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải tìm cho ra tỷ lệ 5% địa chủ, chúng ghép tội "Việt gian" để mang ra đấu tố thì con số sẽ không ít”. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con số người chết vô tội trong cái được gọi là “cải cách ruộng đất” lên tới 500.000 người.

Với chiêu bài độc lập dân tộc, nó đã đưa cả dân tộc VN vào cuộc chiến tương tàn. Hàng triệu triệu con người đã ngã xuống. Khi quyền lực đã hoàn toàn nắm trong tay, chúng tìm mọi thủ đoạn để tiêu diệt, bỏ tù những người không cùng chiến tuyến với mình. Chúng thực hiện chính sách ngu dân (diệt trí thức) và bần cùng hóa nhân dân (tập thể hóa, đánh tư sản) để dễ bề thống trị. Dưới ánh sáng mặt trời, lịch sử đã, đang và sẽ phơi bày mọi tội ác của chúng.

Những tội ác chúng đã làm và đang làm đã gây ra “một xã hội thật đang thối nát quá mức rồi. Nếu không tỉnh táo sửa đổi thì tin rằng những tên bạo ác CSVN bất chấp nhân tâm này, đang đẩy nhân dân đến con đường bần cùng hóa quá mức. Đồng thời còn triệt hạ con cháu chúng ta nữa.”

Chế độ CSVN chính bản thân nó đã hiểu hơn ai hết rằng nhân dân Việt Nam đã căm ghét cái chế độ độc tài toàn trị này. Nó không còn tự tung tự đắc nữa ngay cả khi nó dùng các thủ đoạn kinh tởm sau:

1. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ.

2. Phải giữ cho cái gọi là 'phong trào dân chủ đối lập' không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng.

3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để 'dân trí cao' không đồng nghĩa với 'ý thức dân chủ cao'.

4. Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hòa giai cấp trung lưu đang lớn mạnh (gọi là 'co-optation')…

Bọn chúng CSVN cũng chỉ dám hy vọng rằng “Chế độ của chúng vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn.”

Đấy là nếu thực hiện được các thủ đoạn nói trên thì chúng mới hy vọng sống thêm 20 năm nữa. Nhưng thực tế cho thấy: “Đa số Đảng viên và quan chức hiện nay đều hèn nhát, những người dũng cảm có tư cách thì rất ít, những người này đều không lên cao được. Những kẻ chức vụ càng cao thì không những hèn mà còn nhát, thượng đội hạ đạp. Bản chất bọn chúng là những kẻ sợ sệt đủ thứ, chúng chỉ hung hăng khi nắm quyền lực trong tay và đối xử thô bạo với kẻ dưới hoặc những người không có chút quyền gì. Tin rằng, khi có một sự thay đổi bọn người này là những kẻ trốn chạy đầu tiên hoặc quay đầu theo lực lượng mới. Bọn chúng đa số đều là những kẻ giàu có, giờ thì lắm tiền nhiều của, sợ chết và sẵn sàng trở thành kẻ phản bội cho người khác sai bảo nếu được đảm bảo rằng không làm gì bọn chúng.

Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắc và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa.” Dù thời gian thế nào chế độ phi nhân nhất định phải sụp đổ.

CSVN biết rằng mình không còn sống được bao nhiêu nữa, “lo sợ giờ G đang đến gần”, nên trước khi chết nó muốn khai thác tất cả những nguồn tài nguyên nào còn lại để chia chác cho nhau, sợ rằng nếu không khai thác thì sau này sẽ rơi vào chính quyền mới mà không phải là nó.

3. Được chia phần:

Những vụ án như PMU.18 và PCI, cho thấy các quan chức được chia phần rất lớn. Kẻ trực tiếp tham nhũng chỉ là những con chốt cùng lắm là “dê” để tế thần mà thôi. Mà thực ra không có áp lực của dư luận hay của Nhật bản thì những con chốt này vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Khi có áp lực thì những con chốt này bị bắt đưa vào nhà tù “năm sao”, khi dư luận lắng xuống thì những con chốt này mặc com-lê bước ra khỏi nhà tù lên xe BMW về nhà như trường hợp Nguyễn Việt Tiến.

Những vụ án tham nhũng bị phanh phui chẳng qua là lũ CSVN không thể che đậy được nữa đành phải đưa ra ánh sáng. Nếu không có vụ cá độ bóng đá triệu đô, thì đâu có biết Bùi Tiến Dũng tham những như thế nào, Nguyễn Việt Tiến ra sao, vì “trước khi chưa bị bắt thì bọn chúng luôn mang nhản hiệu là những đảng viên tốt” theo như một quan chức BGTVT đã nói. Nếu không có vụ hiếp dâm tuổi vị thành niên thì, Lương Quốc Dũng đâu phải “ngồi tù năm sao”. Nếu không có áp lực dừng viện trợ đột ngột của Nhật Bản thì làm gì có vụ PCI.

Hãy lắng nghe một đảng viên viết trong bài “lời bộc bạch của một đảng viên”: “Lê Thanh Hải đã chi ra cả trăm tỷ đồng để hối lộ cho những vị ủy viên Bộ Chính Trị vào tận Sài Gòn để xem xét việc cách chức ông ta vì dính đến vụ PCI. Bây giờ bọn chúng lại tuyên bố với đám đàn em kinh tài là vững như bàn thạch vì không những thế, chính tên Thủ Tướng CSVN còn nhận mấy triệu đô la nữa. Lúc này bọn chúng ra sức vơ vét và tạo điều kiện cho các đàn em kinh tài vơ vét để bù lại những gì đã phải chi ra để chạy tội. Những chuyện này giờ đây tồn tại như một sự tất yếu, chẳng có gì đáng ngạc nhiên.”

Những dự án vay tiền của nước ngoài, tiền thuế của nhân dân chúng còn ăn chia, thì một dự án bauxite khổng lồ như thế này, với toàn quyền lực trong tay sẽ là một sự ăn chia lớn, một miếng mồi béo bở.

4. Đã trót bán cho Trung Cộng:

Cái gọi là “Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc, nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức giữa Việt Cộng và Trung Cộng của tên Nông Đức Mạnh » từ ngày 30 tháng 11 đến ngày 4 tháng 12 năm 2001, ngoài khuôn khổ chung về hợp tác hợp tác kinh tế, thương mại,khoa học kỹ thuật và các lĩnh vực khác thì hai bên đã “nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông” và “Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông”.

Đây là những lời hoa mỹ có tính ngoại giao và công khai cho mọi người. Nhưng thực tế Nông Đức Manh đã đi đêm với Hồ Cẩm Đào. “Nông Đức Mạnh bàn việc riêng với nhân viên đối nhiệm của Trung Cộng trong những lần đến thăm Bắc Kinh và Đảo Hải Nam. Các điều khoản thỏa thuận và thi hành hoàn toàn được giữ bí mật, vả người ta chỉ được biết quyết định giữa hai Đảng Cộng Sản được xúc tiến từ 2006”.

Trước đây Phạm Văn Đồng dâng đảo, dâng biển cho Trung Quốc, Lê Khả Phiêu dâng đất liền cho Trung Quốc, thì việc Nông Đức Mạnh hiện nay bán hay hiến Tây Nguyên cho Trung Quốc cũng không có gì lạ lắm.

Hơn nữa CSVN hiện nay là một tập đoàn bạc nhược. Trong nước thì hà hiếp cướp bóc của dân, trắng trợn gần đây nhất là vụ cướp đất Thái Hà và Tòa Khâm Sứ, quốc tế thì theo như mọi người nhận xét “thái độ của cộng sản Việt Nam quá rụt rè, có thể nói là nhu nhược” trước vấn đề Trung Quốc cướp thêm biển thêm đảo. Trong khi nó đến cướp đất, cướp đảo và cướp biển còn không dám mở mồm, còn cấm những người yêu nước lên tiếng thì một khi đã trót hứa dâng-bán Tây Nguyên cho Trung Cộng rồi thì với bản chất nhu nhược như vậy đâu dám “đòi lại”.

Lời kết:

Tóm lại, việc khai thác bauxite để “duy trì chế độ, lo sợ giờ G sắp đến, được ăn chia và đã trót bán cho Quan thầy Trung Cộng” thì không phải là một “chủ chương lớn của cái đảng và nhà nước bạc nhược hay sao ?”

Trần Công Luận.

Ingen kommentarer: