Bauxite và Trọng Điểm Chiến Lược Cao Nguyên.
Về tầm quan trọng của vị thế chiến lược Cao Nguyên Trung Phần
Khởi đi từ quan niệm cổ xưa của các binh gia qua mọi thời đại, cấp chỉ huy nào ở ngoài chiến trường, cũng mau tìm chiếm nơi cao địa để dành lấy thế thượng phong. Điều đó đã trở thành một quy luật chung cho mọi chiến lược gia Đông, Tây, Kim, Cổ.
Do quan niệm đó, vị thế chiến lược của cao nguyên Trung phần Việt Nam xưa nay vẫn đóng một vai trò quyết định trong mọi hành động quân sự. Quyết định trong cả thế công cũng như thế thủ, trong thể loại chiến tranh du kích cũng như trong thể loại chiến tranh vận động.
Từ đầu thế kỷ 20, rồi trong suốt cuộc chiến Đông Dương (1946/1954) cho đến chiến tranh Việt Nam (1960/1975), câu nói đầu môi của cấp bộ lãnh đạo chiến tranh là: ai kiểm soát được cao nguyên, người đó dành được thế chủ động trong trận địa toàn miền Nam. Một bằng chứng lịch sử đã xác nhận điều đó: tháng 3 năm 1975, Bắc cộng đã huy động 12 sư đoàn dã chiến quyết tâm dứt điểm Ban Mê Thuột của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Tiếp sau đó, các tỉnh duyên hải, từ Phú Yên đến Phan Rang tiếp nối nhau thất thủ như một loạt domino.
Nay Trung Cộng được quyền khai thác những quặng mõ bauxite trên một diện tích được coi là bóc đi 2 phần 3 diện tích rừng ở Lâm Đồng và Dakrong thì Trung cộng sẽ làm được gì về mặt quân sự và quốc phòng?
Đây là một biến cố vô cùng trọng đại đối với sự tồn vong của Việt Nam . Trước hết, phóng tầm nhìn suốt chiều dài lịch sử Việt Nam từ nghìn xưa, Trung quốc chưa bao giờ buông bỏ mưu đồ hãm hại dân tộc Việt Nam và xâm chiếm nước ta.
Đối với một quân nhân có chút cảm quan chiến lược do bởi kinh nghiệm sống và chiến đấu ở Cao Nguyên Trung phần trong nhiều năm giữ chức vụ chỉ huy Quân Đoàn II cũng như Sư Đoàn 23 trước đó, tôi nghĩ rằng giá trị chiến lược của Cao Nguyên Lạng Biên và Daclac vượt xa mọi giá trị vật chất của quặng mõ bauxite đang được khai quật lên. Nói cách khác, mấy triệu tấn nhôm được khai thác chế biến sau này bán cho Trung quốc chẳng đáng giá gì so với việc nhập cư một nhân số ngoại lai đông đức không rõ xuất xứ, vào một địa bàn yết hầu của trận địa chủ yếu trong cuộc phòng thủ Cao Nguyên Trung phần.
Đọc quân sử, không ai lạ gì các mưu đồ “đạo quân thứ 5”, nội công ngoại kích, chuyện “Con Ngựa Thành Troie” cực kỳ khốn nạn. Đó là chưa nói đến tác hại lâu đời của bauxite. Vốn là một loại quặng để biến chế thành nhôm qua 2 đợt. Đợt 1, khi khai quật ra khỏi lòng đất , nghiã là bóc gở lớp đất hoa màu ở trên từ 1 đến 4 thước, nó trở thành một độc chất vô cùng nguy hại hiện chưa ai tìm được phương thức khử độc. Chính do vậy mà thế giới chỉ khai thác những vùng xa xôi, hẻo lánh, không có cư dân và hoa màu. Trung quốc cũng có khá nhiều mỏ bauxite, nhưng sợ đầu độc môi sinh nên không dám khai thác.
Thêm nữa, bauxite bốc lên phải dùng một lượng nước khổng lồ để rửa sạch trước khi biến chế sang đợt 2. Nước rửa này gọi là bùn đỏ (red sludge) cùng với bụi đỏ trong không khí là một độc chất, chảy tới đâu huỷ hoại mùa màng, giết chết muông thú, nhiễm độc suối nguồn vô thời hạn.
Tại Ba Tây và Úc châu, người ta tìm ra những khu lòng chảo, núi đá bao bọc, địa chất đất sét không thấm rỉ ra ngoài và dùng ống bê tong bơm bùn đỏ vào một vùng cô lập hoang vu, chứa tại đó cho đến khi nào khoa học tìm ra được phương thức khử độc. Ở Việt Nam chúng ta hiện nay, khai thác bauxite ở Daknong là vùng đầu nguồn của các nhánh sông Krong Ana, Đồng Nai chảy nhập về sông Saigon, các nhánh sông Bé, sông La Ngà, sông Vàm Cỏ chảy về miền Đông và châu thổ Nam phần. Nghĩ cho cùng, phải chăng đây là một thâm ý hãm hại lâu dài nòi giống Việt Nam !
Trong lúc này, các sản phẩm Cà Phê, Trà, Tiêu, Cao Su, v.v.. là những loại phẩm chất có tiếng trên thế giới, sẽ nhường chỗ cho một loại cỏ dại dị tướng chưa hề thấy mọc lên sau đó.
Trở lại vấn đề giá trị chiến lược của Cao Nguyên Trung phần. Đây là một kỳ quan chiến lược Trời Đất đã phú cho Việt Nam , một sự cấu tạo vô cùng tinh xảo của tạo hóa. Như một thành trì thiên nhiên bao gồm năm tỉnh hạt ở cao độ trung bình 1200 thước trên mặt biển, được bao bọc về hướng Đông bởi một bình nguyên duyên hải phì nhiêu, một hệ thống sông Ba Ngòi chảy vào một hải cảng thiên nhiên. Đó là Vịnh Cam Ranh với đầy đủ các điều kiện và lợi thế của một quân cảng chiến lược thủy bộ mà bao cường quốc Đông Tây đã ngấp nghé dòm ngó và đã có cơ hội xử dụng từ đầu thế kỷ 20. Như trường hợp của hạm đội Thái Bình Dương của Hoàng gia Nga, dưới quyền thủy sư Đô Đốc Nebogatov đã được Toàn Quyền Pháp ở Đông Dương cho cập bến Cam Ranh sau một cuộc hải hành 18 ngàn hải lý từ Bắc Hải đến đây để tái tiếp tế than, dầu, và nước ngọt trước khi lên đường đến Hoàng Hải để giao tranh với hải quân Phù Tang ngày 27-5-1905. Bộ Thuộc Địa và Bộ Chiến Tranh của Pháp quốc đã từng vận động ngân sách để chấn hưng Cam Ranh thành một căn cứ hùng mạnh ở Đông Nam Á. Kế hoạch chưa kịp thực hiện thì Đệ Nhị Thế Chiến đã xảy ra. Trong tiến trình thống lãnh Đông Nam Á, hải quân Nhật Bản đã điều động chiến hạm đến neo trong Vịnh, thiết trí một hệ thống lưới thép ngầm để ngăn chống tàu ngầm địch len lõi vào trong vịnh. Đại bác tầm xa cũng được gắn trong nhiều lô cốt kiên cố để chống trả mọi tấn công.
Trong chiến tranh Việt Nam vừa qua, quân lực Hoa Kỳ cũng đã canh tân, thiết bị cho Cam Ranh đủ tiện nghi của một quân cảng kể cả một phi đạo cho phản lực cơ dài 2 dặm. Khi quân Mỹ triệt thoái và chiến tranh Việt Nam chấm dứt, đến lượt Nga Sô thương lượng với Hà Nội muốn thuê Cam Ranh dài hạn để làm căn cứ hải quân ở Thái Bình Dương, thay thế cho Vladivostok ở Tây Bá Lợi Á bất tiện vì tù túng trong biển Nhật Bản và khí hậu mùa Đông khắc nghiệt. Nhưng kế hoạch trên bất thành vì Sô Viết toàn cầu tan hàng, rả ngũ. Hơn nữa, dễ gì Trung cộng để một sự việc như vậy xảy ra.
Ngày nay, Trung cộng đang ở cao điểm bành trướng thế lực ở Đông Nam Á như Nhật Bản trong Đệ Nhị Thế Chiến, lẻ nào không dòm ngó Cam Ranh? Đã ngang nhiên gom hết tất cả các hải đảo nằm giữa bán đảo Đông Dương và Phi Luật Tân làm đặc khu kinh tế của Trung cộng và thọc sâu xuống tận hải phận của Mã Lai Á và Nam Dương, tất nhiên cần có một cứ điểm song hành để bảo vệ cạnh sườn phía Tây. Đông Dương là trọng điểm chiến lược của Đông Nam Á. Và Cao Nguyên Trung phần là trọng điểm của Đông Dương.
Đó là lý do vì sao Trung cộng đã dồn áp lực hối thúc ký nhanh hiệp ước bauxite. Có những nguồn tin xuất phát từ thượng tầng của "Mặt Trận Tổ Quốc" thì thầm về những lời đe dọa của Trung quốc đối với Đảng, và mua chuộc đối với nhà nước Việt Nam . Cao nguyên chính là mục tiêu. Bauxite chỉ là cái cớ. Trung cộng đã vồ được một mối “nhất cử lưỡng tiện”. Chỉ có Việt Nam là mọi bề thua lỗ. Đang gặp hoàn cảnh kinh tế suy sụp, toàn bộ đồn điền cao nguyên phen này tiêu vong đời đời.
Cộng Sản Việt Nam có thể làm gì để chống lại mưu đồ Trung cộng?
Tối thiểu và cấp kỳ là nhà nước cộng sản Việt Nam phải bày tỏ thái độ ngay trước khi quá muộn. Bày tỏ thái độ để cho khối ASEAN lên tiếng phản kháng Trung quốc. Không gây hấn, nhưng tiếp đến là phải bày quân bố trí các địa thế xung yếu ở Cao Nguyên để nói lên rằng nếu Trung quốc quá lộng hành, ắt phải có phản ứng, có phản ứng tất nhiên Liên Hiệp Quốc phải lưu ý, và các nước ASEAN phải quan tâm.
Không lẽ “quân đội nhân dân anh hùng” từ nửa thế kỷ nay, với quân số hơn một triệu, cảnh sát công an thêm một triệu tay súng, lại cam tâm quỳ mẹp trước gót giày của quân cướp nước? Hãy noi gương của hải quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ở Hoàng Sa năm 1974, đánh một trận để lưu danh muôn thuở.
Cao Nguyên và Cam Ranh là thành trì thiên nhiên của Đông Nam Á, hãy tích cực xây dựng công sự phòng ngự để tự vệ. Chết vinh là ở đó mà Sống nhục cũng là ở đó.
Trong quá trình chi phối toàn bộ chính trị kinh tế quân sự của Trung quốc đối với Việt Nam trong mấy thập niên qua, nhân dân Việt Nam đã sẳn sàng câu trả lời:
Hồ Cẩm Đào nói “Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai”.
Nhân dân Việt Nam đã đáp lại: Láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, lấn biển lâu dài, thôn tính tương lai.
Hãy biến Đông Dương thành nấm mồ chôn quân xâm lược để cứu nguy giống nòi và đất nước Việt Nam.
Lữ Lan
søndag 24. mai 2009
lørdag 23. mai 2009
Một Ngàn Năm Ðô Hộ Giặc Tầu
Một Ngàn Năm Ðô Hộ Giặc Tầu.
“Một ngàn năm đô hộ giặc Tầu”. Cụm từ này tưởng đã thuộc về quá khứ lịch sử. Nhưng nào ai ngờ được ngày hôm nay câu nói trên đang có nguy cơ trở thành một thực tại mà nguyên nhân đưa đến thảm trạng này không ai khác hơn là cái chế độ bán nước buôn dân Cộng sản Việt Nam.
Ba mươi bốn mùa Quốc hận 30/4 đã trôi qua với biết bao thăng trầm trên quê hương Việt Nam. Ba mươi bốn năm Mẹ Việt Nam buồn khổ nhìn những giá trị tinh thần đạo đức ngày càng băng hoại trong xã hội và con người Việt Nam. Ba mươi bốn năm Mẹ Việt Nam cay đắng nhìn con dân nước Việt bị đem đi buôn bán làm nô lệ nơi xứ người. Ba mươi bốn năm Mẹ Việt Nam xót xa phẫn uất nhìn dòng sử Việt quằn quại dưới chủ thuyết ngoại lao của kẻ bán nước âm thầm lén lút dâng đất biển của tổ tiên cho Tầu Cộng. Những Ải Nam Quan (1973), Thác Bản Giốc (1976), bản Lủng Sẻo (1992), Hoàng Sa - Trường Sa (1988) và những hiệp ước cột mốc dâng đất biển (1999-2000) vẫn chưa đủ cho đàn anh Trung Cộng mãn nguyện. Để làm vừa lòng và giúp quan thầy Trung Cộng thực hiện mộng ước đô hộ Việt Nam, ngày hôm nay những tên đầy tớ CSVN đã không ngần ngại mở cửa Tây Nguyên để cho hàng trăm ngàn dân Tầu sang khai thác Bauxite. Một hành động phản bội tổ tiên dân tộc và cũng là một tội ác lớn nhất trong lịch sử Việt Nam !
Khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên là một hình thức cõng rắn Trung Cộng về cắn gà nhà Việt Nam. Trong khi dân tình điêu đứng trước số người thất nghiệp ngày càng gia tăng thì Nguyễn Tấn Dũng lại thản nhiên mời dân Trung Quốc sang làm việc để giật công ăn việc làm của người dân lầm than. Thêm vào đó, ngoài những thiệt hại về sự tàn phá môi sinh ảnh hưởng trầm trọng và lâu dài đến sự an nguy của dân tình cũng như những thiệt hại về kinh tế trong dài hạn cho đất nước, sự có mặt của hàng trăm ngàn người dân Tầu tại Tây nguyên là một mối nguy cơ rất lớn đối với an ninh quốc phòng. Còn một mối nguy cơ khác trầm trọng hơn nữa là thực hiện ý đồ thâm độc của Trung Cộng xử dụng chiêu bài kinh tế để mang dân họ sang VN đồng hóa dân tộc Việt Nam. Một chiêu bài “Việt Nam Hóa” chiến tranh không tốn một viên đạn để đạt đến mục đích đô hộ VN mà TQ ôm ấp thèm khát từ hơn 2000 năm qua. Chiêu bài này cũng giúp cho Trung Cộng giải quyết được vấn nạn trai thừa gái thiếu ở xứ sở họ.
Thật vậy, chính sách hạn chế sinh đẻ chỉ cho phép mỗi gia đình được quyền sanh một con đã đưa đến tình trạng gái thiếu trai thừa 320 triệu ở Trung Quốc ngày hôm nay. Để giải quyết vấn đề này, Trung Cộng cần gửi thanh niên qua Tây Nguyên lấy vợ VN. Còn về phiá VN, các cô gái nghèo khỏi cần phải rời xứ lấy chồng Đài Loan, kết hôn với anh chồng Tàu ngay trên quê hương là tiện mọi bề. Phong trào lấy chồng Trung Quốc sẽ nở rộ khắp mọi miền. Những đứa con mang hai giòng máu sẽ có nhiều xác xuất nói tiếng Tàu. Và chả bao lâu sẽ nảy sinh ra cái xã hội Tầu ngay trên đất nước Việt Nam, với những dịch vụ thương mại, trường học, nhà thương, v.v... mang bảng hiệu viết bằng chữ Tàu mọc ra như nấm. Cả vùng tây nguyên sẽ trở thành một “tiểu vương quốc” Tàu ngay trên đất nước Việt Nam. Tiểu vương quốc này ngày càng lan rộng với thời gian và chỉ cần vài thế hệ chạy theo đồng tiền là người dân Việt Nam sẽ không còn biết hay thiết tha gì đến tiếng mẹ đẻ hay văn hóa Việt Nam. Khi văn hóa Việt không còn thì đất nước VN rồi cũng sẽ chẳng còn. Và cái hiểm họa một ngàn năm đô hộ giặc Tầu sẽ có nguy cơ trở thành vĩnh viễn một khi con người VN đã đánh mất văn hóa mình.
Trong mùa tưởng niệm 34 năm Quốc Hận 30/4 năm nay, một câu hỏi cần phải được đặt ra cho mỗi người con dân nước Việt là chúng ta phải làm gì trước hiểm hoạ “một ngàn năm đô hộ giặc Tầu”. Chỉ có một câu trả lời duy nhất là chính người dân Việt phải quyết tâm đứng lên bứng tận gốc rễ nguyên đưa đến hiểm họa này là cái chế độ bán nước buôn dân Cộng sản Việt Nam. Chủ quyền độc lập của một quốc gia phải do chính dân tộc đó tự quyết mà thôi. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều đó. Và người dân Việt ngày hôm nay ở trong cũng như ở ngoài nước không còn sự chọn lựa nào khác hơn là phải nhận gánh lấy trách nhiệm này.
Nam Dao
“Một ngàn năm đô hộ giặc Tầu”. Cụm từ này tưởng đã thuộc về quá khứ lịch sử. Nhưng nào ai ngờ được ngày hôm nay câu nói trên đang có nguy cơ trở thành một thực tại mà nguyên nhân đưa đến thảm trạng này không ai khác hơn là cái chế độ bán nước buôn dân Cộng sản Việt Nam.
Ba mươi bốn mùa Quốc hận 30/4 đã trôi qua với biết bao thăng trầm trên quê hương Việt Nam. Ba mươi bốn năm Mẹ Việt Nam buồn khổ nhìn những giá trị tinh thần đạo đức ngày càng băng hoại trong xã hội và con người Việt Nam. Ba mươi bốn năm Mẹ Việt Nam cay đắng nhìn con dân nước Việt bị đem đi buôn bán làm nô lệ nơi xứ người. Ba mươi bốn năm Mẹ Việt Nam xót xa phẫn uất nhìn dòng sử Việt quằn quại dưới chủ thuyết ngoại lao của kẻ bán nước âm thầm lén lút dâng đất biển của tổ tiên cho Tầu Cộng. Những Ải Nam Quan (1973), Thác Bản Giốc (1976), bản Lủng Sẻo (1992), Hoàng Sa - Trường Sa (1988) và những hiệp ước cột mốc dâng đất biển (1999-2000) vẫn chưa đủ cho đàn anh Trung Cộng mãn nguyện. Để làm vừa lòng và giúp quan thầy Trung Cộng thực hiện mộng ước đô hộ Việt Nam, ngày hôm nay những tên đầy tớ CSVN đã không ngần ngại mở cửa Tây Nguyên để cho hàng trăm ngàn dân Tầu sang khai thác Bauxite. Một hành động phản bội tổ tiên dân tộc và cũng là một tội ác lớn nhất trong lịch sử Việt Nam !
Khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên là một hình thức cõng rắn Trung Cộng về cắn gà nhà Việt Nam. Trong khi dân tình điêu đứng trước số người thất nghiệp ngày càng gia tăng thì Nguyễn Tấn Dũng lại thản nhiên mời dân Trung Quốc sang làm việc để giật công ăn việc làm của người dân lầm than. Thêm vào đó, ngoài những thiệt hại về sự tàn phá môi sinh ảnh hưởng trầm trọng và lâu dài đến sự an nguy của dân tình cũng như những thiệt hại về kinh tế trong dài hạn cho đất nước, sự có mặt của hàng trăm ngàn người dân Tầu tại Tây nguyên là một mối nguy cơ rất lớn đối với an ninh quốc phòng. Còn một mối nguy cơ khác trầm trọng hơn nữa là thực hiện ý đồ thâm độc của Trung Cộng xử dụng chiêu bài kinh tế để mang dân họ sang VN đồng hóa dân tộc Việt Nam. Một chiêu bài “Việt Nam Hóa” chiến tranh không tốn một viên đạn để đạt đến mục đích đô hộ VN mà TQ ôm ấp thèm khát từ hơn 2000 năm qua. Chiêu bài này cũng giúp cho Trung Cộng giải quyết được vấn nạn trai thừa gái thiếu ở xứ sở họ.
Thật vậy, chính sách hạn chế sinh đẻ chỉ cho phép mỗi gia đình được quyền sanh một con đã đưa đến tình trạng gái thiếu trai thừa 320 triệu ở Trung Quốc ngày hôm nay. Để giải quyết vấn đề này, Trung Cộng cần gửi thanh niên qua Tây Nguyên lấy vợ VN. Còn về phiá VN, các cô gái nghèo khỏi cần phải rời xứ lấy chồng Đài Loan, kết hôn với anh chồng Tàu ngay trên quê hương là tiện mọi bề. Phong trào lấy chồng Trung Quốc sẽ nở rộ khắp mọi miền. Những đứa con mang hai giòng máu sẽ có nhiều xác xuất nói tiếng Tàu. Và chả bao lâu sẽ nảy sinh ra cái xã hội Tầu ngay trên đất nước Việt Nam, với những dịch vụ thương mại, trường học, nhà thương, v.v... mang bảng hiệu viết bằng chữ Tàu mọc ra như nấm. Cả vùng tây nguyên sẽ trở thành một “tiểu vương quốc” Tàu ngay trên đất nước Việt Nam. Tiểu vương quốc này ngày càng lan rộng với thời gian và chỉ cần vài thế hệ chạy theo đồng tiền là người dân Việt Nam sẽ không còn biết hay thiết tha gì đến tiếng mẹ đẻ hay văn hóa Việt Nam. Khi văn hóa Việt không còn thì đất nước VN rồi cũng sẽ chẳng còn. Và cái hiểm họa một ngàn năm đô hộ giặc Tầu sẽ có nguy cơ trở thành vĩnh viễn một khi con người VN đã đánh mất văn hóa mình.
Trong mùa tưởng niệm 34 năm Quốc Hận 30/4 năm nay, một câu hỏi cần phải được đặt ra cho mỗi người con dân nước Việt là chúng ta phải làm gì trước hiểm hoạ “một ngàn năm đô hộ giặc Tầu”. Chỉ có một câu trả lời duy nhất là chính người dân Việt phải quyết tâm đứng lên bứng tận gốc rễ nguyên đưa đến hiểm họa này là cái chế độ bán nước buôn dân Cộng sản Việt Nam. Chủ quyền độc lập của một quốc gia phải do chính dân tộc đó tự quyết mà thôi. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều đó. Và người dân Việt ngày hôm nay ở trong cũng như ở ngoài nước không còn sự chọn lựa nào khác hơn là phải nhận gánh lấy trách nhiệm này.
Nam Dao
Nữ Ðạo Diễn Ðiện Ảnh Song Chi Xin Ty. Nạn
Nữ Ðạo Diễn Ðiện Ảnh Song Chi Xin Ty. Nạn.
Nữ đạo diên Song Chi là tác giả của phim truyện dài 18 tập mang tựa
đề Nữ bác sĩ do Hãng phim truyền hình Sài Gòn (TFS) sản xuất
hiện đang trình chiếu trên VTV4, kênh truyền hình tuyên truyền của Đài Truyền hình CSVN.
Song Chi đã tham gia cuộc biểu tình ở Sài Gòn đầu năm 2008 lên án nhà
cầm quyền cộng sản Trung Cộng xâm lược lãnh hải Việt Nam. Cuộc biểu tình
này đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đàn áp. Chị và nhiều người tham
gia biểu tình đã bị công an cộng sản ở Sài Gồn liên tục theo dõi, thẩm
vân, đe doạ.
Nữ đạo diễn Song Chi đã bị Hãng phim truyền hình Sài Gồn và các Hãng phim quốc doanh khác cắt hợp đồng làm việc.
Nhân sự kiện nữ đạo diễn Song Chi xin tỵ nạn chính trị tại Vương Quốc Na Uy, xin giới thiệu bài viết của nữ đạo diễn Song Chi mang bựa đề: Nỗi Buồn Mang Tên Viêt Nam.
Bài này đã đăng trên blog của chị sau khi tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc năm 2008.
Nỗi Buồn Mang Tên Việt Nam.
Tôi biết rằng đối với tôi và những người bạn đã tham gia cuộc biểu tình tưởng niệm 34 năm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Cộng ngày 19.1.2008 (19.1.1974-19.1.2008) một cuộc biểu tình ngắn ngủi trước khi bị dập tắt nhanh chóng, nỗi buồn lớn nhất, sự chua xót lớn nhất đó là vì sao chúng ta không được phép lên tiếng? Nỗi buồn đó tôi cũng đã đọc thấy trong những đôi mắt ngơ ngác của những em sinh viên học sinh trong những ngày 9.12, 16.12 vừa qua khi những cuộc biểu tình của sinh viên học sinh và một số văn nghệ sĩ phản đối nhà cầm quyền Trung Cộng xâm lược Trường Sa, Hoàng Sa đã bị cản trở, làm khó dễ và sau đó là đủ mọi biện pháp đã được áp dụng để ngăn chặn ngay từ đầu.
Vì sao? Vì sao chúng ta không được phép lên tiếng ngay cả khi lẽ phải thuộc về dân tộc ta? Có những lúc tình cờ đôi mắt ngơ ngác của một em sinh viên nào đó rơi trúng vào tôi, tôi nhìn thấy nỗi buồn trong đôi mắt em như em cũng đọc thấy sự chua xót trong tôi, và càng chua xót hơn nữa là cả hai cùng có câu trả lời nhưng thể nói lên lời. Thôi em ơi hãy về nhà lo học hành, làm một đứa con ngoan của ba mẹ thậm chí không lo học hành cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian và tuổi trẻ của chính mình, tham gia vào mấy chuyện này làm gì không có lợi.
Còn tôi ơi tôi cũng nên đi về nhà làm công việc của mình lo kiếm tiền lo kiếm danh, tham gia vào mấy chuyện này làm gì không có lợi. Chính cách xử sự của Nhà nước Việt Nam trong suốt những ngày qua đã làm cho bất cứ người dân Việt Nam nào nếu còn quan tâm đến vận mệnh đất nước đều cảm thấy chua xót, cay đắng, nhục nhã. Đồng thời, những ai nếu còn rơi rớt chút ngây thơ do đã được giáo dục theo kiểu một chiều, bưng bít thông tin quá lâu, ắt hẳn cũng tỉnh ngộ ra ít nhiều. À thì ra ngay cả biểu tình bộc lộ lòng yêu nước và là một phản ứng tối thiểu cần phải có của một dân tộc trước họa xâm lăng rành rành trước mắt của một nước khác mà còn “không được phép”, còn bị ngăn cấm thì hy vọng gì biểu tình để phản kháng trước bất cứ chuyện gì là nguyên nhân gây nên sự phi lý, bất công trong xã hội, hoặc đụng chạm đến quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong xã hội, hoặc kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước và có hại cho vận mệnh của quốc gia, của dân tộc…?
Trong những ngày này, trái tim của bao người Việt Nam đang rỉ máu. Nỗi đau bị cướp đất cướp biển ngay trước mắt, nỗi lo họa xâm lăng lâu dài, nhưng đau đớn hơn là thái độ hèn nhát đến không hiểu nổi của bạo quyền CSVN và sự vô cảm, dửng dưng của rất nhiều người cùng là đồng bào với mình. Có một điều nghĩ cũng lạ lùng, bao nhiêu năm qua, máu xương của dân tộc này đã phải đổ xuống quá nhiều, và những vết thương trong lòng người còn nhiều hơn, một dân tộc như vậy lẽ ra phải ngộ ra, tỉnh ra với một lực phản tỉnh cực kỳ mạnh mẽ để không được phép sai lầm nữa. Vậy mà…chưa bao giờ trong lịch sử, những người lãnh đạo đất nước lại hèn nhát, bảo thủ đến cùng như lúc này, thà mất nước chứ nhất định không chịu từ bỏ con đường sai, không chịu mất quyền lực, và chưa bao giờ mỗi lần con số ít ỏi những người dân Việt dám cất lên tiếng nói lương tâm lại cảm thấy cô đơn, lẻ loi giữa cộng đồng và bất lực như lúc này!
Nếu nói tính cách của con người làm nên số phận thì tính cách của một dân tộc cũng tạo nên số phận của chính dân tộc đó. Dân tộc tôi, bất hạnh thay, là một dân tộc cạn nghĩ, cục bộ, hay chia rẽ, lại thêm chưa hề được hưởng một nền dân chủ thực sự bao giờ, nên cũng chưa hề biết sử dụng đúng nghĩa quyền công dân và quyền làm người của mình. Dân tộc tôi, bất hạnh thay, trong mọi lĩnh vực đều hiếm hoi người tài, chính trị cũng vậy, không có nổi ít nhất một nhân vật biết (hoặc dám) chọn một con đường đi khôn ngoan hơn rộng rãi hơn cho dân tộc, biết (hoặc dám) đặt vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc lên trên quyền lợi của một giai cấp , một đảng phái.
Vậy cho nên em ơi hãy về nhà lo học hành hoặc không học hành thì cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian tuổi trẻ của em. Còn tôi thì đi làm công việc của mình lo bon chen kiếm chút tiền kiếm chút danh như phần đông những người khác đang sống quanh tôi. Bởi vì nếu em hay tôi hay bạn bè tôi còn tiếp tục bức xúc muốn lên tiếng muốn bày tỏ thái độ công dân lòng yêu nước hay bất cứ một cảm xúc nào khác, sẽ nhận được gì chúng ta đều biết trước. Nhưng sự cay đắng lớn nhất nhiều khi không phải từ những gì chúng ta phải nhận từ phía bạo quyền mà từ những người chung quanh. Người ta sẽ nhìn chúng ta như những kẻ rỗi hơi thừa giờ đi làm những việc tào lao, những kẻ thiếu khôn ngoan hoặc cố tình lập dị, hoặc bất tài, thất bại, có điều gì bất mãn cá nhân nên đâm ra bất mãn xã hội, còn nếu ta không thất bại mà lại có chút thành đạt trong công việc của mình, thậm chí thuộc loại có tiền thì chắc là… muốn chơi trội để gây chú ý! Người ta sẽ khuyên chúng ta thôi hãy lo làm việc của mình đi, nếu chưa có bằng cấp thì lo đi kiếm cái bằng đi nếu chưa có tài sản thì lo đi kiếm tiền đi nếu chưa có gia đình thì lo đi lấy vợ lấy chồng đi, làm gì cũng đựơc, chuyện lớn đã có Nhà nước lo.
Điều gì sẽ xảy ra với một dân tộc đã quen được giáo dục để suy nghĩ theo một chiều, quen sống trong bạc nhược, sợ hãi, luôn luôn tự biên tập, tự kiểm duyệt chính mình, chỉ muốn an thân, gần như vô cảm trước mọi chuyện đang xảy ra ngay trên đất nước mình, mất lòng tin vào mọi thứ và chia rẽ, nghi kỵ lẫn nhau?
Điều gì sẽ xảy ra với một dân tộc mà trong xã hội những sự vô lý bất công bất bình thường nhất cũng trở thành bình thường còn điều tốt đẹp, sự tử tế, tính trung thực, lòng dũng cảm lại trở thành hiếm hoi?
Điều gì sẽ xảy ra với một dân tộc mà ngay cả khi lòng tự cường, tinh thần tự tôn vừa mới được nhen nhúm đã lại bị vùi dập phũ phàng?
Thôi mà em ơi nghĩ đến những chuyện đó làm gì hãy về nhà lo học hành hoặc không học hành thì cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian tuổi trẻ của em. Còn tôi thì đi làm công việc của mình lo bon chen kiếm chút tiền kiếm chút danh sống đời yên ấm, rồi nếu có bức xúc lắm chuyện xã hội thì ta có thể chửi đổng trong những buổi ngồi quán café quán nhậu với bạn bè, chửi như thế vừa hả tức vừa được tiếng quan tâm đến xã hội mà lại không thiệt hại gì, ta cũng có thể tha hồ nói về dân chủ nhân quyền tự do trong những cuộc nhậu, nói thôi và đừng làm gì hết.
Nhưng... liệu em và tôi có sẽ chấp nhận sống như thế không?
Song Chi
Nữ đạo diên Song Chi là tác giả của phim truyện dài 18 tập mang tựa
đề Nữ bác sĩ do Hãng phim truyền hình Sài Gòn (TFS) sản xuất
hiện đang trình chiếu trên VTV4, kênh truyền hình tuyên truyền của Đài Truyền hình CSVN.
Song Chi đã tham gia cuộc biểu tình ở Sài Gòn đầu năm 2008 lên án nhà
cầm quyền cộng sản Trung Cộng xâm lược lãnh hải Việt Nam. Cuộc biểu tình
này đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đàn áp. Chị và nhiều người tham
gia biểu tình đã bị công an cộng sản ở Sài Gồn liên tục theo dõi, thẩm
vân, đe doạ.
Nữ đạo diễn Song Chi đã bị Hãng phim truyền hình Sài Gồn và các Hãng phim quốc doanh khác cắt hợp đồng làm việc.
Nhân sự kiện nữ đạo diễn Song Chi xin tỵ nạn chính trị tại Vương Quốc Na Uy, xin giới thiệu bài viết của nữ đạo diễn Song Chi mang bựa đề: Nỗi Buồn Mang Tên Viêt Nam.
Bài này đã đăng trên blog của chị sau khi tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc năm 2008.
Nỗi Buồn Mang Tên Việt Nam.
Tôi biết rằng đối với tôi và những người bạn đã tham gia cuộc biểu tình tưởng niệm 34 năm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Cộng ngày 19.1.2008 (19.1.1974-19.1.2008) một cuộc biểu tình ngắn ngủi trước khi bị dập tắt nhanh chóng, nỗi buồn lớn nhất, sự chua xót lớn nhất đó là vì sao chúng ta không được phép lên tiếng? Nỗi buồn đó tôi cũng đã đọc thấy trong những đôi mắt ngơ ngác của những em sinh viên học sinh trong những ngày 9.12, 16.12 vừa qua khi những cuộc biểu tình của sinh viên học sinh và một số văn nghệ sĩ phản đối nhà cầm quyền Trung Cộng xâm lược Trường Sa, Hoàng Sa đã bị cản trở, làm khó dễ và sau đó là đủ mọi biện pháp đã được áp dụng để ngăn chặn ngay từ đầu.
Vì sao? Vì sao chúng ta không được phép lên tiếng ngay cả khi lẽ phải thuộc về dân tộc ta? Có những lúc tình cờ đôi mắt ngơ ngác của một em sinh viên nào đó rơi trúng vào tôi, tôi nhìn thấy nỗi buồn trong đôi mắt em như em cũng đọc thấy sự chua xót trong tôi, và càng chua xót hơn nữa là cả hai cùng có câu trả lời nhưng thể nói lên lời. Thôi em ơi hãy về nhà lo học hành, làm một đứa con ngoan của ba mẹ thậm chí không lo học hành cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian và tuổi trẻ của chính mình, tham gia vào mấy chuyện này làm gì không có lợi.
Còn tôi ơi tôi cũng nên đi về nhà làm công việc của mình lo kiếm tiền lo kiếm danh, tham gia vào mấy chuyện này làm gì không có lợi. Chính cách xử sự của Nhà nước Việt Nam trong suốt những ngày qua đã làm cho bất cứ người dân Việt Nam nào nếu còn quan tâm đến vận mệnh đất nước đều cảm thấy chua xót, cay đắng, nhục nhã. Đồng thời, những ai nếu còn rơi rớt chút ngây thơ do đã được giáo dục theo kiểu một chiều, bưng bít thông tin quá lâu, ắt hẳn cũng tỉnh ngộ ra ít nhiều. À thì ra ngay cả biểu tình bộc lộ lòng yêu nước và là một phản ứng tối thiểu cần phải có của một dân tộc trước họa xâm lăng rành rành trước mắt của một nước khác mà còn “không được phép”, còn bị ngăn cấm thì hy vọng gì biểu tình để phản kháng trước bất cứ chuyện gì là nguyên nhân gây nên sự phi lý, bất công trong xã hội, hoặc đụng chạm đến quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong xã hội, hoặc kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước và có hại cho vận mệnh của quốc gia, của dân tộc…?
Trong những ngày này, trái tim của bao người Việt Nam đang rỉ máu. Nỗi đau bị cướp đất cướp biển ngay trước mắt, nỗi lo họa xâm lăng lâu dài, nhưng đau đớn hơn là thái độ hèn nhát đến không hiểu nổi của bạo quyền CSVN và sự vô cảm, dửng dưng của rất nhiều người cùng là đồng bào với mình. Có một điều nghĩ cũng lạ lùng, bao nhiêu năm qua, máu xương của dân tộc này đã phải đổ xuống quá nhiều, và những vết thương trong lòng người còn nhiều hơn, một dân tộc như vậy lẽ ra phải ngộ ra, tỉnh ra với một lực phản tỉnh cực kỳ mạnh mẽ để không được phép sai lầm nữa. Vậy mà…chưa bao giờ trong lịch sử, những người lãnh đạo đất nước lại hèn nhát, bảo thủ đến cùng như lúc này, thà mất nước chứ nhất định không chịu từ bỏ con đường sai, không chịu mất quyền lực, và chưa bao giờ mỗi lần con số ít ỏi những người dân Việt dám cất lên tiếng nói lương tâm lại cảm thấy cô đơn, lẻ loi giữa cộng đồng và bất lực như lúc này!
Nếu nói tính cách của con người làm nên số phận thì tính cách của một dân tộc cũng tạo nên số phận của chính dân tộc đó. Dân tộc tôi, bất hạnh thay, là một dân tộc cạn nghĩ, cục bộ, hay chia rẽ, lại thêm chưa hề được hưởng một nền dân chủ thực sự bao giờ, nên cũng chưa hề biết sử dụng đúng nghĩa quyền công dân và quyền làm người của mình. Dân tộc tôi, bất hạnh thay, trong mọi lĩnh vực đều hiếm hoi người tài, chính trị cũng vậy, không có nổi ít nhất một nhân vật biết (hoặc dám) chọn một con đường đi khôn ngoan hơn rộng rãi hơn cho dân tộc, biết (hoặc dám) đặt vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc lên trên quyền lợi của một giai cấp , một đảng phái.
Vậy cho nên em ơi hãy về nhà lo học hành hoặc không học hành thì cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian tuổi trẻ của em. Còn tôi thì đi làm công việc của mình lo bon chen kiếm chút tiền kiếm chút danh như phần đông những người khác đang sống quanh tôi. Bởi vì nếu em hay tôi hay bạn bè tôi còn tiếp tục bức xúc muốn lên tiếng muốn bày tỏ thái độ công dân lòng yêu nước hay bất cứ một cảm xúc nào khác, sẽ nhận được gì chúng ta đều biết trước. Nhưng sự cay đắng lớn nhất nhiều khi không phải từ những gì chúng ta phải nhận từ phía bạo quyền mà từ những người chung quanh. Người ta sẽ nhìn chúng ta như những kẻ rỗi hơi thừa giờ đi làm những việc tào lao, những kẻ thiếu khôn ngoan hoặc cố tình lập dị, hoặc bất tài, thất bại, có điều gì bất mãn cá nhân nên đâm ra bất mãn xã hội, còn nếu ta không thất bại mà lại có chút thành đạt trong công việc của mình, thậm chí thuộc loại có tiền thì chắc là… muốn chơi trội để gây chú ý! Người ta sẽ khuyên chúng ta thôi hãy lo làm việc của mình đi, nếu chưa có bằng cấp thì lo đi kiếm cái bằng đi nếu chưa có tài sản thì lo đi kiếm tiền đi nếu chưa có gia đình thì lo đi lấy vợ lấy chồng đi, làm gì cũng đựơc, chuyện lớn đã có Nhà nước lo.
Điều gì sẽ xảy ra với một dân tộc đã quen được giáo dục để suy nghĩ theo một chiều, quen sống trong bạc nhược, sợ hãi, luôn luôn tự biên tập, tự kiểm duyệt chính mình, chỉ muốn an thân, gần như vô cảm trước mọi chuyện đang xảy ra ngay trên đất nước mình, mất lòng tin vào mọi thứ và chia rẽ, nghi kỵ lẫn nhau?
Điều gì sẽ xảy ra với một dân tộc mà trong xã hội những sự vô lý bất công bất bình thường nhất cũng trở thành bình thường còn điều tốt đẹp, sự tử tế, tính trung thực, lòng dũng cảm lại trở thành hiếm hoi?
Điều gì sẽ xảy ra với một dân tộc mà ngay cả khi lòng tự cường, tinh thần tự tôn vừa mới được nhen nhúm đã lại bị vùi dập phũ phàng?
Thôi mà em ơi nghĩ đến những chuyện đó làm gì hãy về nhà lo học hành hoặc không học hành thì cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian tuổi trẻ của em. Còn tôi thì đi làm công việc của mình lo bon chen kiếm chút tiền kiếm chút danh sống đời yên ấm, rồi nếu có bức xúc lắm chuyện xã hội thì ta có thể chửi đổng trong những buổi ngồi quán café quán nhậu với bạn bè, chửi như thế vừa hả tức vừa được tiếng quan tâm đến xã hội mà lại không thiệt hại gì, ta cũng có thể tha hồ nói về dân chủ nhân quyền tự do trong những cuộc nhậu, nói thôi và đừng làm gì hết.
Nhưng... liệu em và tôi có sẽ chấp nhận sống như thế không?
Song Chi
Trung Cộng Ðưa Tàu Chiến Ðến Hoàng Sa
Trung Cộng Ðưa Tàu Chiến Ðến Hoàng Sa.
Trung Cộng đã đưa tàu chiến tới Hoàng Sa, một ngày sau khi CSVN phản đối việc Bắc Kinh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông.
Tân Hoa Xã loan tin tàu Ngư Chính (số 44183) lớn nhất của tỉnh Quảng Đông lần đầu tiên tuần tra quần đảo Hoàng Sa đã tới cảng Tam Á ngày 17 tháng 5 sau chuyến hành trình 360 hải lý.
Chiếc thuyền này cùng với một thuyền Ngư Chính khác (số 44061) xuất phát từ thành phố Trạm Giang hợp thành biên đội sẽ đến hải vực "Tây Sa" vào ngày 19 tháng 5 để tiến hành hoạt động tuần tra nghề cá và bảo vệ chủ quyền.
Trước đó, theo hãng thông tấn Đức DPA từ Hà Nội hôm 18/05/09, phía CSVN đã xác nhận chuyện phản đối tuyên bố của Trung Cộng về việc cấm đánh cá ở nhiều vùng tại Biển Đông từ ngày 16 tháng 05 tới ngày 01 tháng 08 để tránh đánh cá quá mức.
Phát ngôn Bộ Ngoại giao CSVN Lê Dũng khẳng định chủ quyền đối với đặc khu kinh tế xung quanh đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi việc áp đặt lệnh cấm của Trung Cộng là 'xâm phạm lãnh thổ Việt Nam'.
Lê Dũng cũng kêu gọi Trung Cộng giải quyết vấn đề đánh cá và các tranh cãi khác theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Trung Quốc nói bất kỳ tàu đánh cá nào, dù là của Trung Cộng hay của nước ngoài, không tuân theo lệnh cấm đánh cá cũng sẽ bị trừng phạt.
Từ tin DPA cũng trích lời Chủ tịch Hiệp hội Hải sản Việt Nam Nguyễn Việt Thắng nói rằng việc cấm đánh cá của Trung Cộng sẽ gây thiệt hại kinh tế đáng kể cho CSVN.
Ngay cả khi các tàu đánh cá Việt Nam không hoạt động trong các vùng biển (bị cấm) này, Trung Cộng vẫn bắt họ và đòi tiền phạt.
Trong khi đó theo Tân Hoa Xã, chỉ huy phụ trách tàu Ngư Chính Chu Thế Hùng cho biết tàu Ngư Chính lớn nhất Quảng Đông thuộc về tổng đội Chu Hải sẽ tuần tra quần đảo "Tây Sa" trong vòng nửa tháng.
Đây cũng là lần đầu tiên chi đội Chu Hải thuộc Ngư Chính Quảng Đông tham gia tổ chức tuần tra với khu cục "Nam Hải" làm nhiệm vụ tại quần đảo "Tây Sa", và cũng là lần đầu tiên làm nhiệm vụ viễn dương ở khu vực xa nhất.
Theo Chu Thế Hải đã nói với Tân Hoa Xã rằng tàu Ngư Chính 44183 là tàu có trọng tải lớn nhất của tỉnh Quảng Đông, sức bạt nước 500 tấn và di chuyển với vận tốc rất nhanh.
Hệ thống thiết bị thông tin của Ngư Chính 44183 được cho là tiên tiến so với các tàu khác, có phòng thí nghiệm và các thiết bị đo đạc chụp hình dưới đáy biển.
Hãng tin DPA nói căng thẳng về chủ quyền Biển Đông đã tăng lên sau hạn chót ngày 13 tháng Năm để các nước trình đòi hỏi chủ quyền cho Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Bắc Kinh đã bác bỏ đòi hỏi chủ quyền của CSVN, Malaysia và một số nước khác và nói các đòi hỏi này vi phạm tuyên bố chủ quyền của chính Trung Cộng ở biển 'Nam Trung Hoa'.
Trong một bài trên báo Singapore, tờ Strait Times 18/05, học giả Michael Richardson nói trên thực tế Trung Cộng đang đòi làm chủ "80 phần trăm vùng biển Đông Nam Á", không chỉ gồm tất cả các đảo và quần đảo mà còn đến sát cả bờ biển bang Sarawak của Malaysia và đảo Natula của Indonesia.
Tin Tổng Hợp: DPA
Trung Cộng đã đưa tàu chiến tới Hoàng Sa, một ngày sau khi CSVN phản đối việc Bắc Kinh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông.
Tân Hoa Xã loan tin tàu Ngư Chính (số 44183) lớn nhất của tỉnh Quảng Đông lần đầu tiên tuần tra quần đảo Hoàng Sa đã tới cảng Tam Á ngày 17 tháng 5 sau chuyến hành trình 360 hải lý.
Chiếc thuyền này cùng với một thuyền Ngư Chính khác (số 44061) xuất phát từ thành phố Trạm Giang hợp thành biên đội sẽ đến hải vực "Tây Sa" vào ngày 19 tháng 5 để tiến hành hoạt động tuần tra nghề cá và bảo vệ chủ quyền.
Trước đó, theo hãng thông tấn Đức DPA từ Hà Nội hôm 18/05/09, phía CSVN đã xác nhận chuyện phản đối tuyên bố của Trung Cộng về việc cấm đánh cá ở nhiều vùng tại Biển Đông từ ngày 16 tháng 05 tới ngày 01 tháng 08 để tránh đánh cá quá mức.
Phát ngôn Bộ Ngoại giao CSVN Lê Dũng khẳng định chủ quyền đối với đặc khu kinh tế xung quanh đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi việc áp đặt lệnh cấm của Trung Cộng là 'xâm phạm lãnh thổ Việt Nam'.
Lê Dũng cũng kêu gọi Trung Cộng giải quyết vấn đề đánh cá và các tranh cãi khác theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Trung Quốc nói bất kỳ tàu đánh cá nào, dù là của Trung Cộng hay của nước ngoài, không tuân theo lệnh cấm đánh cá cũng sẽ bị trừng phạt.
Từ tin DPA cũng trích lời Chủ tịch Hiệp hội Hải sản Việt Nam Nguyễn Việt Thắng nói rằng việc cấm đánh cá của Trung Cộng sẽ gây thiệt hại kinh tế đáng kể cho CSVN.
Ngay cả khi các tàu đánh cá Việt Nam không hoạt động trong các vùng biển (bị cấm) này, Trung Cộng vẫn bắt họ và đòi tiền phạt.
Trong khi đó theo Tân Hoa Xã, chỉ huy phụ trách tàu Ngư Chính Chu Thế Hùng cho biết tàu Ngư Chính lớn nhất Quảng Đông thuộc về tổng đội Chu Hải sẽ tuần tra quần đảo "Tây Sa" trong vòng nửa tháng.
Đây cũng là lần đầu tiên chi đội Chu Hải thuộc Ngư Chính Quảng Đông tham gia tổ chức tuần tra với khu cục "Nam Hải" làm nhiệm vụ tại quần đảo "Tây Sa", và cũng là lần đầu tiên làm nhiệm vụ viễn dương ở khu vực xa nhất.
Theo Chu Thế Hải đã nói với Tân Hoa Xã rằng tàu Ngư Chính 44183 là tàu có trọng tải lớn nhất của tỉnh Quảng Đông, sức bạt nước 500 tấn và di chuyển với vận tốc rất nhanh.
Hệ thống thiết bị thông tin của Ngư Chính 44183 được cho là tiên tiến so với các tàu khác, có phòng thí nghiệm và các thiết bị đo đạc chụp hình dưới đáy biển.
Hãng tin DPA nói căng thẳng về chủ quyền Biển Đông đã tăng lên sau hạn chót ngày 13 tháng Năm để các nước trình đòi hỏi chủ quyền cho Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Bắc Kinh đã bác bỏ đòi hỏi chủ quyền của CSVN, Malaysia và một số nước khác và nói các đòi hỏi này vi phạm tuyên bố chủ quyền của chính Trung Cộng ở biển 'Nam Trung Hoa'.
Trong một bài trên báo Singapore, tờ Strait Times 18/05, học giả Michael Richardson nói trên thực tế Trung Cộng đang đòi làm chủ "80 phần trăm vùng biển Đông Nam Á", không chỉ gồm tất cả các đảo và quần đảo mà còn đến sát cả bờ biển bang Sarawak của Malaysia và đảo Natula của Indonesia.
Tin Tổng Hợp: DPA
Chủ Nghĩa Cộng Sản Những Con Người Dối Trá
Chủ Nghĩa Cộng Sản Những Con Người Dối Trá.
Năm 2009 Phương Tây sẽ mừng kỷ niệm 20 năm thoát khỏi hiểm họa cộng sản trên toàn cõi Đông Âu, khởi đầu được bắt đầu bằng các phong trào cầu nguyện đòi dân chủ từ Đông Đức. Trong 20 năm vừa qua bao nhiêu tội ác, bất công, tù tội, giết người… do chủ nghĩa cộng sản gây ra tại Đông Âu được lột trần trước ánh sáng và công lý. Những bản án tố cáo sự tàn ác của cs được trực tiếp và gián tiếp, được người trong cuộc lẫn ngoài cuộc ghi lại trong sử sách nhân loại.
Mới đây nhất lời phát biểu của nữ thủ tướng, Dr. Angela Merkel vào ngày 07/5/2009 dịp nước Đức nhớ lại Phong trào nổi dậy đòi dân chủ tại Đông Đức cộng sản vào năm 1989 chống đối cuộc bầu cử gian lận ngày 07/5/1989 tại Đông Đức, là bản kết án hùng hồn nhất về một chủ nghĩa bất nhân, một chủ nghĩa gây bại hoại cho nhân loại: „Chủ nghĩa cộng sản đã tạo thành con người dối trá“. Bà Merkel kết án mạnh mẽ: „Đông Đức đã trở thành một hệ thống nhà tù kiểm soát chặt chẽ người dân nhất thế giới“. Tuy nhiên điều phá hủy được hệ thống vô luân này chính là niềm khát khao công lý và sự thật của người dân Đức, đó chính là „nền tảng cho nền dân chủ“, chúng ta đang hưởng được tự do và công lý trong 20 năm qua, hôm nay „chúng ta không thể và không muốn quên đi tất cả những bất công đã xảy ra do cộng sản gây ra“, những nhận định sắc bén này bà Merkel muốn nhắc nhở cho người dân Đức và người Việt Nam, cho thế giới tự do thấy rõ bản chất sắc máu của chủ thuyết Cộng Sản.
Cứ nhìn lại lịch sử trước đây 20 năm tại Đông Âu thì rất rõ ràng, chỗ nào cũng giăng đầy bảng đỏ chữ trắng tuyên truyền như “Chủ nghĩa Mác - Lê Nin muôn năm”, “Chủ nghĩa Mác - Lê Nin bách chiến bách thắng”, “Đảng cộng sản muôn năm”… Muôn năm như thế để cộng sản ác độc tạo ra nhiều thế hệ nhằm ca tụng một chủ nghĩa dối trá phi nhân hơn 70năm trời. Tội ác CS đã gây ra những con số chết chóc khủng khiếp cho chính dân chúng của họ.
Cộng sản đấu tố dã man trong việc cải cách ruộng đất:
- Cộng sản Nga giết 61.911.000 người.
- Cộng sản Trung Hoa giết 35.236.000 người.
- Cộng sản Khmer đỏ giết 2.035.000 người.
- Cộng sản Việt Nam giết 1.670.000 người.
- Cộng sản Ba Lan giết 1.585.000 người.
- Cộng sản Nam Tư giết 1.072.000 người.
Nhìn về Việt Nam với sự khát máu và tàn ác qua tên đồ tể của „Cải cách ruộng đất“ Đặng Xuân Khu (1907-1988), tự xưng là Trường Chinh, được sự đồng ý của Hồ Chí Minh cướp đất gây đại họa giết 172.000 người, và hơn 500.000 nạn nhân vô tội khác do chính tên đầu sỏ Trường chinh gây ra. Bao nhiêu cảnh giã man giết người trong cải cách ruộng đất với khẩu hiệu: "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc" chẳng khác gì hơn sự diệt chủng rùng rợn của bọn CS Khmer đỏ, thế mà csVN còn dựng lên tượng đài của tên đồ tể Đặng Xuân Khu tại một quảng trường lớn thuộc huyện Xuân Trường để tuyên dương công trạng giết người tàn ác này.
Về dự án bauxite tại Tây Nguyên, đang được toàn dân thuộc mọi tầng lớp, nói đến những hiểm họa về môi sinh và bệnh tật, trong khi đó CSVN lại kêu gào thế giới về thảm trạng Da Cam trong chiến tranh. Liệu CSVN có đảm bảo những thảm trạng dị tật từ bauxite theo thời gian không? Vì sao các quốc gia khác phải đóng cửa các mỏ quặng bauxite của họ? Chắc chắn thảm họa bauxite sẽ to lớn hơn chất độc da cam.
Bauxite tại Tây Nguyên đang là ngòi bom nổ chậm đổ xuống dân tộc VN, mà CSVN đang giã tâm tiếp tay với Tàu cộng.
Ðảng CSVN bắt tay với Trung Quốc khai thác tài nguyên VN, hẳn là không có sự ngẫu nhiên khi các cuộc cầu nguyện đòi Công Lý và Sự Thật được phát xuất từ Thái Hà – Hà Nội và can đảm hơn người dân Thái Hà cùng ghi danh “HÃY CỨU LẤY TÂY NGUYÊN KHỎI THẢM HOẠ BAUXITE ĐỎ”, điều này đúng với nhận định thêm của thủ tướng Angela Merkel vào cuối bài diễn văn: „Hậu quả tàn ác của CS đẩy con người vào đường cùng là dối trá với nhau, tuy nhiên khi sự dối trá được phơi bầy và người dân can đảm moi ra những điều gian lận thì dẫn họ đến các phong trào đòi hỏi công lý. Và cuối cùng người dân Đông Đức biết kết thúc với trò chơi dối trá này“. Với những sự thật được phơi bày về bộ mặt bán nước cầu vinh của đảng CSVN, dân tộc Việt Nam đã can đảm tìm đến nhau, tạo dựng các phong trào nói về công lý và sự thật.
Tổng hợp từ:
VietCatholic News
Năm 2009 Phương Tây sẽ mừng kỷ niệm 20 năm thoát khỏi hiểm họa cộng sản trên toàn cõi Đông Âu, khởi đầu được bắt đầu bằng các phong trào cầu nguyện đòi dân chủ từ Đông Đức. Trong 20 năm vừa qua bao nhiêu tội ác, bất công, tù tội, giết người… do chủ nghĩa cộng sản gây ra tại Đông Âu được lột trần trước ánh sáng và công lý. Những bản án tố cáo sự tàn ác của cs được trực tiếp và gián tiếp, được người trong cuộc lẫn ngoài cuộc ghi lại trong sử sách nhân loại.
Mới đây nhất lời phát biểu của nữ thủ tướng, Dr. Angela Merkel vào ngày 07/5/2009 dịp nước Đức nhớ lại Phong trào nổi dậy đòi dân chủ tại Đông Đức cộng sản vào năm 1989 chống đối cuộc bầu cử gian lận ngày 07/5/1989 tại Đông Đức, là bản kết án hùng hồn nhất về một chủ nghĩa bất nhân, một chủ nghĩa gây bại hoại cho nhân loại: „Chủ nghĩa cộng sản đã tạo thành con người dối trá“. Bà Merkel kết án mạnh mẽ: „Đông Đức đã trở thành một hệ thống nhà tù kiểm soát chặt chẽ người dân nhất thế giới“. Tuy nhiên điều phá hủy được hệ thống vô luân này chính là niềm khát khao công lý và sự thật của người dân Đức, đó chính là „nền tảng cho nền dân chủ“, chúng ta đang hưởng được tự do và công lý trong 20 năm qua, hôm nay „chúng ta không thể và không muốn quên đi tất cả những bất công đã xảy ra do cộng sản gây ra“, những nhận định sắc bén này bà Merkel muốn nhắc nhở cho người dân Đức và người Việt Nam, cho thế giới tự do thấy rõ bản chất sắc máu của chủ thuyết Cộng Sản.
Cứ nhìn lại lịch sử trước đây 20 năm tại Đông Âu thì rất rõ ràng, chỗ nào cũng giăng đầy bảng đỏ chữ trắng tuyên truyền như “Chủ nghĩa Mác - Lê Nin muôn năm”, “Chủ nghĩa Mác - Lê Nin bách chiến bách thắng”, “Đảng cộng sản muôn năm”… Muôn năm như thế để cộng sản ác độc tạo ra nhiều thế hệ nhằm ca tụng một chủ nghĩa dối trá phi nhân hơn 70năm trời. Tội ác CS đã gây ra những con số chết chóc khủng khiếp cho chính dân chúng của họ.
Cộng sản đấu tố dã man trong việc cải cách ruộng đất:
- Cộng sản Nga giết 61.911.000 người.
- Cộng sản Trung Hoa giết 35.236.000 người.
- Cộng sản Khmer đỏ giết 2.035.000 người.
- Cộng sản Việt Nam giết 1.670.000 người.
- Cộng sản Ba Lan giết 1.585.000 người.
- Cộng sản Nam Tư giết 1.072.000 người.
Nhìn về Việt Nam với sự khát máu và tàn ác qua tên đồ tể của „Cải cách ruộng đất“ Đặng Xuân Khu (1907-1988), tự xưng là Trường Chinh, được sự đồng ý của Hồ Chí Minh cướp đất gây đại họa giết 172.000 người, và hơn 500.000 nạn nhân vô tội khác do chính tên đầu sỏ Trường chinh gây ra. Bao nhiêu cảnh giã man giết người trong cải cách ruộng đất với khẩu hiệu: "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc" chẳng khác gì hơn sự diệt chủng rùng rợn của bọn CS Khmer đỏ, thế mà csVN còn dựng lên tượng đài của tên đồ tể Đặng Xuân Khu tại một quảng trường lớn thuộc huyện Xuân Trường để tuyên dương công trạng giết người tàn ác này.
Về dự án bauxite tại Tây Nguyên, đang được toàn dân thuộc mọi tầng lớp, nói đến những hiểm họa về môi sinh và bệnh tật, trong khi đó CSVN lại kêu gào thế giới về thảm trạng Da Cam trong chiến tranh. Liệu CSVN có đảm bảo những thảm trạng dị tật từ bauxite theo thời gian không? Vì sao các quốc gia khác phải đóng cửa các mỏ quặng bauxite của họ? Chắc chắn thảm họa bauxite sẽ to lớn hơn chất độc da cam.
Bauxite tại Tây Nguyên đang là ngòi bom nổ chậm đổ xuống dân tộc VN, mà CSVN đang giã tâm tiếp tay với Tàu cộng.
Ðảng CSVN bắt tay với Trung Quốc khai thác tài nguyên VN, hẳn là không có sự ngẫu nhiên khi các cuộc cầu nguyện đòi Công Lý và Sự Thật được phát xuất từ Thái Hà – Hà Nội và can đảm hơn người dân Thái Hà cùng ghi danh “HÃY CỨU LẤY TÂY NGUYÊN KHỎI THẢM HOẠ BAUXITE ĐỎ”, điều này đúng với nhận định thêm của thủ tướng Angela Merkel vào cuối bài diễn văn: „Hậu quả tàn ác của CS đẩy con người vào đường cùng là dối trá với nhau, tuy nhiên khi sự dối trá được phơi bầy và người dân can đảm moi ra những điều gian lận thì dẫn họ đến các phong trào đòi hỏi công lý. Và cuối cùng người dân Đông Đức biết kết thúc với trò chơi dối trá này“. Với những sự thật được phơi bày về bộ mặt bán nước cầu vinh của đảng CSVN, dân tộc Việt Nam đã can đảm tìm đến nhau, tạo dựng các phong trào nói về công lý và sự thật.
Tổng hợp từ:
VietCatholic News
Việt Nam Trong Trái Tim Tôi
Việt Nam Trong Trái Tim Tôi
Nói đến quê hương Việt Nam là nói đến những nghẹn ngào, mến thương, tủi nhục và hảnh diện! Không nhứt thiết phải là người Việt Nam mới có những cảm xúc nhân bản như vậy. Những chiến thắng lẩy lừng của tổ tiên Việt Nam không những tạo dựng được sự bình yên của đất nước mà còn sinh sôi nẩy nở sự than phục nhân đạo từ các nước láng giềng!
Nhưng, hiện nay, bất cứ ai trên thế giới nầy, có một chút suy nghĩ về đất nước Việt Nam đều lắc đầu, than vản! Hãy so sánh Việt Nam và Đại Hàn, Singapore, Thái Lan và Mã Lai thì rõ. Số phận oan nghiệt của Việt Nam là mắc phải đảng Cộng Sản, một khối óc u tối, bạo ác tham tàn. Ngày trước thì thi đua giết người để tạo sự sợ hải. Ngày nay thì thi đua hối lộ tham nhủng, cướp của đồng bào! Chủ trương vô sản chuyên chính của Cộng Sản đã không còn. Thay vào đó là những đảng viên, từ trên xuống là những tỷ phú đô la. Ðảng sát nhân này, đó tranh nhau cai trị đất nước, bằng hành động bán nước cầu vinh, đất nước Việt Nam hiện nay hoàn toàn bị chúng cướp sạch!
Với người dân trong nước thì đảng Cộng Sản Việt Nam đè đầu cởi cổ, cướp đoạt tài sản. Ngoài nước, chúng đi ăn mày, chúng làm tay sai! Ăn mày Hoa Kỳ và tay sai cho Trung Cộng! Trong bối cảnh đau thương đến như vậy, trong hoàn cảnh đất nước là một nhà tù lớn như vậy, thế mà vượng khí non sông vẫn chưa tụ lại; nhưng cũng an ủi là khắp thế giới đều biết và quan tâm đến việc nhà nước độc đảng đàn áp nhân quyền Việt Nam. Trong hoàn cảnh bị quấy nhiểu, cô lập đó, một số tên tuổi can trường, đãm lược, một số người dám nói lên tiếng nói tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn cứ hiên ngang, dù bị quản chế tại gia hay bị hạ ngục, bởi họ muốn đánh thức lương tri của những kẻ có chức, có quyền.
Có ai không thổn thức, đau lòng khi mất đất, mất biển, rồi mất Hoàng Sa, Trường Sa. Và đại nạn dân tộc cũng đã đến vùng Tây Nguyên. Nơi nầy hiện nay bị tràn ngập quân lính Trung Cộng mang vỏ bọc công nhân khai thác quặng Bâu Xít.
Người Việt Nam yêu nước, giới khoa học, trí thức, chuyên gia về môi trướng trong và ngoài nước đã bao lần hội họp, biểu tình phản đối. Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, kiêm xử lý thường vụ, Lưởng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, đã phóng quang nhìn thấy tương lai đen tối ngàn năm đô hộ Trung Cộng. Ngài đã nói lên, báo động. Làn sóng thần hưởng ứng dồn dập khắp năm châu bốn biển. Việc đó đã có phần làm cho bào quyền cộng sản Việt Nam ra chiêu nói lời xoa dịu dư luận. Có phải đây là cơ hội hiếm có để hồn thiêng sông núi tụ hội sau những năm dài ly tán và đau thương ?
Xin cúi đầu cầu nguyện cho quê hương, nhìn rõ thảm họa của dân tộc, cùng nhau thông báo khắp nơi để cả thế giới thực sự, tích cực cảnh giác, có thái độ khi nhìn ra “Vấn Nạn Việt Nam của cả thế giới”, khi mà đất nước Việt Nam còn chế độ độc tài tham nhủng, và tệ hơn nữa, làm mất đất, mất biển, mất Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng. Xin ghi nhận rằng khi thế giới theo dỏi Việt Nam, thì nhà tù và súng đạn đàn áp của đảng Cộng Sản không thể nhốt hết, không thể giết hết 85 triệu đồng bào quốc nội. Phần nầy chúng ta đặc biệt kêu gọi thanh niên đứng lên, đứng lên để chứng tỏ người chủ tương lai xứng đáng của dân tộc.
Đồng bào chúng ta hãy mạnh dạn kết tụ để vùng lên. Vùng lên để lấy lại quyền làm người. Vùng lên để chuộc phần nào tội lỗi với Tổ Tiên. Vùng lên để chứng tỏ truyền thống hào hùng của dân tộc Việt.
Một Người Việt Nam.
Nói đến quê hương Việt Nam là nói đến những nghẹn ngào, mến thương, tủi nhục và hảnh diện! Không nhứt thiết phải là người Việt Nam mới có những cảm xúc nhân bản như vậy. Những chiến thắng lẩy lừng của tổ tiên Việt Nam không những tạo dựng được sự bình yên của đất nước mà còn sinh sôi nẩy nở sự than phục nhân đạo từ các nước láng giềng!
Nhưng, hiện nay, bất cứ ai trên thế giới nầy, có một chút suy nghĩ về đất nước Việt Nam đều lắc đầu, than vản! Hãy so sánh Việt Nam và Đại Hàn, Singapore, Thái Lan và Mã Lai thì rõ. Số phận oan nghiệt của Việt Nam là mắc phải đảng Cộng Sản, một khối óc u tối, bạo ác tham tàn. Ngày trước thì thi đua giết người để tạo sự sợ hải. Ngày nay thì thi đua hối lộ tham nhủng, cướp của đồng bào! Chủ trương vô sản chuyên chính của Cộng Sản đã không còn. Thay vào đó là những đảng viên, từ trên xuống là những tỷ phú đô la. Ðảng sát nhân này, đó tranh nhau cai trị đất nước, bằng hành động bán nước cầu vinh, đất nước Việt Nam hiện nay hoàn toàn bị chúng cướp sạch!
Với người dân trong nước thì đảng Cộng Sản Việt Nam đè đầu cởi cổ, cướp đoạt tài sản. Ngoài nước, chúng đi ăn mày, chúng làm tay sai! Ăn mày Hoa Kỳ và tay sai cho Trung Cộng! Trong bối cảnh đau thương đến như vậy, trong hoàn cảnh đất nước là một nhà tù lớn như vậy, thế mà vượng khí non sông vẫn chưa tụ lại; nhưng cũng an ủi là khắp thế giới đều biết và quan tâm đến việc nhà nước độc đảng đàn áp nhân quyền Việt Nam. Trong hoàn cảnh bị quấy nhiểu, cô lập đó, một số tên tuổi can trường, đãm lược, một số người dám nói lên tiếng nói tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn cứ hiên ngang, dù bị quản chế tại gia hay bị hạ ngục, bởi họ muốn đánh thức lương tri của những kẻ có chức, có quyền.
Có ai không thổn thức, đau lòng khi mất đất, mất biển, rồi mất Hoàng Sa, Trường Sa. Và đại nạn dân tộc cũng đã đến vùng Tây Nguyên. Nơi nầy hiện nay bị tràn ngập quân lính Trung Cộng mang vỏ bọc công nhân khai thác quặng Bâu Xít.
Người Việt Nam yêu nước, giới khoa học, trí thức, chuyên gia về môi trướng trong và ngoài nước đã bao lần hội họp, biểu tình phản đối. Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, kiêm xử lý thường vụ, Lưởng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, đã phóng quang nhìn thấy tương lai đen tối ngàn năm đô hộ Trung Cộng. Ngài đã nói lên, báo động. Làn sóng thần hưởng ứng dồn dập khắp năm châu bốn biển. Việc đó đã có phần làm cho bào quyền cộng sản Việt Nam ra chiêu nói lời xoa dịu dư luận. Có phải đây là cơ hội hiếm có để hồn thiêng sông núi tụ hội sau những năm dài ly tán và đau thương ?
Xin cúi đầu cầu nguyện cho quê hương, nhìn rõ thảm họa của dân tộc, cùng nhau thông báo khắp nơi để cả thế giới thực sự, tích cực cảnh giác, có thái độ khi nhìn ra “Vấn Nạn Việt Nam của cả thế giới”, khi mà đất nước Việt Nam còn chế độ độc tài tham nhủng, và tệ hơn nữa, làm mất đất, mất biển, mất Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng. Xin ghi nhận rằng khi thế giới theo dỏi Việt Nam, thì nhà tù và súng đạn đàn áp của đảng Cộng Sản không thể nhốt hết, không thể giết hết 85 triệu đồng bào quốc nội. Phần nầy chúng ta đặc biệt kêu gọi thanh niên đứng lên, đứng lên để chứng tỏ người chủ tương lai xứng đáng của dân tộc.
Đồng bào chúng ta hãy mạnh dạn kết tụ để vùng lên. Vùng lên để lấy lại quyền làm người. Vùng lên để chuộc phần nào tội lỗi với Tổ Tiên. Vùng lên để chứng tỏ truyền thống hào hùng của dân tộc Việt.
Một Người Việt Nam.
lørdag 9. mai 2009
Tội Ác Của Tập Ðoàn CSVN
Tâm Thư
Của Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh
Về Tội Ác Của Tập Ðoàn CSVN.
Kính thưa toàn thể đồng bào Quốc nội và Quốc ngoại,
Trong tinh thần hun đúc của giòng giống Rồng Tiên, Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh (Nô Hồ) đã được thành lập ngày 29/12/1991 tại thành phố San Jose, miền bắc tiểu bang California, Hoa Kỳ. Trong nhiều năm qua Phong trào đã ra tuyên cáo, phát hành Bạch Thư vạch trần tội ác của quốc tặc Hồ Chí Minh và đảng CSVN trước công luận quốc tế.
Kính thưa đồng bào,
Từ khi chiếm được miền Bắc VN và cho tới nay Hồ Chí Minh và tập đoàn phản dân, hại nước CSVN đã cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho Tàu Cộng để được vinh thân phì gia liên tục như: Năm 1958, tên Phạm văn Đồng ký văn bản thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa thuộc chủ quyền Tàu Cộng. Năm 1999, Lê khả Phiêu ký văn bản thừa nhận biên giới Tàu Cộng lấn sâu vào lãnh thổ VN vượt qua Ải Nam Quan trên 15 ngàn ký lô mét vuông. Năm 2000, Lê Khả Phiêu một lần nữa ký Hiệp Định Biên Giới và Lãnh Hải thừa nhận chủ quyền của Tàu Cộng lấn thêm mấy chục ngàn hải lý vùng biển Vịnh Bắc Việt. Và đến nay năm 2009, tên Nguyễn Tấn Dũng lại ký văn thư thừa nhận chủ quyền của Tàu Cộng trên hàng chục ngàn kí lô mét vuông vùng đất Tây Nguyễn để khai thác Bauxite phá hủy môi sinh của đất nước.
Phong Trào ý thức được từ lòng nhân hòa của Mẹ Âu Cơ, nên long trọng phát động chiến dịch mang tên Mẹ Dân Tộc gởi tới tất cả đồng bào lời kêu gọi tha thiết nhất để chung tay hoàn thành nhiệm vụ lịch sử trong giai đen tối do tập đoàn lãnh đạo CSVN gây ra gồm những tên như: Nông Đức Mạnh, Lê Hồng Anh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Gia Khiêm, Phùng Quang Thanh, Trương Vĩnh Trọng , Lê Thanh Hải, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Văn Chi, Hồ Đức Việt, Phạm Quang Nghị.
Phong Trào Quốc Dân Xoá Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh xin gởi Tâm Thư này tới đồng bào được chia làm hai phần gồm Núi Cao gởi về đồng bào quốc nội và Biển Rộng gởi tới đồng bào hải ngoại như sau:
Núi Cao biểu tượng cho nguồn gốc Mẹ là Tiên, Phong Trào xin gởi đến đồng bào quốc nội những đề nghị sau đây:
- Xin đồng bào không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, giai cấp, tổ chức chính trị hãy đứng lên lấy lại quyền dân bằng hình thức tự mình bỏ phiếu qua ngôn ngữ, hành động để bày tỏ sự Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh cũng như phủ nhận bạo quyền CSVN hiện nay.
- Xin đồng bào tích cực dùng mọi phương tiện có được để biểu lộ ý muốn của toàn dân như: có phấn thì dùng phấn, có than thì dùng than... gạch bỏ mọi hình ảnh vết tích Hồ Chí Minh và viết các khẩu hiệu chống tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nông Đức Mạnh ở khắp nơi trong nước trước viễn ảnh xâm thực của Tàu Cộng phát xuất từ Tây Nguyên.
- Xin đồng bào xé ảnh Hồ Chí Minh, gạch mặt bọn Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nông Đức Mạnh trên sách báo và xé cờ đỏ sao vàng vứt ra đường... Dùng mọi sáng kiến cá nhân, tổ chức để đóng góp vào mục tiêu chung là Xóa Bỏ Chế Độ CSVN. Hô hào, rĩ tai hưởng ứng lời kêu gọi biểu tình tại gia của Hoà Thượng Thích Quảng Độ và đình công, bãi thị.
- Đối với Công an, Bộ đội, Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh kêu gọi các bạn hãy quay về với Mẹ Việt Nam tức toàn dân để chung tay làm lại lịch sử trước nguy cơ kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Tàu Cộng đang âm mưu thôn tính VN. Các bạn hãy hợp tác với toàn dân trong chiến dịch Âu Cơ bằng cách trực tiếp xóa bỏ các dấu tích Hồ Chí Minh, hay gián tiếp làm lơ để dân chúng thực hiện những khẩu hiệu kêu gọi mọi giới đồng bào vùng lên lật đổ tập đoàn CSVN bán nước cầu vinh. Và ít nhất là cùng đồng bào hãy nhắc tên Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh tức Nô Hồ, thì tự cái tên này đã mang trọn ý nghĩa chống chế độ Cộng Sản Việt Nam rồi.
- Đối với các cấp lãnh đạo CSVN, Phong Trào kêu gọi cả tập đoàn này phải ý thức về làn gió Dân Chủ là sức mạnh của thời đại nên chấm dứt sự ngoan cố, tham lam, ích kỷ để tự động giải tán. Các cấp lãnh đạo CSVN hãy lựa chọn việc giải tán đảng CSVN như một giải pháp ôn hòa để tránh các khó khăn khủng khiếp cho Dân Tộc Việt Nam , và cho chính cá nhân mình. Các cá nhân lãnh đạo CSVN nên chọn lối thoát an toàn là tìm cách lưu vong ra nước ngoài để trao lại quyền hành cho toàn dân. Các cá nhân lãnh đạo CSVN nên thức tỉnh để hiểu rõ rằng không còn thời giờ để trì hoãn nhằm nắm giữ quyền bính lâu hơn nữa, và càng lầm lẫn khi cấu kết với Tàu Cộng. Quí vị phải ý thức rằng nếu còn cố ở lại sẽ gặp nguy hiểm cho tính mạng cá nhân, như gương đã thấy ở Lỗ Ma Ni năm 1991, Nam Tư 1992, vì tức nước sẽ vở bờ trước làn sóng phẩn nộ của toàn dân trong và ngoài nước.
Biển Rộng biểu tượng cho nguồn gốc của Cha là Rồng, Phong Trào xin gởi đồng bào ở khắp nơi trên thế giới, tức đồng bào Hải ngoại các đề nghị sau đây:
- Xin đồng bào dùng ảnh hưởng cá nhân, tổ chức, đoàn thể của mình để vận động với các quốc gia mình đang sống hổ trợ cho công cuộc Cách Mạng Dân Chủ của Dân Tộc Việt Nam . Hãy tích cực tham gia đông đảo mọi cuộc biểu tình để giương cao lá cờ chính nghĩa màu vàng ba sọc đỏ mỗi khi có phái đoàn VC xuất hiện nơi địa phương mình cư trú. Dặn dò thân nhân vì hoàn cảnh nào đó về VN hãy thông báo cho mọi người biết âm mưu thôn tính VN của Tàu Cộng, chuẩn bị tư tưởng để sẳn sàng tham gia vào cuộc Tổng Nổi Dậy do các lực lượng đấu tranh cho dân chủ trong nước khởi xướng.
- Xin đồng bào tìm kiếm và phát giác các dấu tích của Hồ Chí Minh, của CSVN ở nước ngoài từ tượng đài, các tên đường, bảng tên, sách vở... và vận động với mọi chính quyền ở các địa phương đồng bào đang sống nhằm yêu cầu được phép xóa bỏ, ngay cả trong các thư viện và trường học.
- Xin đồng bào giải thích với các bạn bè ngoại quốc biết rõ, rằng Hồ Hồ Chí Minh chỉ là một kẻ xảo trá, gian ác cũng như đảng CSVN là một tập đoàn bạo ngược, ăn cướp đang còn thống trị tại Việt Nam.
Phong Trào tin tưởng rằng các mục tiêu và phương cách hành động đã nêu ra rất cụ thể, giản dị mà đồng bào quốc nội, hải ngoại đều có thể dễ dàng thực hiện được. Sự Thành công sẽ đến chính là kết quả đoàn kết của toàn dân Việt Nam trước nhiệm vụ làm lại lịch sử. Chắc chắn nước Việt Nam thân yêu của chúng ta sẽ được giải phóng khỏi ách thống trị độc tài gian ác của Việt Cộng, để gia nhập vào giòng sống của nhân loại trong thời đại này.
Trân trọng kính chào toàn thể đồng bào.
Làm tại San Jose, ngày 6 tháng 05 năm 2009
Ban Thường Vụ Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh tức Nô Hồ.
Chủ tịch: Đặng thiên Sơn
Phó Chủ tịch Nội vụ: Nguyễn thiếu Nhẫn
Phó Chủ tịch Ngoại vụ: Trần minh Xuân
Tổng Thư Ký: Kiêm Ái
Của Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh
Về Tội Ác Của Tập Ðoàn CSVN.
Kính thưa toàn thể đồng bào Quốc nội và Quốc ngoại,
Trong tinh thần hun đúc của giòng giống Rồng Tiên, Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh (Nô Hồ) đã được thành lập ngày 29/12/1991 tại thành phố San Jose, miền bắc tiểu bang California, Hoa Kỳ. Trong nhiều năm qua Phong trào đã ra tuyên cáo, phát hành Bạch Thư vạch trần tội ác của quốc tặc Hồ Chí Minh và đảng CSVN trước công luận quốc tế.
Kính thưa đồng bào,
Từ khi chiếm được miền Bắc VN và cho tới nay Hồ Chí Minh và tập đoàn phản dân, hại nước CSVN đã cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho Tàu Cộng để được vinh thân phì gia liên tục như: Năm 1958, tên Phạm văn Đồng ký văn bản thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa thuộc chủ quyền Tàu Cộng. Năm 1999, Lê khả Phiêu ký văn bản thừa nhận biên giới Tàu Cộng lấn sâu vào lãnh thổ VN vượt qua Ải Nam Quan trên 15 ngàn ký lô mét vuông. Năm 2000, Lê Khả Phiêu một lần nữa ký Hiệp Định Biên Giới và Lãnh Hải thừa nhận chủ quyền của Tàu Cộng lấn thêm mấy chục ngàn hải lý vùng biển Vịnh Bắc Việt. Và đến nay năm 2009, tên Nguyễn Tấn Dũng lại ký văn thư thừa nhận chủ quyền của Tàu Cộng trên hàng chục ngàn kí lô mét vuông vùng đất Tây Nguyễn để khai thác Bauxite phá hủy môi sinh của đất nước.
Phong Trào ý thức được từ lòng nhân hòa của Mẹ Âu Cơ, nên long trọng phát động chiến dịch mang tên Mẹ Dân Tộc gởi tới tất cả đồng bào lời kêu gọi tha thiết nhất để chung tay hoàn thành nhiệm vụ lịch sử trong giai đen tối do tập đoàn lãnh đạo CSVN gây ra gồm những tên như: Nông Đức Mạnh, Lê Hồng Anh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Gia Khiêm, Phùng Quang Thanh, Trương Vĩnh Trọng , Lê Thanh Hải, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Văn Chi, Hồ Đức Việt, Phạm Quang Nghị.
Phong Trào Quốc Dân Xoá Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh xin gởi Tâm Thư này tới đồng bào được chia làm hai phần gồm Núi Cao gởi về đồng bào quốc nội và Biển Rộng gởi tới đồng bào hải ngoại như sau:
Núi Cao biểu tượng cho nguồn gốc Mẹ là Tiên, Phong Trào xin gởi đến đồng bào quốc nội những đề nghị sau đây:
- Xin đồng bào không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, giai cấp, tổ chức chính trị hãy đứng lên lấy lại quyền dân bằng hình thức tự mình bỏ phiếu qua ngôn ngữ, hành động để bày tỏ sự Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh cũng như phủ nhận bạo quyền CSVN hiện nay.
- Xin đồng bào tích cực dùng mọi phương tiện có được để biểu lộ ý muốn của toàn dân như: có phấn thì dùng phấn, có than thì dùng than... gạch bỏ mọi hình ảnh vết tích Hồ Chí Minh và viết các khẩu hiệu chống tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nông Đức Mạnh ở khắp nơi trong nước trước viễn ảnh xâm thực của Tàu Cộng phát xuất từ Tây Nguyên.
- Xin đồng bào xé ảnh Hồ Chí Minh, gạch mặt bọn Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nông Đức Mạnh trên sách báo và xé cờ đỏ sao vàng vứt ra đường... Dùng mọi sáng kiến cá nhân, tổ chức để đóng góp vào mục tiêu chung là Xóa Bỏ Chế Độ CSVN. Hô hào, rĩ tai hưởng ứng lời kêu gọi biểu tình tại gia của Hoà Thượng Thích Quảng Độ và đình công, bãi thị.
- Đối với Công an, Bộ đội, Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh kêu gọi các bạn hãy quay về với Mẹ Việt Nam tức toàn dân để chung tay làm lại lịch sử trước nguy cơ kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Tàu Cộng đang âm mưu thôn tính VN. Các bạn hãy hợp tác với toàn dân trong chiến dịch Âu Cơ bằng cách trực tiếp xóa bỏ các dấu tích Hồ Chí Minh, hay gián tiếp làm lơ để dân chúng thực hiện những khẩu hiệu kêu gọi mọi giới đồng bào vùng lên lật đổ tập đoàn CSVN bán nước cầu vinh. Và ít nhất là cùng đồng bào hãy nhắc tên Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh tức Nô Hồ, thì tự cái tên này đã mang trọn ý nghĩa chống chế độ Cộng Sản Việt Nam rồi.
- Đối với các cấp lãnh đạo CSVN, Phong Trào kêu gọi cả tập đoàn này phải ý thức về làn gió Dân Chủ là sức mạnh của thời đại nên chấm dứt sự ngoan cố, tham lam, ích kỷ để tự động giải tán. Các cấp lãnh đạo CSVN hãy lựa chọn việc giải tán đảng CSVN như một giải pháp ôn hòa để tránh các khó khăn khủng khiếp cho Dân Tộc Việt Nam , và cho chính cá nhân mình. Các cá nhân lãnh đạo CSVN nên chọn lối thoát an toàn là tìm cách lưu vong ra nước ngoài để trao lại quyền hành cho toàn dân. Các cá nhân lãnh đạo CSVN nên thức tỉnh để hiểu rõ rằng không còn thời giờ để trì hoãn nhằm nắm giữ quyền bính lâu hơn nữa, và càng lầm lẫn khi cấu kết với Tàu Cộng. Quí vị phải ý thức rằng nếu còn cố ở lại sẽ gặp nguy hiểm cho tính mạng cá nhân, như gương đã thấy ở Lỗ Ma Ni năm 1991, Nam Tư 1992, vì tức nước sẽ vở bờ trước làn sóng phẩn nộ của toàn dân trong và ngoài nước.
Biển Rộng biểu tượng cho nguồn gốc của Cha là Rồng, Phong Trào xin gởi đồng bào ở khắp nơi trên thế giới, tức đồng bào Hải ngoại các đề nghị sau đây:
- Xin đồng bào dùng ảnh hưởng cá nhân, tổ chức, đoàn thể của mình để vận động với các quốc gia mình đang sống hổ trợ cho công cuộc Cách Mạng Dân Chủ của Dân Tộc Việt Nam . Hãy tích cực tham gia đông đảo mọi cuộc biểu tình để giương cao lá cờ chính nghĩa màu vàng ba sọc đỏ mỗi khi có phái đoàn VC xuất hiện nơi địa phương mình cư trú. Dặn dò thân nhân vì hoàn cảnh nào đó về VN hãy thông báo cho mọi người biết âm mưu thôn tính VN của Tàu Cộng, chuẩn bị tư tưởng để sẳn sàng tham gia vào cuộc Tổng Nổi Dậy do các lực lượng đấu tranh cho dân chủ trong nước khởi xướng.
- Xin đồng bào tìm kiếm và phát giác các dấu tích của Hồ Chí Minh, của CSVN ở nước ngoài từ tượng đài, các tên đường, bảng tên, sách vở... và vận động với mọi chính quyền ở các địa phương đồng bào đang sống nhằm yêu cầu được phép xóa bỏ, ngay cả trong các thư viện và trường học.
- Xin đồng bào giải thích với các bạn bè ngoại quốc biết rõ, rằng Hồ Hồ Chí Minh chỉ là một kẻ xảo trá, gian ác cũng như đảng CSVN là một tập đoàn bạo ngược, ăn cướp đang còn thống trị tại Việt Nam.
Phong Trào tin tưởng rằng các mục tiêu và phương cách hành động đã nêu ra rất cụ thể, giản dị mà đồng bào quốc nội, hải ngoại đều có thể dễ dàng thực hiện được. Sự Thành công sẽ đến chính là kết quả đoàn kết của toàn dân Việt Nam trước nhiệm vụ làm lại lịch sử. Chắc chắn nước Việt Nam thân yêu của chúng ta sẽ được giải phóng khỏi ách thống trị độc tài gian ác của Việt Cộng, để gia nhập vào giòng sống của nhân loại trong thời đại này.
Trân trọng kính chào toàn thể đồng bào.
Làm tại San Jose, ngày 6 tháng 05 năm 2009
Ban Thường Vụ Phong Trào Quốc Dân Xóa Bỏ Huyền Thoại Hồ Chí Minh tức Nô Hồ.
Chủ tịch: Đặng thiên Sơn
Phó Chủ tịch Nội vụ: Nguyễn thiếu Nhẫn
Phó Chủ tịch Ngoại vụ: Trần minh Xuân
Tổng Thư Ký: Kiêm Ái
Vinh Danh HT Thích Quảng Độ
TS Trần Mỹ Vân Vinh Danh HT Thích Quảng Độ.
Tiến sĩ Trần Mỹ Vân, giáo sư môn Á châu học tại Đại học South Australia, đã tạo sự chú ý lớn lao của một cử tọa gồm các giới lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc về tình trạng đàn áp Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất cùng Hòa thượng Thích Quảng Độ dưới bàn tay nhà cầm quyền CSVN.
Hôm thứ Năm 23/4/09, buổi lễ khai mạc Trung tâm Ambrose cho Tự do Tôn giáo (Ambrose Centre for Religious Liberty - ACRL) đã mời TS Trần Mỹ Vân lên phát biểu về tình hình Phật giáo tại Việt Nam. Được biết ACRL là một trung tâm nghiên cứu với mục đích bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng căn bản của con người. Buổi lễ khai mạc diễn ra tại Quốc hội tiểu bang New South Wales được chủ toạ bởi Cựu Phó thủ tướng Úc, ông John Anderson. Trong số khoảng 150 vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc, người ta cũng nhận thấy sự hiện diện của nhiều khuôn mặt tiếng tăm như đức Hồng y George Pell (Tổng giám mục Sydney của đạo Công giáo), Tiến sĩ Peter Jensen (Tổng giám mục Sydney của Anh giáo), đại diện của nhiều tôn giáo như Ấn giáo, Hồi giáo, Bahai, nhiều dân biểu Quốc hội tiểu bang lẫn liên bang, v.v...
Riêng về phía Phật giáo thì có sự hiện diện của Thượng tọa Thích Phước Nhơn vị đại diện của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất tại Úc châu. Từ tiểu bang Nam Úc, người ta nhận thấy có Dân biểu Jack Snelling, chủ tịch Hạ viện Nam Úc và là một người luôn hỗ trợ các cuộc tranh đấu đòi tự do dân chủ của cộng đồng người Việt.
Trong một bài phát biểu gây xúc động mãnh liệt trong cử tọa, TS Mỹ Vân nói: “Suy ngẫm về kinh nghiệm tâm linh bản thân, tôi thấy rõ quyền tự do tôn giáo là quan trọng. Nhưng buồn thay, không phải ai ai trên thế giới cũng được hưởng tự do đó. Tôi rất buồn phiền khi được biết rằng người dân Tây Tạng ngay trên đất nước của họ, không có quyền giữ hình của đức Đạt lai Lạt ma, vị lãnh đạo tâm linh của họ. Họ phải giấu hình ngài đi, hoặc phải tiêu huỷ, nếu không sẽ bị trừng phạt và tra tấn. Tôi thiển nghĩ đức Lạt ma có dạy điều gì chống lại nhân loại và hoà bình đâu. Ngược lại là đằng khác, ngài chỉ dạy tình thương, sự hiểu biết, lòng khoan dung và tha thứ... Tự do tôn giáo không phải là chuyện không có cũng chẳng sao, mà là một quyền con người căn bản mà không một nhà cầm quyền nào có thể tước đoạt.
“Khi nghĩ tới Việt Nam thì tôi lại càng buồn phiền hơn nữa. Việt Nam ngày nay bị cai trị bởi một chế độ độc tài cộng sản. Nhiều nhà sư, linh mục, nữ tu sĩ và tín đồ đã bị sách nhiễu, bỏ tù, giam lỏng tại gia chỉ vì họ giữ vững đức tin tâm linh của riêng họ, hoặc vì họ mong muốn chính quyền không can thiệp vào tôn giáo, vì họ đòi hỏi tự do tín ngưỡng và dân chủ cho Việt Nam. Giản dị là không ai có thể bắt họ cải đạo để trở thành người theo chủ nghĩa cộng sản...
“Tôi xin mượn cơ hội này để nêu lên trường hợp của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất. Giáo hội đã bị cấm không được hoạt động, tài sản của Giáo hội bị tịch thu. Những vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội đã từng bị bắt giam ròng rã nhiều năm, bị đi đày ngay trên xứ sở họ, và tiếp tục bị cầm tù, chỉ vì họ từ chối khuất phục chế độ cộng sản. Hoà thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo của giáo hội bị cấm đoán này, là một học giả xuất chúng, một vị chân tu và tác giả nhiều thơ văn. Ngài đã hiến trọn đời mình cho đạo Phật và cho lợi ích nhân loại. Vậy mà suốt 3 thập niên qua, ngài đã gặp đủ mọi khó khăn chẳng khác gì vị Tăng thống trước là Hoà thượng Thích Huyền Quang. HT Quảng Độ đã được trao tặng giải Thoroft Rafto, một giải thưởng lẫy lừng, và ngài cũng từng được đề cử 9 lần cho giải Nobel Hoà bình. Ngài đã trở thành biểu tượng của phong trào Phật giáo tranh đấu ôn hòa cho tự do tôn giáo và nhân quyền.”
Được biết khi nói đến đó, TS Trần Mỹ Vân đã giương lên cho cử toạ thấy những bức tem thư với hình HT Quảng Độ mà bà đã được phép cho in ấn đặc biệt. Những tấm tem HT Quảng Độ đã được cử toạ hoan nghênh nhiệt thành. Trong thời gian tới, Trung tâm ACRL dự định sẽ tổ chức nhiều buổi hội thảo tại các tiểu bang khác xứ Úc.
Bà Trần Mỹ Vân là giáo sư Phân khoa Quốc tế học, chuyên giảng dạy Á châu học tại Đại học South Australia . Trước kia bà du học Úc châu theo chương trình Colombo và góp phần thành lập Cộng đồng người Việt Tự do tại Úc trong những buổi đầu.
Tiến sĩ Trần Mỹ Vân, giáo sư môn Á châu học tại Đại học South Australia, đã tạo sự chú ý lớn lao của một cử tọa gồm các giới lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc về tình trạng đàn áp Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất cùng Hòa thượng Thích Quảng Độ dưới bàn tay nhà cầm quyền CSVN.
Hôm thứ Năm 23/4/09, buổi lễ khai mạc Trung tâm Ambrose cho Tự do Tôn giáo (Ambrose Centre for Religious Liberty - ACRL) đã mời TS Trần Mỹ Vân lên phát biểu về tình hình Phật giáo tại Việt Nam. Được biết ACRL là một trung tâm nghiên cứu với mục đích bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng căn bản của con người. Buổi lễ khai mạc diễn ra tại Quốc hội tiểu bang New South Wales được chủ toạ bởi Cựu Phó thủ tướng Úc, ông John Anderson. Trong số khoảng 150 vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị Úc, người ta cũng nhận thấy sự hiện diện của nhiều khuôn mặt tiếng tăm như đức Hồng y George Pell (Tổng giám mục Sydney của đạo Công giáo), Tiến sĩ Peter Jensen (Tổng giám mục Sydney của Anh giáo), đại diện của nhiều tôn giáo như Ấn giáo, Hồi giáo, Bahai, nhiều dân biểu Quốc hội tiểu bang lẫn liên bang, v.v...
Riêng về phía Phật giáo thì có sự hiện diện của Thượng tọa Thích Phước Nhơn vị đại diện của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất tại Úc châu. Từ tiểu bang Nam Úc, người ta nhận thấy có Dân biểu Jack Snelling, chủ tịch Hạ viện Nam Úc và là một người luôn hỗ trợ các cuộc tranh đấu đòi tự do dân chủ của cộng đồng người Việt.
Trong một bài phát biểu gây xúc động mãnh liệt trong cử tọa, TS Mỹ Vân nói: “Suy ngẫm về kinh nghiệm tâm linh bản thân, tôi thấy rõ quyền tự do tôn giáo là quan trọng. Nhưng buồn thay, không phải ai ai trên thế giới cũng được hưởng tự do đó. Tôi rất buồn phiền khi được biết rằng người dân Tây Tạng ngay trên đất nước của họ, không có quyền giữ hình của đức Đạt lai Lạt ma, vị lãnh đạo tâm linh của họ. Họ phải giấu hình ngài đi, hoặc phải tiêu huỷ, nếu không sẽ bị trừng phạt và tra tấn. Tôi thiển nghĩ đức Lạt ma có dạy điều gì chống lại nhân loại và hoà bình đâu. Ngược lại là đằng khác, ngài chỉ dạy tình thương, sự hiểu biết, lòng khoan dung và tha thứ... Tự do tôn giáo không phải là chuyện không có cũng chẳng sao, mà là một quyền con người căn bản mà không một nhà cầm quyền nào có thể tước đoạt.
“Khi nghĩ tới Việt Nam thì tôi lại càng buồn phiền hơn nữa. Việt Nam ngày nay bị cai trị bởi một chế độ độc tài cộng sản. Nhiều nhà sư, linh mục, nữ tu sĩ và tín đồ đã bị sách nhiễu, bỏ tù, giam lỏng tại gia chỉ vì họ giữ vững đức tin tâm linh của riêng họ, hoặc vì họ mong muốn chính quyền không can thiệp vào tôn giáo, vì họ đòi hỏi tự do tín ngưỡng và dân chủ cho Việt Nam. Giản dị là không ai có thể bắt họ cải đạo để trở thành người theo chủ nghĩa cộng sản...
“Tôi xin mượn cơ hội này để nêu lên trường hợp của Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất. Giáo hội đã bị cấm không được hoạt động, tài sản của Giáo hội bị tịch thu. Những vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội đã từng bị bắt giam ròng rã nhiều năm, bị đi đày ngay trên xứ sở họ, và tiếp tục bị cầm tù, chỉ vì họ từ chối khuất phục chế độ cộng sản. Hoà thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo của giáo hội bị cấm đoán này, là một học giả xuất chúng, một vị chân tu và tác giả nhiều thơ văn. Ngài đã hiến trọn đời mình cho đạo Phật và cho lợi ích nhân loại. Vậy mà suốt 3 thập niên qua, ngài đã gặp đủ mọi khó khăn chẳng khác gì vị Tăng thống trước là Hoà thượng Thích Huyền Quang. HT Quảng Độ đã được trao tặng giải Thoroft Rafto, một giải thưởng lẫy lừng, và ngài cũng từng được đề cử 9 lần cho giải Nobel Hoà bình. Ngài đã trở thành biểu tượng của phong trào Phật giáo tranh đấu ôn hòa cho tự do tôn giáo và nhân quyền.”
Được biết khi nói đến đó, TS Trần Mỹ Vân đã giương lên cho cử toạ thấy những bức tem thư với hình HT Quảng Độ mà bà đã được phép cho in ấn đặc biệt. Những tấm tem HT Quảng Độ đã được cử toạ hoan nghênh nhiệt thành. Trong thời gian tới, Trung tâm ACRL dự định sẽ tổ chức nhiều buổi hội thảo tại các tiểu bang khác xứ Úc.
Bà Trần Mỹ Vân là giáo sư Phân khoa Quốc tế học, chuyên giảng dạy Á châu học tại Đại học South Australia . Trước kia bà du học Úc châu theo chương trình Colombo và góp phần thành lập Cộng đồng người Việt Tự do tại Úc trong những buổi đầu.
LỜI KÊU GỌI XUỐNG ĐƯỜNG
LỜI KÊU GỌI XUỐNG ĐƯỜNG:
HIỆP THÔNG CẦU NGUYỆN CHO GIÁO HỘI QUÊ NHÀ, VẠCH TRẦN TỘI ÁC CỘNG SẢN,
NHÂN DỊP TÀ GIAN CỘNG SẢN VIỆT NAM BỊ KIỂM ĐIỂM
NHÂN QUYỀN
THỨ SÁU, NGÀY 8-5-2009,
TẠI LIÊN HIỆP QUỐC GENÉVE, THỤY SĨ.
Kính thưa qúi đồng hương,
kính thưa qúi ông bà, anh chị em thân mến,
thứ sáu, ngày 8-5-2009, tà gian Cộng Sản Việt Nam sẽ bị kiểm điểm vi phạm Nhân Quyền trước Liên Hiệp Quốc tại Genéve, Thụy Sĩ.
Chúng ta biết, thành phố Genéve, gắn liền với vận mạng dân tộc Việt Nam. Trong Hiệp Định Genéve ngày 20 tháng 7 năm 1954, tà gian Cộng Sản Việt Nam đã dã tâm đặt bút chia đôi đất nước, tạo nên cuộc chiến huynh đệ giữa hai miền Nam Bắc. Vừa bất nhân đặt bút chia đôi đất nước, Cộng sản gian manh, đồng thời cũng tạo ra cuộc nội chiến, với chiêu bài thống nhất đất nước. Để rồi dân tộc Việt Nam phải mất trên 3 triệu sinh mạng, chỉ vì âm mưu che dấu làm tay sai cho đế quốc Cộng Sản Quốc Tế (=Tầu, Nga).
Thống nhất lòng người, là mục đích linh thiêng cao cả nhất của toàn dân tộc.
Đứng trước đại nạn nguy cơ, dân tộc Việt Nam sẽ bị tiêu vong, chỉ vì một số nhỏ: bộ chính trị và Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, những kẻ phản bội vong hồn linh thiêng những chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ đất nước, chúng tôi tha thiết kêu gọi đồng bào, không phân biệt tôn giáo, trong nước hay hải ngoại, vào thứ sáu, ngày 8-5-2009, xin hãy hướng về thành phố Genéve, Thụy Sĩ.
Việc chống kẻ ngoại xâm Trung Cộng và những tay sai phản bội tổ quốc,-Cộng sản Việt Nam-, phải vượt qua mọi cản trở hàng rào ranh giới tôn giáo.
Vào ngày thứ sáu, 8-5-2009, chúng tôi đề nghị, đưa ra một vài việc làm cụ thể sau:
1. Những qúi vị ở trong những quốc gia gần Thụy Sĩ, xin cố gắng tham gia biểu tình và cầu nguyện của các tôn giáo trước trụ sở Liên Hiệp Quốc, tại quảng trường Place des Nations, thành phố Genéve.
2. Những qúi đồng bào ở xa, xin hiệp thông với chúng tôi, bằng cách thắp nến, đọc kinh cầu nguyện, với ý nguyện: Xin Thiên Chúa hoán cải những kẻ Cộng Sản còn u mê dốt nát, đã bán đứng lương tâm cho qủy, đã và đang bán đứng dân tộc cho ngoại xâm, xin cho họ biết ăn năn xám hối quay đầu trở về với dân tộc.
3. Qúi đồng bào trong nước, xin hãy đến những thánh địa hành hương, như La vang, Bà Triệu v.v., và đặc biệt hãy đến khuôn viên giáo xứ Thái Hà, (Hà Nội). Xin qúi vị hãy cùng thắp lên ngọn nến, cầu nguyện cho đại cuộc: đòi hỏi Công lý và Hoà Bình mau chóng thành công.
4. Đối với qúi Phật tử tôn giáo bạn. Xin qúi vị hãy đến Chùa đốt nhang khấn niệm cầu Phật, cầu xin ơn trên, cải hóa tâm hồn gian manh Việt Cộng, cầu xin cho họ biết thống hối, cải tà quy chánh. Sự đoàn kết và bao dung, rộng lượng từ bi của qúi Phật tử, sẽ tạo sự đoàn kết vững mạnh, nhằm phục hưng tôn giáo thời hậu Cộng sản, tam giáo đồng hành.
Chống kẻ xâm lăng, và chống kẻ vong ân phản bội Cộng sản với đất nước, là công việc trọng đại của đại cuộc, không phải là việc làm riêng lẻ của mỗi tôn giáo.
Cộng Sản Việt Nam là kẻ đại điêu ngoa, đại gian manh và đại qủy quyệt. Họ phản ảnh hành động ác qủy đỏ. Đối với đồng bào thì họ cướp nhà lột trần phá hoại người dân. Đối với ngoại bang, thì họ là kẻ bán nước dâng biển. Cộng Sản Việt Nam là kẻ phản bội dân tộc.
Đứng trước hiểm họa đại nạn Hán hóa và nguy cơ dân tộc bị diệt vong, chúng tôi thống thiết kêu gọi lương tâm tất cả qúi Thượng Tọa, qúi Giám mục, qúi Linh mục tu sĩ và giáo dân, qúi Phật tử, Cao Đài Hòa Hảo hãy cùng nhau xuống đường về thành phố Genéve (Thụy sĩ), tập chung trước trụ sở Liên Hiệp Quốc, vào thứ sáu, ngày 8-5-2009, cũng như hiệp thông cầu nguyện cho đại sự đất nước.
Chúng tôi tin chắc rằng, sự đoàn kết chặt chẽ liên tôn, sẽ làm cho bạo quyền Cộng Sản Việt Nam phải lo ngại. Có lẽ, đây là lần đầu, và cũng sẽ là lần cuối cùng tà gian CSVN phải bị „hầu tòa“ trước Liên Hiệp Quốc. Chúng ta hãy hiệp nhất dâng lời cầu nguyện.
Cầu mong dân tộc mau chóng thoát khỏi ngoại xâm và tay sai Hán ngụy-CSVN-.
Chúng tôi rất mong được mọi sự hưởng ứng của qúi vị.
Xin Thiên Chúa ban ơn lành bình an đổ xuống trên qúi vị,
và xin Ngài bàn phép lành † anh em !
Lm Linh hướng Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh (Đức Quốc)
Chủ tịch Hội Đạo Binh Xanh Đức Mẹ La-vang. Ông Vương Kỳ Sơn (Mỹ Quốc)
HIỆP THÔNG CẦU NGUYỆN CHO GIÁO HỘI QUÊ NHÀ, VẠCH TRẦN TỘI ÁC CỘNG SẢN,
NHÂN DỊP TÀ GIAN CỘNG SẢN VIỆT NAM BỊ KIỂM ĐIỂM
NHÂN QUYỀN
THỨ SÁU, NGÀY 8-5-2009,
TẠI LIÊN HIỆP QUỐC GENÉVE, THỤY SĨ.
Kính thưa qúi đồng hương,
kính thưa qúi ông bà, anh chị em thân mến,
thứ sáu, ngày 8-5-2009, tà gian Cộng Sản Việt Nam sẽ bị kiểm điểm vi phạm Nhân Quyền trước Liên Hiệp Quốc tại Genéve, Thụy Sĩ.
Chúng ta biết, thành phố Genéve, gắn liền với vận mạng dân tộc Việt Nam. Trong Hiệp Định Genéve ngày 20 tháng 7 năm 1954, tà gian Cộng Sản Việt Nam đã dã tâm đặt bút chia đôi đất nước, tạo nên cuộc chiến huynh đệ giữa hai miền Nam Bắc. Vừa bất nhân đặt bút chia đôi đất nước, Cộng sản gian manh, đồng thời cũng tạo ra cuộc nội chiến, với chiêu bài thống nhất đất nước. Để rồi dân tộc Việt Nam phải mất trên 3 triệu sinh mạng, chỉ vì âm mưu che dấu làm tay sai cho đế quốc Cộng Sản Quốc Tế (=Tầu, Nga).
Thống nhất lòng người, là mục đích linh thiêng cao cả nhất của toàn dân tộc.
Đứng trước đại nạn nguy cơ, dân tộc Việt Nam sẽ bị tiêu vong, chỉ vì một số nhỏ: bộ chính trị và Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, những kẻ phản bội vong hồn linh thiêng những chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ đất nước, chúng tôi tha thiết kêu gọi đồng bào, không phân biệt tôn giáo, trong nước hay hải ngoại, vào thứ sáu, ngày 8-5-2009, xin hãy hướng về thành phố Genéve, Thụy Sĩ.
Việc chống kẻ ngoại xâm Trung Cộng và những tay sai phản bội tổ quốc,-Cộng sản Việt Nam-, phải vượt qua mọi cản trở hàng rào ranh giới tôn giáo.
Vào ngày thứ sáu, 8-5-2009, chúng tôi đề nghị, đưa ra một vài việc làm cụ thể sau:
1. Những qúi vị ở trong những quốc gia gần Thụy Sĩ, xin cố gắng tham gia biểu tình và cầu nguyện của các tôn giáo trước trụ sở Liên Hiệp Quốc, tại quảng trường Place des Nations, thành phố Genéve.
2. Những qúi đồng bào ở xa, xin hiệp thông với chúng tôi, bằng cách thắp nến, đọc kinh cầu nguyện, với ý nguyện: Xin Thiên Chúa hoán cải những kẻ Cộng Sản còn u mê dốt nát, đã bán đứng lương tâm cho qủy, đã và đang bán đứng dân tộc cho ngoại xâm, xin cho họ biết ăn năn xám hối quay đầu trở về với dân tộc.
3. Qúi đồng bào trong nước, xin hãy đến những thánh địa hành hương, như La vang, Bà Triệu v.v., và đặc biệt hãy đến khuôn viên giáo xứ Thái Hà, (Hà Nội). Xin qúi vị hãy cùng thắp lên ngọn nến, cầu nguyện cho đại cuộc: đòi hỏi Công lý và Hoà Bình mau chóng thành công.
4. Đối với qúi Phật tử tôn giáo bạn. Xin qúi vị hãy đến Chùa đốt nhang khấn niệm cầu Phật, cầu xin ơn trên, cải hóa tâm hồn gian manh Việt Cộng, cầu xin cho họ biết thống hối, cải tà quy chánh. Sự đoàn kết và bao dung, rộng lượng từ bi của qúi Phật tử, sẽ tạo sự đoàn kết vững mạnh, nhằm phục hưng tôn giáo thời hậu Cộng sản, tam giáo đồng hành.
Chống kẻ xâm lăng, và chống kẻ vong ân phản bội Cộng sản với đất nước, là công việc trọng đại của đại cuộc, không phải là việc làm riêng lẻ của mỗi tôn giáo.
Cộng Sản Việt Nam là kẻ đại điêu ngoa, đại gian manh và đại qủy quyệt. Họ phản ảnh hành động ác qủy đỏ. Đối với đồng bào thì họ cướp nhà lột trần phá hoại người dân. Đối với ngoại bang, thì họ là kẻ bán nước dâng biển. Cộng Sản Việt Nam là kẻ phản bội dân tộc.
Đứng trước hiểm họa đại nạn Hán hóa và nguy cơ dân tộc bị diệt vong, chúng tôi thống thiết kêu gọi lương tâm tất cả qúi Thượng Tọa, qúi Giám mục, qúi Linh mục tu sĩ và giáo dân, qúi Phật tử, Cao Đài Hòa Hảo hãy cùng nhau xuống đường về thành phố Genéve (Thụy sĩ), tập chung trước trụ sở Liên Hiệp Quốc, vào thứ sáu, ngày 8-5-2009, cũng như hiệp thông cầu nguyện cho đại sự đất nước.
Chúng tôi tin chắc rằng, sự đoàn kết chặt chẽ liên tôn, sẽ làm cho bạo quyền Cộng Sản Việt Nam phải lo ngại. Có lẽ, đây là lần đầu, và cũng sẽ là lần cuối cùng tà gian CSVN phải bị „hầu tòa“ trước Liên Hiệp Quốc. Chúng ta hãy hiệp nhất dâng lời cầu nguyện.
Cầu mong dân tộc mau chóng thoát khỏi ngoại xâm và tay sai Hán ngụy-CSVN-.
Chúng tôi rất mong được mọi sự hưởng ứng của qúi vị.
Xin Thiên Chúa ban ơn lành bình an đổ xuống trên qúi vị,
và xin Ngài bàn phép lành † anh em !
Lm Linh hướng Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh (Đức Quốc)
Chủ tịch Hội Đạo Binh Xanh Đức Mẹ La-vang. Ông Vương Kỳ Sơn (Mỹ Quốc)
VI PHẠM NHÂN QUYỀN TẠI VIỆT NAM
THẾ GIỚI KHẢO ĐẢ VIỆT CỘNG VỀ VIỆC
VI PHẠM NHÂN QUYỀN TẠI VIỆT NAM
Trong khuôn khổ của cuộc duyệt xét đầu tiên mà Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tiến hành 4 năm một lần, để kiểm điểm việc thực hiện quyền con người tại 192 nước thành viên LHQ, theo lịch trình thì Việtnam sẽ trình bày báo cáo của mình vào ngày 08 tháng 05 năm 2009.
Hôm 23/03/09, Hà nội đã công bố “Báo Cáo Quốc Gia Kiểm Điểm Định Kỳ Việc Thực Hiện Quyền Con Người Ở Việt nam” gửi cho cơ chế Thẩm Nghị Định Kỳ Phổ Cập – Universal Periodic Review - gọi tắt là UPR. Bằng lời lẽ khoa trương tuyên truyền cố hữu, mà trong thực tế cuộc sống xã hội, đời sống kinh tế, sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, chính trị, truyền thông, nghiệp vụ tại Việt nam thì người dân không bao giờ có được những thứ như trong đoạn 60 của bản báo cáo Việtcộng đã ghi:
“Nhân dân Việt nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, được sống trong độc lập, tự do, dân chủ với tất cả quyền con người của mình và được bảo vệ bằng Hiến Pháp và luật pháp”.
Theo tiến sĩ Nguyễn Quang A, giám đốc Viện Nghiên Cứu Phát Triển Việt Nam ở Hànội cho hay là: “Đoạn văn vừa kể không phản ánh sự thật hiện nay ở Việtnam”.
Còn cựu trung tá quân đội Nhân Dân của Việt cộng, Trần Anh Kim thì thẳng thừng hơn: “Tôi khẳng định rằng, quyền con người ở Việt nam đã bị chính Đảng Cộng Sản Việt Nam mà đứng đầu là 15 ủy viên Bộ Chính Trị đã cướp triệt để quyền con người của dân tộc Việt nam, chớ làm gì có nhân quyền, làm gì có dân chủ, làm gì có tự do”.
Với hòa thượng Thích Không Tánh thuộc GHPGVNTN hiện ở trong nước thì: “Hàng trăm, hàng ngàn tờ báo đó, cũng do đảng, nhà nước quản lý hết. Việt nam không có vấn đề tự do thông tin, tự do báo chí đâu!”. “Về tôn giáo, về nhân quyền thì người dân vẫn bị tù đầy, đạo giáo vẫn bị sách nhiễu, vẫn bị đàn áp”.
Thực ra việc Việt cộng cướp quyền của toàn dân, vi phạm quyền con người trắng trợn nhất, nó đã thể hiện ngay trong Điều 4 của Bản Hiến Pháp 1992.
Theo giáo sư Võ Văn Ái, chủ tịch Ủy Ban Quyền Làm Người Việt Nam tại Paris thì: “nhà cầm quyền Việt nam trong Điều 4 Hiến Pháp quy định rằng, tư tưởng của nhà nước hiện nay là chủ nghĩa Mác-Lê và Hồ Chí Minh, đồng thời Đảng Cộng Sản là đảng duy nhất quản lý đất nước”.
Bản báo cáo nhân quyền của Việt nam nhấn mạnh:
“Chỉ trong thời gian ngắn, từ năm 1986 đến nay, Việt nam đã ban hành và sửa đổi khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật, trong đó các quyền vế dân sự, chính trị được quy định một cách cụ thể và toàn diện hơn”.
Ông Ái nhận xét: “Báo cáo này cho một danh sách rất nhiều về vấn đề luật pháp, và xem như rằng khi có càng nhiều luật chừng nào thì việc tôn trọng nhân quyền càng nhiều chừng đó. Tuy nhiên họ không hề cho người đọc thấy được những vấn đề cụ thế của những luật pháp đó đã được áp dụng như thế nào trong việc bảo vệ quyền của công dân Việt nam”.
Ủy ban Bảo Vệ Nhà Báo (CPJ ) Committee of Protection of Journalists, có trụ sở tại New York, ngày 30/04/09, đã đưa Việt nam vào danh sách 10 nước, mà tổ chức này cho là “Khó khăn nhất đối với các blogger”.
Giám đốc điều hành tổ chức này, ông Joel Simon nhận xét: “Các blogger đứng trên tuyến đầu trong cuộc cách mạng thông tin và con số của họ ngày càng tăng. Thế nhưng các chính phủ cũng nhanh chóng học cách sử dụng công nghệ để chống lại các blogger thông qua việc kiểm duyệt và sàng lọc trên mạng, hạn chế tiếp cận internet và tìm kiếm các dữ liệu cá nhân”. “Nếu các việc trên không thành, chính quyền một số nước bỏ tù một vài blogger để làm gương cho cả cộng đồng trên mạng, buộc họ hoặc phải im lặng, hoặc phải tự kiểm duyệt”.
Việt nam và Trung quốc, nơi văn hóa blog đang phát triển mạnh, cũng là hai nước mà CPJ cho là thuộc diện tồi tệ nhất trong việc kiểm soát và hạn chế blog ở Á Châu. Hồi tháng 03/2009, tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới – RSF- cũng đưa danh sách 12 quốc gia thù nghịch với internet trong đó có Việt nam.
Ngày 01/05/09, Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ đã đề nghị với chính quyền Mỹ, Obama đưa Việt nam trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về vi phạm tự do tôn giáo – CPC. Vì rằng:
“Chính phủ Việt nam đã bỏ tù, những người tham gia các hoạt động tôn giáo ôn hoà, cũng như những người hậu thuẫn cho tự do tôn giáo”.
Ngày 05/05/09 Ủy Ban Tôn Giáo Quốc Tế, nêu tên 13 nước vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo, trong đó có Việt nam.
Ủy ban cho rằng: “Tại Việt nam…vẫn còn những sự lạm dụng nghiêm trọng và hạn chế, bao gồm việc cầm tù và bắt giam những người quảng bá quyền tự do tín ngưỡng, và tiếp tục việc hạn chế chính thức các sinh hoạt tôn giáo độc lập”.
Tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền, Human Rights Watch chỉ trích Việt nam. Đòi nhà nước cộng sản Việt nam phải trả tự do ngay lập tức cho những nhà hoạt động bị bỏ tù, chỉ vì đã vận động cho chiến dịch một cách hoà bình vì quyền lợi của người lao động.
Giám đốc Á Châu HRW, Brad Adams tuyên bố: “Bằng việc bắt giữ các nhà lãnh đạo nổi bật về lao động, chính phủ Việt nam đang tìm cách xóa sổ phong trào Công Đoàn Độc Lập”.
Trong Thông Điệp Phật Đản PL.2553, của Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN. Giáo hội đặc biệt quan tâm đến hiện tình đất nước:
“An ninh quốc phòng và vẹn toàn lãnh thổ đang bị uy hiếp. Chỉ nhờ vào sức mạnh toàn dân mới vượt qua khỏi cơn nguy biến. Nếu Đảng và Nhà Nước không cấp thời cải tổ sâu rộng hệ thống chính trị độc đảng sang thể chế đa đảng để toàn dân và các thành phần dân tộc có thể tham gia cứu nguy quê cha, đất tổ”.
Đúng vậy, sức mạnh toàn dân chỉ có thể tập hợp nổi để đối phó với cuộc xâm lược tinh vi toàn diện của Trung cộng, nếu Việt nam thực sự được Dân Chủ Hóa.
Xem thế, trong dịp Việt cộng phải trả lời trước diễn đàn Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, thì cả 4 vấn đề căn bản cho một chế độ Dân Chủ là Tự Do Ngôn Luận. Tự Do Tôn Giáo. Tự Do Nghiệp Đoàn. Tự Do Lập Đảng đều đã được người Việt nam và các tổ chức quốc tế nêu ra, mà đang bị Việtcộng thẳng tay tiêu diệt.
Cuộc Thế Giới khảo đả Việt cộng vi phạm nhân quyền tại Việt nam kỳ này ở diễn đàn LHQ sẽ buộc nhóm lãnh đạo Hà nội dù không muốn mở mắt cũng không được nữa. Vì thực ra chế độ độc đảng độc tài toàn trị cộng sản cũng chỉ là chế độ Quân Chủ Độc Tôn nối dài. Thay cho khẩu hiệu “Trung Quân là Ái Quốc” bằng khẩu hiệu “Trung với Đảng” “Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ nghĩa” Trong chế độ đó, không có chỗ đứng cho “Dân Quyền”, “Giáo Quyền” chỉ có “Thế Quyền”của nhóm Cai Trị độc tôn, thì ở đó làm gì còn “Nhân Quyền” nữa.
Chính vì vậy, mà có những người tự nhận là trí thức dưới ‘ánh sáng xã hội chủ nghĩa’ mới dám nói: “Trí Thức không Làm Chính Trị, mà chỉ ký Kiến Nghị thôi”. Ngu ơi là ngu! Ký kiến nghị cũng là thực hiện quyền chính trị công dân rồi đó!
LÝ ĐẠI NGUYÊN
VI PHẠM NHÂN QUYỀN TẠI VIỆT NAM
Trong khuôn khổ của cuộc duyệt xét đầu tiên mà Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tiến hành 4 năm một lần, để kiểm điểm việc thực hiện quyền con người tại 192 nước thành viên LHQ, theo lịch trình thì Việtnam sẽ trình bày báo cáo của mình vào ngày 08 tháng 05 năm 2009.
Hôm 23/03/09, Hà nội đã công bố “Báo Cáo Quốc Gia Kiểm Điểm Định Kỳ Việc Thực Hiện Quyền Con Người Ở Việt nam” gửi cho cơ chế Thẩm Nghị Định Kỳ Phổ Cập – Universal Periodic Review - gọi tắt là UPR. Bằng lời lẽ khoa trương tuyên truyền cố hữu, mà trong thực tế cuộc sống xã hội, đời sống kinh tế, sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, chính trị, truyền thông, nghiệp vụ tại Việt nam thì người dân không bao giờ có được những thứ như trong đoạn 60 của bản báo cáo Việtcộng đã ghi:
“Nhân dân Việt nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, được sống trong độc lập, tự do, dân chủ với tất cả quyền con người của mình và được bảo vệ bằng Hiến Pháp và luật pháp”.
Theo tiến sĩ Nguyễn Quang A, giám đốc Viện Nghiên Cứu Phát Triển Việt Nam ở Hànội cho hay là: “Đoạn văn vừa kể không phản ánh sự thật hiện nay ở Việtnam”.
Còn cựu trung tá quân đội Nhân Dân của Việt cộng, Trần Anh Kim thì thẳng thừng hơn: “Tôi khẳng định rằng, quyền con người ở Việt nam đã bị chính Đảng Cộng Sản Việt Nam mà đứng đầu là 15 ủy viên Bộ Chính Trị đã cướp triệt để quyền con người của dân tộc Việt nam, chớ làm gì có nhân quyền, làm gì có dân chủ, làm gì có tự do”.
Với hòa thượng Thích Không Tánh thuộc GHPGVNTN hiện ở trong nước thì: “Hàng trăm, hàng ngàn tờ báo đó, cũng do đảng, nhà nước quản lý hết. Việt nam không có vấn đề tự do thông tin, tự do báo chí đâu!”. “Về tôn giáo, về nhân quyền thì người dân vẫn bị tù đầy, đạo giáo vẫn bị sách nhiễu, vẫn bị đàn áp”.
Thực ra việc Việt cộng cướp quyền của toàn dân, vi phạm quyền con người trắng trợn nhất, nó đã thể hiện ngay trong Điều 4 của Bản Hiến Pháp 1992.
Theo giáo sư Võ Văn Ái, chủ tịch Ủy Ban Quyền Làm Người Việt Nam tại Paris thì: “nhà cầm quyền Việt nam trong Điều 4 Hiến Pháp quy định rằng, tư tưởng của nhà nước hiện nay là chủ nghĩa Mác-Lê và Hồ Chí Minh, đồng thời Đảng Cộng Sản là đảng duy nhất quản lý đất nước”.
Bản báo cáo nhân quyền của Việt nam nhấn mạnh:
“Chỉ trong thời gian ngắn, từ năm 1986 đến nay, Việt nam đã ban hành và sửa đổi khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật, trong đó các quyền vế dân sự, chính trị được quy định một cách cụ thể và toàn diện hơn”.
Ông Ái nhận xét: “Báo cáo này cho một danh sách rất nhiều về vấn đề luật pháp, và xem như rằng khi có càng nhiều luật chừng nào thì việc tôn trọng nhân quyền càng nhiều chừng đó. Tuy nhiên họ không hề cho người đọc thấy được những vấn đề cụ thế của những luật pháp đó đã được áp dụng như thế nào trong việc bảo vệ quyền của công dân Việt nam”.
Ủy ban Bảo Vệ Nhà Báo (CPJ ) Committee of Protection of Journalists, có trụ sở tại New York, ngày 30/04/09, đã đưa Việt nam vào danh sách 10 nước, mà tổ chức này cho là “Khó khăn nhất đối với các blogger”.
Giám đốc điều hành tổ chức này, ông Joel Simon nhận xét: “Các blogger đứng trên tuyến đầu trong cuộc cách mạng thông tin và con số của họ ngày càng tăng. Thế nhưng các chính phủ cũng nhanh chóng học cách sử dụng công nghệ để chống lại các blogger thông qua việc kiểm duyệt và sàng lọc trên mạng, hạn chế tiếp cận internet và tìm kiếm các dữ liệu cá nhân”. “Nếu các việc trên không thành, chính quyền một số nước bỏ tù một vài blogger để làm gương cho cả cộng đồng trên mạng, buộc họ hoặc phải im lặng, hoặc phải tự kiểm duyệt”.
Việt nam và Trung quốc, nơi văn hóa blog đang phát triển mạnh, cũng là hai nước mà CPJ cho là thuộc diện tồi tệ nhất trong việc kiểm soát và hạn chế blog ở Á Châu. Hồi tháng 03/2009, tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới – RSF- cũng đưa danh sách 12 quốc gia thù nghịch với internet trong đó có Việt nam.
Ngày 01/05/09, Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ đã đề nghị với chính quyền Mỹ, Obama đưa Việt nam trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về vi phạm tự do tôn giáo – CPC. Vì rằng:
“Chính phủ Việt nam đã bỏ tù, những người tham gia các hoạt động tôn giáo ôn hoà, cũng như những người hậu thuẫn cho tự do tôn giáo”.
Ngày 05/05/09 Ủy Ban Tôn Giáo Quốc Tế, nêu tên 13 nước vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo, trong đó có Việt nam.
Ủy ban cho rằng: “Tại Việt nam…vẫn còn những sự lạm dụng nghiêm trọng và hạn chế, bao gồm việc cầm tù và bắt giam những người quảng bá quyền tự do tín ngưỡng, và tiếp tục việc hạn chế chính thức các sinh hoạt tôn giáo độc lập”.
Tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền, Human Rights Watch chỉ trích Việt nam. Đòi nhà nước cộng sản Việt nam phải trả tự do ngay lập tức cho những nhà hoạt động bị bỏ tù, chỉ vì đã vận động cho chiến dịch một cách hoà bình vì quyền lợi của người lao động.
Giám đốc Á Châu HRW, Brad Adams tuyên bố: “Bằng việc bắt giữ các nhà lãnh đạo nổi bật về lao động, chính phủ Việt nam đang tìm cách xóa sổ phong trào Công Đoàn Độc Lập”.
Trong Thông Điệp Phật Đản PL.2553, của Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN. Giáo hội đặc biệt quan tâm đến hiện tình đất nước:
“An ninh quốc phòng và vẹn toàn lãnh thổ đang bị uy hiếp. Chỉ nhờ vào sức mạnh toàn dân mới vượt qua khỏi cơn nguy biến. Nếu Đảng và Nhà Nước không cấp thời cải tổ sâu rộng hệ thống chính trị độc đảng sang thể chế đa đảng để toàn dân và các thành phần dân tộc có thể tham gia cứu nguy quê cha, đất tổ”.
Đúng vậy, sức mạnh toàn dân chỉ có thể tập hợp nổi để đối phó với cuộc xâm lược tinh vi toàn diện của Trung cộng, nếu Việt nam thực sự được Dân Chủ Hóa.
Xem thế, trong dịp Việt cộng phải trả lời trước diễn đàn Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, thì cả 4 vấn đề căn bản cho một chế độ Dân Chủ là Tự Do Ngôn Luận. Tự Do Tôn Giáo. Tự Do Nghiệp Đoàn. Tự Do Lập Đảng đều đã được người Việt nam và các tổ chức quốc tế nêu ra, mà đang bị Việtcộng thẳng tay tiêu diệt.
Cuộc Thế Giới khảo đả Việt cộng vi phạm nhân quyền tại Việt nam kỳ này ở diễn đàn LHQ sẽ buộc nhóm lãnh đạo Hà nội dù không muốn mở mắt cũng không được nữa. Vì thực ra chế độ độc đảng độc tài toàn trị cộng sản cũng chỉ là chế độ Quân Chủ Độc Tôn nối dài. Thay cho khẩu hiệu “Trung Quân là Ái Quốc” bằng khẩu hiệu “Trung với Đảng” “Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ nghĩa” Trong chế độ đó, không có chỗ đứng cho “Dân Quyền”, “Giáo Quyền” chỉ có “Thế Quyền”của nhóm Cai Trị độc tôn, thì ở đó làm gì còn “Nhân Quyền” nữa.
Chính vì vậy, mà có những người tự nhận là trí thức dưới ‘ánh sáng xã hội chủ nghĩa’ mới dám nói: “Trí Thức không Làm Chính Trị, mà chỉ ký Kiến Nghị thôi”. Ngu ơi là ngu! Ký kiến nghị cũng là thực hiện quyền chính trị công dân rồi đó!
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Thái Hà Những Người Công Chính
Thái Hà Những Người Công Chính.
Từ khi vụ việc Thái Hà và Toà Khâm sứ xảy ra đến nay đã có một thời gian dài, những hành động đê hèn, vu cáo và dựng chuyện, gắp lửa bỏ tay người của báo chí đã quá nhiều, vậy mà mấy linh mục, tu sĩ vẫn cứ… ngây thơ(!)
Chắc không đủ thời gian để viết ra những điều vừa nói, vì nó quá nhiều. Nhiều người đã nói, đã viết, nhưng vẫn chưa đủ, chưa hết. Nhưng việc sử dụng hình ảnh để xuyên tạc với linh mục Khải thì ít nhất đã có vài ba bận.
Chứng cứ: Khi đám “quần chúng tự phát” đám thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được cấp tốc điều động đến linh địa Đức Bà Thái Hà sau khi giáo dân bị xịt hơi cay để gào thét “Như có bác hồ…” thì nguy cơ xung đột bạo lực đã rất lớn vì giáo dân quá bức xúc với việc bị xịt hơi cay và cách làm việc cù nhầy của công an.
Khi đó linh mục Khải đã phải yêu cầu giáo dân ngồi xuống để tránh nguy cơ xung đột bạo lực. Vậy mà hình ảnh đó đã ngay lập tức được sử dụng để cho rằng linh mục Khải “dựng chuyện, kích động giáo dân”
Nhưng khi những hình ảnh, video về người đã cầm bình xịt hơi cay đang cười, đang nói chuyện với công an được đưa ra, thì cả hệ thống im lặng.
Rồi những giáo dân, những người không là giáo dân đã bị màn kịch truyền thông vu cáo, gán ghép để nhằm đạt được những mục đích vu cáo, dối trá đã bị bóc trần. Nhưng rồi báo chí vẫn chứng nào tật ấy.
Chứng cứ: Điển hình gần đây nhất là ông Nguyễn Trọng Tỵ, người đã nhiều lần được đài báo trích dẫn nhiều trên báo chí qua hai vụ việc Thái Hà và Toà Khâm sứ đã phải kêu trời rằng “tôi không nói thế, nhưng báo chí nó viết thế”. Với một ông luật sư Chủ nhiệm đoàn Luật sư Hà Nội mà còn bị thế, huống chi những người khác ?
Vậy mà mấy ông linh mục, tu sĩ vẫn ngây thơ, vẫn không cảnh giác, dù đã có một vài lần có những cảnh báo “Hãy cẩn thận”.
Thậm chí, còn thấy khi hàng nghìn giáo dân bịt kín lối vào toà án ở đầu đường Nguyễn Trãi, Hà Đông, khiến các cảnh sát hàng trăm người bất lực, trong việc mở lối cho các bị cáo vào hầu toà, các cán bộ đã phải đến xin linh mục Nguyễn Văn Khải ngồi vào trong cái xe cảnh sát, nói trên hệ thống tăng âm của xe này, mời bà con lên vườn hoa cạnh đó để nhường chỗ cho các cán bộ, các nạn nhân và thân nhân cùng các luật sư và các linh mục vào toà án làm việc. Hành động tốt đẹp và thiện chí đó có thể bị hiểu nhầm bị CA lợi dụng nếu muốn. Họ có thể lấy hình ảnh đó để xuyên tạc rằng: “linh mục Khải đã hợp tác với công an, đang ngồi trong xe cảnh sát giao thông đi kiếm ăn”.
Đó là những bài học cho những người có lòng tốt nhưng không hiểu đối tượng: “Quả thật, bàn tay các ngươi vấy máu, ngón tay các ngươi đầy tội ác tầy trời, môi miệng các ngươi nói lời giả dối, lưỡi các ngươi thốt ra điều bất công”.
Chúa đã phán “Đừng đổ ngọc trai cho lợn, đừng quăng đồ Thánh cho chó, kẻo nó dẫm đạp dưới chân và quay lại cắn xé anh em”. (Mattheu 7-6)
Liên quan đến… chính trị:
Thông cáo của Giáo xứ Thái Hà kêu gọi cầu nguyện cho Sự thật, Công lý, cho đất nước, cho Tây Nguyên, được báo chí kêu rằng như vậy là liên quan đến chính trị, là can thiệp cả dự án kinh tế, là bôi xấu chính quyền, là “tự tách mình ra khỏi khối đại đoàn kết toàn dân” với nhiều từ ngữ quy kết, buộc tội.
Chuyện đó thì đã nhiều, đã xưa và mặc nhiên họ coi đó là chuyện bình thường như một quyền riêng của báo chí Việt Nam. Nếu không nói vậy, chẳng lẽ báo chí có thể nói đúng sự thật rằng việc cầu nguyện cho Hoà bình, Công lý, Sự thật, cho Tây Nguyên tốt đẹp.
Có một câu hỏi mà các tờ báo như Công an nhân dân, An ninh Thủ đô luôn luôn đặt ra: “Linh mục Nguyễn Văn Khải muốn gì ?” Dù trong bản thông cáo đã nói rất rõ những ý nguyện của Giáo xứ Thái Hà về việc cầu nguyện, vậy nhưng hình như các tờ báo này không thể hiểu được và cứ phải hỏi đi hỏi lại ?
Tại sao vậy ? Phải chăng họ đã không thể có cách nghĩ thông thường của người bình thường ? Phải chăng họ nhìn đâu cũng ra bọn phản động, nhìn chỗ nào cũng thấy các thế lực thù địch nên cứ phải suy diễn, mà suy diễn rồi bắt người khác phải chấp nhận suy diễn của mình là đúng, là trí tuệ ? Bởi chỉ có mình họ được nói, được suy diễn mà thôi ? Hay bởi những người tu hành, người công giáo đã nói ra là phải cảnh giác ?
Muốn gì ư ? Đơn giản thôi, đó là Sự thật, Công lý, Hoà bình và bảo vệ đất nước, đồng bào để “đồng hành cùng dân tộc”.
Cũng dễ thông cảm thôi, khi thói dối trá đã được làm kim chỉ nam cho hành động, thì suy nghĩ ngược là chuyện bình thường. Hãy nhìn hình ảnh linh mục Khải cầm loa công an ổn định trật tự, bên cạnh là hàng đoàn cảnh sát còn cả tên Trưởng công an Quận Đống Đa đứng chình ình ra đó, thậm chí một cảnh sát còn đẩy linh mục Khải lên để ổn định trật tự mà còn được gắn nhãn là “kích động” thì có điều gì trừu tượng hơn, sâu kín hơn mà dám chắc rằng họ đã nói thật ?
Những vấn đề đó liên quan đến chính trị ư ? Liên quan đến chính trị thì sao ? Chính trị là độc quyền dành cho một người hay một nhóm người, những ai không được nói, không được liên quan đến chính trị ? Những câu hỏi đó chưa được bất cứ một tờ báo, một văn bản nào giải thích. Chỉ có các văn bản rằng: Người dân Việt Nam được tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do hội họp, tự do tư tưởng và tự do phát biểu ý kiến. Ôi, biết bao là cái tự do.
Xin thưa điều này: đất nước này, cộng đồng này, dân tộc này không phải và không thể mãi là một cộng đồng dối trá, lừa lọc và bất công. Dù hiện tượng dối trá có đang lan tràn, thì cũng chỉ là một phạm trù có tính lịch sử, những thứ đó sẽ qua đi, không ai có thể cưỡng lại đường tiến lên của dân tộc.
Nguyện cầu cùng Thiên Chúa sớm ban cho dân tộc này, đất nước này được đi dưới con đường ánh sáng, sự thật, công lý, hoà bình. Xây dựng tình đoàn kết anh em một nhà. Cùng chung sức, chung tay gây dựng cơ đồ nước Việt hùng mạnh, đủ sức mạnh và lòng tin bảo vệ đất nước này bền vững tiến tới bến vinh quang.
Hà Nội, Ngày 5 tháng 5 năm 2009
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Từ khi vụ việc Thái Hà và Toà Khâm sứ xảy ra đến nay đã có một thời gian dài, những hành động đê hèn, vu cáo và dựng chuyện, gắp lửa bỏ tay người của báo chí đã quá nhiều, vậy mà mấy linh mục, tu sĩ vẫn cứ… ngây thơ(!)
Chắc không đủ thời gian để viết ra những điều vừa nói, vì nó quá nhiều. Nhiều người đã nói, đã viết, nhưng vẫn chưa đủ, chưa hết. Nhưng việc sử dụng hình ảnh để xuyên tạc với linh mục Khải thì ít nhất đã có vài ba bận.
Chứng cứ: Khi đám “quần chúng tự phát” đám thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được cấp tốc điều động đến linh địa Đức Bà Thái Hà sau khi giáo dân bị xịt hơi cay để gào thét “Như có bác hồ…” thì nguy cơ xung đột bạo lực đã rất lớn vì giáo dân quá bức xúc với việc bị xịt hơi cay và cách làm việc cù nhầy của công an.
Khi đó linh mục Khải đã phải yêu cầu giáo dân ngồi xuống để tránh nguy cơ xung đột bạo lực. Vậy mà hình ảnh đó đã ngay lập tức được sử dụng để cho rằng linh mục Khải “dựng chuyện, kích động giáo dân”
Nhưng khi những hình ảnh, video về người đã cầm bình xịt hơi cay đang cười, đang nói chuyện với công an được đưa ra, thì cả hệ thống im lặng.
Rồi những giáo dân, những người không là giáo dân đã bị màn kịch truyền thông vu cáo, gán ghép để nhằm đạt được những mục đích vu cáo, dối trá đã bị bóc trần. Nhưng rồi báo chí vẫn chứng nào tật ấy.
Chứng cứ: Điển hình gần đây nhất là ông Nguyễn Trọng Tỵ, người đã nhiều lần được đài báo trích dẫn nhiều trên báo chí qua hai vụ việc Thái Hà và Toà Khâm sứ đã phải kêu trời rằng “tôi không nói thế, nhưng báo chí nó viết thế”. Với một ông luật sư Chủ nhiệm đoàn Luật sư Hà Nội mà còn bị thế, huống chi những người khác ?
Vậy mà mấy ông linh mục, tu sĩ vẫn ngây thơ, vẫn không cảnh giác, dù đã có một vài lần có những cảnh báo “Hãy cẩn thận”.
Thậm chí, còn thấy khi hàng nghìn giáo dân bịt kín lối vào toà án ở đầu đường Nguyễn Trãi, Hà Đông, khiến các cảnh sát hàng trăm người bất lực, trong việc mở lối cho các bị cáo vào hầu toà, các cán bộ đã phải đến xin linh mục Nguyễn Văn Khải ngồi vào trong cái xe cảnh sát, nói trên hệ thống tăng âm của xe này, mời bà con lên vườn hoa cạnh đó để nhường chỗ cho các cán bộ, các nạn nhân và thân nhân cùng các luật sư và các linh mục vào toà án làm việc. Hành động tốt đẹp và thiện chí đó có thể bị hiểu nhầm bị CA lợi dụng nếu muốn. Họ có thể lấy hình ảnh đó để xuyên tạc rằng: “linh mục Khải đã hợp tác với công an, đang ngồi trong xe cảnh sát giao thông đi kiếm ăn”.
Đó là những bài học cho những người có lòng tốt nhưng không hiểu đối tượng: “Quả thật, bàn tay các ngươi vấy máu, ngón tay các ngươi đầy tội ác tầy trời, môi miệng các ngươi nói lời giả dối, lưỡi các ngươi thốt ra điều bất công”.
Chúa đã phán “Đừng đổ ngọc trai cho lợn, đừng quăng đồ Thánh cho chó, kẻo nó dẫm đạp dưới chân và quay lại cắn xé anh em”. (Mattheu 7-6)
Liên quan đến… chính trị:
Thông cáo của Giáo xứ Thái Hà kêu gọi cầu nguyện cho Sự thật, Công lý, cho đất nước, cho Tây Nguyên, được báo chí kêu rằng như vậy là liên quan đến chính trị, là can thiệp cả dự án kinh tế, là bôi xấu chính quyền, là “tự tách mình ra khỏi khối đại đoàn kết toàn dân” với nhiều từ ngữ quy kết, buộc tội.
Chuyện đó thì đã nhiều, đã xưa và mặc nhiên họ coi đó là chuyện bình thường như một quyền riêng của báo chí Việt Nam. Nếu không nói vậy, chẳng lẽ báo chí có thể nói đúng sự thật rằng việc cầu nguyện cho Hoà bình, Công lý, Sự thật, cho Tây Nguyên tốt đẹp.
Có một câu hỏi mà các tờ báo như Công an nhân dân, An ninh Thủ đô luôn luôn đặt ra: “Linh mục Nguyễn Văn Khải muốn gì ?” Dù trong bản thông cáo đã nói rất rõ những ý nguyện của Giáo xứ Thái Hà về việc cầu nguyện, vậy nhưng hình như các tờ báo này không thể hiểu được và cứ phải hỏi đi hỏi lại ?
Tại sao vậy ? Phải chăng họ đã không thể có cách nghĩ thông thường của người bình thường ? Phải chăng họ nhìn đâu cũng ra bọn phản động, nhìn chỗ nào cũng thấy các thế lực thù địch nên cứ phải suy diễn, mà suy diễn rồi bắt người khác phải chấp nhận suy diễn của mình là đúng, là trí tuệ ? Bởi chỉ có mình họ được nói, được suy diễn mà thôi ? Hay bởi những người tu hành, người công giáo đã nói ra là phải cảnh giác ?
Muốn gì ư ? Đơn giản thôi, đó là Sự thật, Công lý, Hoà bình và bảo vệ đất nước, đồng bào để “đồng hành cùng dân tộc”.
Cũng dễ thông cảm thôi, khi thói dối trá đã được làm kim chỉ nam cho hành động, thì suy nghĩ ngược là chuyện bình thường. Hãy nhìn hình ảnh linh mục Khải cầm loa công an ổn định trật tự, bên cạnh là hàng đoàn cảnh sát còn cả tên Trưởng công an Quận Đống Đa đứng chình ình ra đó, thậm chí một cảnh sát còn đẩy linh mục Khải lên để ổn định trật tự mà còn được gắn nhãn là “kích động” thì có điều gì trừu tượng hơn, sâu kín hơn mà dám chắc rằng họ đã nói thật ?
Những vấn đề đó liên quan đến chính trị ư ? Liên quan đến chính trị thì sao ? Chính trị là độc quyền dành cho một người hay một nhóm người, những ai không được nói, không được liên quan đến chính trị ? Những câu hỏi đó chưa được bất cứ một tờ báo, một văn bản nào giải thích. Chỉ có các văn bản rằng: Người dân Việt Nam được tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do hội họp, tự do tư tưởng và tự do phát biểu ý kiến. Ôi, biết bao là cái tự do.
Xin thưa điều này: đất nước này, cộng đồng này, dân tộc này không phải và không thể mãi là một cộng đồng dối trá, lừa lọc và bất công. Dù hiện tượng dối trá có đang lan tràn, thì cũng chỉ là một phạm trù có tính lịch sử, những thứ đó sẽ qua đi, không ai có thể cưỡng lại đường tiến lên của dân tộc.
Nguyện cầu cùng Thiên Chúa sớm ban cho dân tộc này, đất nước này được đi dưới con đường ánh sáng, sự thật, công lý, hoà bình. Xây dựng tình đoàn kết anh em một nhà. Cùng chung sức, chung tay gây dựng cơ đồ nước Việt hùng mạnh, đủ sức mạnh và lòng tin bảo vệ đất nước này bền vững tiến tới bến vinh quang.
Hà Nội, Ngày 5 tháng 5 năm 2009
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Bauxite Là Chủ Trương Lớn Của Đảng CSVN ?
Bauxite Là Chủ Trương Lớn Của Đảng CSVN ?
Câu hỏi đặt ra là: tại sao Chính quyền cộng sản Việt Nam khăng khăng cho rằng khai thác bauxite ở Tây nguyên là chủ chương lớn của đảng, của nhà nước, mặc dù đã có nhiều kiến nghị không khai thác quặng này từ phía các nhà khoa học và nhân dân, kể cả Tướng Giáp? Và đây là những lý do để giải thích cho câu hỏi này:
1. Duy trì chế độ:
Như đã biết, chế độ hiện nay có một bộ máy chính quyền rất cồng kềnh, chân rết của nó bám sâu vào mọi tổ chức đoàn thể quần chúng, cùng với đội ngũ cảnh sát quân đội khổng lồ (chỉ một vụ án xử 8 người dân Thái Hà hiền lành thôi mà chính quyền đã huy động hằng trăm CSCĐ cùng với chó nghiệp vụ và vô vàn các thiết bị an ninh khác). Để duy trì được chế độ này thì cần một lượng kinh tế rất lớn. Thêm vào nữa, đây là một bộ máy gồm những “quan tham” rất “béo” do tham nhũng, mánh lới và cướp bóc. Vì thế, nguồn tiền đổ vào để nuôi bộ máy này cần rất nhiều. Lấy tiền đâu ra mà nuôi?
a. Tiền thuế:
Tiền thuế là một khoản thu lớn nhất của Chính quyền. Tuy nhiên với một chính quyền yếu kém về năng lực, bảo thủ trong tư duy, suy đồi về đạo đức và tham nhũng trong mọi tình huống thì một lượng lớn tiền thuế đã bị thất thoát.
Báo chí do nhà nước kiểm soát hằng ngày đưa tin về việc buôn lậu diễn ra ở Việt Nam là chuyện cơm bữa. Bất cứ mặt hàng nào cũng đều được người ta buôn lậu. Hàng buôn lậu ở Việt Nam được thực hiện bằng mọi hình thức, được vận chuyển bằng mọi con đường: đường bộ, đường sắt, đường biển và kể cả đường hàng không. Những kẻ buôn lậu thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, kể cả quan chức cao cấp ngoại giao của chính phủ, và kể cả phi hành đoàn của Hãng hàng không Việt Cộng.
Các công ty trong nước thi nhau lập hóa đơn khống tìm đủ mọi cách trốn/gian lận thuế. Thử hỏi bất cứ một công ty nào xem họ có trung thực thuế 100% không thì không có một công ty nào trả lời là trung thực cả. Bất cứ một công ty nào đều có hai hệ thống kế toán: hệ thống kế toán báo cáo thuế (để gian lận và trốn thuế) và hệ thống kế toán nội bộ công ty (kinh doanh thực tế của công ty).
Ngoài ra cán bộ thuế/kiểm toán còn móc ngoặc với các công ty để ăn chia v.v. Đây là một thực tai ai cũng biết. Với khoản thất thu như vậy, tiền thuế thu được sẽ không đủ để duy trì bộ máy khổng lồ của chính quyền vốn đã yếu kém mà lại tham lam. Như vậy, CSVN phải đi tìm thêm một nguồn tiền nào khác để bù đắp vào khoản thất thu này. Bauxite Tây Nguyên há không phải là một nguồn kinh tế lớn trước mắt sao!?
b. Tiền bán tài nguyên của cha ông:
Việt nam có rừng vàng biển bạc, nhưng đó là quá khứ. Hiện nay rừng bị khai thác bừa bãi, thiếu khoa học, khai thác quá mức dẫn đến rừng bị kiệt quệ. Nhiều mảnh rừng xưa là mái nhà của muông thú, thực vật, nay trở lên hoang tàn và bạc màu. Nguồn thủy sản cũng vậy, với cách khai thác cá “triệt để” bằng các biện pháp khai thác “vô tội vạ” như “tát cạn bắt sạch” không con nào sống sót. Môi trường ô nhiễm trầm trọng, các sinh vật lần lượt bị chết và tiệt chủng. Diễn ra tình trạng này là do sự quản lý yếu kém, quan lieu, tham ô của chính quyền và do sự nghèo đói, thất học của người nhân trong 70 năm qua.
Cha ông để lại không chỉ rừng vàng biển bạc mà còn để lại trong lòng tất cả một kho tàng. Những kho tàng này chỉ mình chính phủ mới được đặc quyền đặc lợi khai thác. Tuy nhiên với cách khai thác tài nguyên lên mà “chén” thì đến ngày tài nguyên cũng cạn kiệt. Dầu khí – vàng đen với trữ lượng khoảng 2,7 tỷ thùng hiện nay đang là “nồi cơm nóng” của chính phú. Tuy nhiên nồi cơm này đang mỗi ngày một vơi đi: “Trong thực tế sản lượng dầu ở VN đã bắt đầu giảm: năm 2005, sản lượng dầu thô của VN bình quân khoảng 370.000 thùng/ngày, thấp hơn so với năm 2004 (vốn là 403.000 thùng/ngày) gần 10%” Việt nam cũng có một nguồn than khổng lồ. Nhưng với cách khai thác và quản lý yếu kém, hầu như năm nào ngành than cũng báo cáo “lỗ”!?
Trước tình trạng nguồn tài nguyên bị cạn kiệt như vậy, các “nồi cơm” đang mỗi ngày vơi đi, thì 5,4 tỷ tấn bauxite sẽ là một “củ khoai” lớn cho chính quyền bám vào trong lúc sắp chết đói.
c. Tiền viện trợ:
Chế độ công sản thường rêu rao rằng: Chế độ tư bản đang “giãy chết”, đang tự đào mồ chôn mình. Tuy nhiên chế độ tư bản hiện này không thấy vay tiền của chế độ XHCN để kéo dài sự sống mà ngược lại. Dưới sự lãnh đạo “ngu dốt” của Đảng và nhà nước, CSVN đi vay tiền của bọn “đang giãy chết” về xây dựng “thiên đường” XHCN.
Tuy nhiên tuy đang “giãy chết” nhưng các nhà tư bản cho vay đều kèm theo những điều kiện. Mà điều kiện này thì luôn bất lợi cho bên vay, vì người đi vay, đi xin không được ra điều kiện, “đã ăn mày rồi còn đòi xôi gấc). Nên nhớ rằng các nhà tư bản không phải là những nhà làm từ thiện. Họ đã đi trước các “đỉnh cao trí tuệ của nhân loại” hàng thế kỷ về khoa học, kỹ thuật, kinh tế cũng như cách làm ăn kinh kế. Vốn ODA là vốn vay kiểu Cha vay Con Cháu Chắt phải trả. ODA là hình thức xuất khẩu “tư bản”. Nếu nhà Tư bản cho ta vay 100 đồng (100%) thì chính lúc cho vay họ đã lấy lại được 30 đồng (30%), nhưng thực tế chúng ta vẫn nợ họ 100 đồng bằng cách: phía vay phải chấp nhận Nhà thầu và Tư vấn của họ và kể cả công nghệ phải mua của họ. Tư vấn nước ngoài chúng ta phải chấp nhận trả một giá rất cao từ 20 nghìn USD đến 50 nghìn USD/tháng tương đương với từ 300-700 lao động có thu nhập trung bình của Việt Nam. Nhà thầu của họ, nên họ bỏ giá rất cao.
Ngoài ra ODA còn là một hình thức xuất khẩu văn hóa và bành chướng của Tư Bản, người Nhật Bản coi rằng: ở đâu có hàng hóa của Nhật, ở đâu có người Nhật là đất nước Nhật ở đó. Ngày xưa người ta mang súng đạn đi xâm chiếm các nước khác, ngày nay người ta mang tiền đi xâm chiếm, khai thác tài nguyên, bóc lột nhân dân lao động của quốc gia bản địa mà quốc gia này vẫn phải cảm ơn. Trên trường quốc tế thì phải luôn ủng những kẻ cho vay. Càng vay nhiều thì càng lệ thuộc nhiều.
CSVN hiểu hơn ai hết khoản vay ODA không phải là nguồn tài chính có mãi mà nó chỉ là khoản vay “nóng”. Đặc biệt là khi CSVN chần chừ trong vụ PCI, Nhật Bản bất ngờ tuyên bố tạm dừng cho vay đến khi nào Việt Nam có biện pháp hữu hiệu giảm trừ tệ nạn tham nhũng, lúc đó một loạt các dự án đang thực hiện và các dự án đang trong giai đoạn nghiên cứu khả thi đều phải dừng lại. Hơn nữa, đã vay là phải trả, mà khi trả thì phải trả gốc lẫn lãi, và cũng đã đến lúc phải trả. Như vậy CSVN phải đi tìm một nguồn kinh tế khác, an toàn hơn, dễ xơi hơn. Bauxite Tây nguyên không phải là đáp án sao!?, nên CSVN mới gọi là kế hoạch lớn.
2. Sự tồn tại của chế động không còn được lâu nữa:
Chế độ này đã được hình thành và nuôi dưỡng bằng chính xương máu của nhân dân, Nhưng khi nó trưởng thành nó trở lại đè đầu đè cổ áp bức và cướp bóc của nhân nhân.
Từ ngày chế độ này nó còn là trứng nước, nó đã được các địa chủ bỏ tiền ra nuôi nó. Đến khi nó đã trưởng thành nó quay lại hạ sát giới địa chủ. Thủ đoạn này không khác gì Hitle. Nhờ một khoản tiền khổng lồ do những người Do Thái đóng góp, Hitle đã thành công trên con đường chính trị của mình. Nhưng khi thành công, vì không muốn mang nợ người Do Thái, Hitle đã tìm các lý do để giết người Do Thái. Kết quả là hơn sáu triệu người Do Thái vô tội đã chết dưới tay kẻ mà mình đã nuôi dưỡng.
Cộng sản cũng vậy, sau khi cướp được chính quyền, dưới chiêu bài cải cách ruộng đất đã giết bao nhiêu người vô tội. “Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây một không khí kinh hoàng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, và tác hại mạnh đến sự đoàn kết dân tộc và nhiều thế hệ người Việt”. Với số người bị giết hại “trong chương trình Cái cách Rộng đất là không thể thống kê chính xác và còn gây tranh cãi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải tìm cho ra tỷ lệ 5% địa chủ, chúng ghép tội "Việt gian" để mang ra đấu tố thì con số sẽ không ít”. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con số người chết vô tội trong cái được gọi là “cải cách ruộng đất” lên tới 500.000 người.
Với chiêu bài độc lập dân tộc, nó đã đưa cả dân tộc VN vào cuộc chiến tương tàn. Hàng triệu triệu con người đã ngã xuống. Khi quyền lực đã hoàn toàn nắm trong tay, chúng tìm mọi thủ đoạn để tiêu diệt, bỏ tù những người không cùng chiến tuyến với mình. Chúng thực hiện chính sách ngu dân (diệt trí thức) và bần cùng hóa nhân dân (tập thể hóa, đánh tư sản) để dễ bề thống trị. Dưới ánh sáng mặt trời, lịch sử đã, đang và sẽ phơi bày mọi tội ác của chúng.
Những tội ác chúng đã làm và đang làm đã gây ra “một xã hội thật đang thối nát quá mức rồi. Nếu không tỉnh táo sửa đổi thì tin rằng những tên bạo ác CSVN bất chấp nhân tâm này, đang đẩy nhân dân đến con đường bần cùng hóa quá mức. Đồng thời còn triệt hạ con cháu chúng ta nữa.”
Chế độ CSVN chính bản thân nó đã hiểu hơn ai hết rằng nhân dân Việt Nam đã căm ghét cái chế độ độc tài toàn trị này. Nó không còn tự tung tự đắc nữa ngay cả khi nó dùng các thủ đoạn kinh tởm sau:
1. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ.
2. Phải giữ cho cái gọi là 'phong trào dân chủ đối lập' không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng.
3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để 'dân trí cao' không đồng nghĩa với 'ý thức dân chủ cao'.
4. Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hòa giai cấp trung lưu đang lớn mạnh (gọi là 'co-optation')…
Bọn chúng CSVN cũng chỉ dám hy vọng rằng “Chế độ của chúng vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn.”
Đấy là nếu thực hiện được các thủ đoạn nói trên thì chúng mới hy vọng sống thêm 20 năm nữa. Nhưng thực tế cho thấy: “Đa số Đảng viên và quan chức hiện nay đều hèn nhát, những người dũng cảm có tư cách thì rất ít, những người này đều không lên cao được. Những kẻ chức vụ càng cao thì không những hèn mà còn nhát, thượng đội hạ đạp. Bản chất bọn chúng là những kẻ sợ sệt đủ thứ, chúng chỉ hung hăng khi nắm quyền lực trong tay và đối xử thô bạo với kẻ dưới hoặc những người không có chút quyền gì. Tin rằng, khi có một sự thay đổi bọn người này là những kẻ trốn chạy đầu tiên hoặc quay đầu theo lực lượng mới. Bọn chúng đa số đều là những kẻ giàu có, giờ thì lắm tiền nhiều của, sợ chết và sẵn sàng trở thành kẻ phản bội cho người khác sai bảo nếu được đảm bảo rằng không làm gì bọn chúng.
Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắc và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa.” Dù thời gian thế nào chế độ phi nhân nhất định phải sụp đổ.
CSVN biết rằng mình không còn sống được bao nhiêu nữa, “lo sợ giờ G đang đến gần”, nên trước khi chết nó muốn khai thác tất cả những nguồn tài nguyên nào còn lại để chia chác cho nhau, sợ rằng nếu không khai thác thì sau này sẽ rơi vào chính quyền mới mà không phải là nó.
3. Được chia phần:
Những vụ án như PMU.18 và PCI, cho thấy các quan chức được chia phần rất lớn. Kẻ trực tiếp tham nhũng chỉ là những con chốt cùng lắm là “dê” để tế thần mà thôi. Mà thực ra không có áp lực của dư luận hay của Nhật bản thì những con chốt này vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Khi có áp lực thì những con chốt này bị bắt đưa vào nhà tù “năm sao”, khi dư luận lắng xuống thì những con chốt này mặc com-lê bước ra khỏi nhà tù lên xe BMW về nhà như trường hợp Nguyễn Việt Tiến.
Những vụ án tham nhũng bị phanh phui chẳng qua là lũ CSVN không thể che đậy được nữa đành phải đưa ra ánh sáng. Nếu không có vụ cá độ bóng đá triệu đô, thì đâu có biết Bùi Tiến Dũng tham những như thế nào, Nguyễn Việt Tiến ra sao, vì “trước khi chưa bị bắt thì bọn chúng luôn mang nhản hiệu là những đảng viên tốt” theo như một quan chức BGTVT đã nói. Nếu không có vụ hiếp dâm tuổi vị thành niên thì, Lương Quốc Dũng đâu phải “ngồi tù năm sao”. Nếu không có áp lực dừng viện trợ đột ngột của Nhật Bản thì làm gì có vụ PCI.
Hãy lắng nghe một đảng viên viết trong bài “lời bộc bạch của một đảng viên”: “Lê Thanh Hải đã chi ra cả trăm tỷ đồng để hối lộ cho những vị ủy viên Bộ Chính Trị vào tận Sài Gòn để xem xét việc cách chức ông ta vì dính đến vụ PCI. Bây giờ bọn chúng lại tuyên bố với đám đàn em kinh tài là vững như bàn thạch vì không những thế, chính tên Thủ Tướng CSVN còn nhận mấy triệu đô la nữa. Lúc này bọn chúng ra sức vơ vét và tạo điều kiện cho các đàn em kinh tài vơ vét để bù lại những gì đã phải chi ra để chạy tội. Những chuyện này giờ đây tồn tại như một sự tất yếu, chẳng có gì đáng ngạc nhiên.”
Những dự án vay tiền của nước ngoài, tiền thuế của nhân dân chúng còn ăn chia, thì một dự án bauxite khổng lồ như thế này, với toàn quyền lực trong tay sẽ là một sự ăn chia lớn, một miếng mồi béo bở.
4. Đã trót bán cho Trung Cộng:
Cái gọi là “Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc, nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức giữa Việt Cộng và Trung Cộng của tên Nông Đức Mạnh » từ ngày 30 tháng 11 đến ngày 4 tháng 12 năm 2001, ngoài khuôn khổ chung về hợp tác hợp tác kinh tế, thương mại,khoa học kỹ thuật và các lĩnh vực khác thì hai bên đã “nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông” và “Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông”.
Đây là những lời hoa mỹ có tính ngoại giao và công khai cho mọi người. Nhưng thực tế Nông Đức Manh đã đi đêm với Hồ Cẩm Đào. “Nông Đức Mạnh bàn việc riêng với nhân viên đối nhiệm của Trung Cộng trong những lần đến thăm Bắc Kinh và Đảo Hải Nam. Các điều khoản thỏa thuận và thi hành hoàn toàn được giữ bí mật, vả người ta chỉ được biết quyết định giữa hai Đảng Cộng Sản được xúc tiến từ 2006”.
Trước đây Phạm Văn Đồng dâng đảo, dâng biển cho Trung Quốc, Lê Khả Phiêu dâng đất liền cho Trung Quốc, thì việc Nông Đức Mạnh hiện nay bán hay hiến Tây Nguyên cho Trung Quốc cũng không có gì lạ lắm.
Hơn nữa CSVN hiện nay là một tập đoàn bạc nhược. Trong nước thì hà hiếp cướp bóc của dân, trắng trợn gần đây nhất là vụ cướp đất Thái Hà và Tòa Khâm Sứ, quốc tế thì theo như mọi người nhận xét “thái độ của cộng sản Việt Nam quá rụt rè, có thể nói là nhu nhược” trước vấn đề Trung Quốc cướp thêm biển thêm đảo. Trong khi nó đến cướp đất, cướp đảo và cướp biển còn không dám mở mồm, còn cấm những người yêu nước lên tiếng thì một khi đã trót hứa dâng-bán Tây Nguyên cho Trung Cộng rồi thì với bản chất nhu nhược như vậy đâu dám “đòi lại”.
Lời kết:
Tóm lại, việc khai thác bauxite để “duy trì chế độ, lo sợ giờ G sắp đến, được ăn chia và đã trót bán cho Quan thầy Trung Cộng” thì không phải là một “chủ chương lớn của cái đảng và nhà nước bạc nhược hay sao ?”
Trần Công Luận.
Câu hỏi đặt ra là: tại sao Chính quyền cộng sản Việt Nam khăng khăng cho rằng khai thác bauxite ở Tây nguyên là chủ chương lớn của đảng, của nhà nước, mặc dù đã có nhiều kiến nghị không khai thác quặng này từ phía các nhà khoa học và nhân dân, kể cả Tướng Giáp? Và đây là những lý do để giải thích cho câu hỏi này:
1. Duy trì chế độ:
Như đã biết, chế độ hiện nay có một bộ máy chính quyền rất cồng kềnh, chân rết của nó bám sâu vào mọi tổ chức đoàn thể quần chúng, cùng với đội ngũ cảnh sát quân đội khổng lồ (chỉ một vụ án xử 8 người dân Thái Hà hiền lành thôi mà chính quyền đã huy động hằng trăm CSCĐ cùng với chó nghiệp vụ và vô vàn các thiết bị an ninh khác). Để duy trì được chế độ này thì cần một lượng kinh tế rất lớn. Thêm vào nữa, đây là một bộ máy gồm những “quan tham” rất “béo” do tham nhũng, mánh lới và cướp bóc. Vì thế, nguồn tiền đổ vào để nuôi bộ máy này cần rất nhiều. Lấy tiền đâu ra mà nuôi?
a. Tiền thuế:
Tiền thuế là một khoản thu lớn nhất của Chính quyền. Tuy nhiên với một chính quyền yếu kém về năng lực, bảo thủ trong tư duy, suy đồi về đạo đức và tham nhũng trong mọi tình huống thì một lượng lớn tiền thuế đã bị thất thoát.
Báo chí do nhà nước kiểm soát hằng ngày đưa tin về việc buôn lậu diễn ra ở Việt Nam là chuyện cơm bữa. Bất cứ mặt hàng nào cũng đều được người ta buôn lậu. Hàng buôn lậu ở Việt Nam được thực hiện bằng mọi hình thức, được vận chuyển bằng mọi con đường: đường bộ, đường sắt, đường biển và kể cả đường hàng không. Những kẻ buôn lậu thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, kể cả quan chức cao cấp ngoại giao của chính phủ, và kể cả phi hành đoàn của Hãng hàng không Việt Cộng.
Các công ty trong nước thi nhau lập hóa đơn khống tìm đủ mọi cách trốn/gian lận thuế. Thử hỏi bất cứ một công ty nào xem họ có trung thực thuế 100% không thì không có một công ty nào trả lời là trung thực cả. Bất cứ một công ty nào đều có hai hệ thống kế toán: hệ thống kế toán báo cáo thuế (để gian lận và trốn thuế) và hệ thống kế toán nội bộ công ty (kinh doanh thực tế của công ty).
Ngoài ra cán bộ thuế/kiểm toán còn móc ngoặc với các công ty để ăn chia v.v. Đây là một thực tai ai cũng biết. Với khoản thất thu như vậy, tiền thuế thu được sẽ không đủ để duy trì bộ máy khổng lồ của chính quyền vốn đã yếu kém mà lại tham lam. Như vậy, CSVN phải đi tìm thêm một nguồn tiền nào khác để bù đắp vào khoản thất thu này. Bauxite Tây Nguyên há không phải là một nguồn kinh tế lớn trước mắt sao!?
b. Tiền bán tài nguyên của cha ông:
Việt nam có rừng vàng biển bạc, nhưng đó là quá khứ. Hiện nay rừng bị khai thác bừa bãi, thiếu khoa học, khai thác quá mức dẫn đến rừng bị kiệt quệ. Nhiều mảnh rừng xưa là mái nhà của muông thú, thực vật, nay trở lên hoang tàn và bạc màu. Nguồn thủy sản cũng vậy, với cách khai thác cá “triệt để” bằng các biện pháp khai thác “vô tội vạ” như “tát cạn bắt sạch” không con nào sống sót. Môi trường ô nhiễm trầm trọng, các sinh vật lần lượt bị chết và tiệt chủng. Diễn ra tình trạng này là do sự quản lý yếu kém, quan lieu, tham ô của chính quyền và do sự nghèo đói, thất học của người nhân trong 70 năm qua.
Cha ông để lại không chỉ rừng vàng biển bạc mà còn để lại trong lòng tất cả một kho tàng. Những kho tàng này chỉ mình chính phủ mới được đặc quyền đặc lợi khai thác. Tuy nhiên với cách khai thác tài nguyên lên mà “chén” thì đến ngày tài nguyên cũng cạn kiệt. Dầu khí – vàng đen với trữ lượng khoảng 2,7 tỷ thùng hiện nay đang là “nồi cơm nóng” của chính phú. Tuy nhiên nồi cơm này đang mỗi ngày một vơi đi: “Trong thực tế sản lượng dầu ở VN đã bắt đầu giảm: năm 2005, sản lượng dầu thô của VN bình quân khoảng 370.000 thùng/ngày, thấp hơn so với năm 2004 (vốn là 403.000 thùng/ngày) gần 10%” Việt nam cũng có một nguồn than khổng lồ. Nhưng với cách khai thác và quản lý yếu kém, hầu như năm nào ngành than cũng báo cáo “lỗ”!?
Trước tình trạng nguồn tài nguyên bị cạn kiệt như vậy, các “nồi cơm” đang mỗi ngày vơi đi, thì 5,4 tỷ tấn bauxite sẽ là một “củ khoai” lớn cho chính quyền bám vào trong lúc sắp chết đói.
c. Tiền viện trợ:
Chế độ công sản thường rêu rao rằng: Chế độ tư bản đang “giãy chết”, đang tự đào mồ chôn mình. Tuy nhiên chế độ tư bản hiện này không thấy vay tiền của chế độ XHCN để kéo dài sự sống mà ngược lại. Dưới sự lãnh đạo “ngu dốt” của Đảng và nhà nước, CSVN đi vay tiền của bọn “đang giãy chết” về xây dựng “thiên đường” XHCN.
Tuy nhiên tuy đang “giãy chết” nhưng các nhà tư bản cho vay đều kèm theo những điều kiện. Mà điều kiện này thì luôn bất lợi cho bên vay, vì người đi vay, đi xin không được ra điều kiện, “đã ăn mày rồi còn đòi xôi gấc). Nên nhớ rằng các nhà tư bản không phải là những nhà làm từ thiện. Họ đã đi trước các “đỉnh cao trí tuệ của nhân loại” hàng thế kỷ về khoa học, kỹ thuật, kinh tế cũng như cách làm ăn kinh kế. Vốn ODA là vốn vay kiểu Cha vay Con Cháu Chắt phải trả. ODA là hình thức xuất khẩu “tư bản”. Nếu nhà Tư bản cho ta vay 100 đồng (100%) thì chính lúc cho vay họ đã lấy lại được 30 đồng (30%), nhưng thực tế chúng ta vẫn nợ họ 100 đồng bằng cách: phía vay phải chấp nhận Nhà thầu và Tư vấn của họ và kể cả công nghệ phải mua của họ. Tư vấn nước ngoài chúng ta phải chấp nhận trả một giá rất cao từ 20 nghìn USD đến 50 nghìn USD/tháng tương đương với từ 300-700 lao động có thu nhập trung bình của Việt Nam. Nhà thầu của họ, nên họ bỏ giá rất cao.
Ngoài ra ODA còn là một hình thức xuất khẩu văn hóa và bành chướng của Tư Bản, người Nhật Bản coi rằng: ở đâu có hàng hóa của Nhật, ở đâu có người Nhật là đất nước Nhật ở đó. Ngày xưa người ta mang súng đạn đi xâm chiếm các nước khác, ngày nay người ta mang tiền đi xâm chiếm, khai thác tài nguyên, bóc lột nhân dân lao động của quốc gia bản địa mà quốc gia này vẫn phải cảm ơn. Trên trường quốc tế thì phải luôn ủng những kẻ cho vay. Càng vay nhiều thì càng lệ thuộc nhiều.
CSVN hiểu hơn ai hết khoản vay ODA không phải là nguồn tài chính có mãi mà nó chỉ là khoản vay “nóng”. Đặc biệt là khi CSVN chần chừ trong vụ PCI, Nhật Bản bất ngờ tuyên bố tạm dừng cho vay đến khi nào Việt Nam có biện pháp hữu hiệu giảm trừ tệ nạn tham nhũng, lúc đó một loạt các dự án đang thực hiện và các dự án đang trong giai đoạn nghiên cứu khả thi đều phải dừng lại. Hơn nữa, đã vay là phải trả, mà khi trả thì phải trả gốc lẫn lãi, và cũng đã đến lúc phải trả. Như vậy CSVN phải đi tìm một nguồn kinh tế khác, an toàn hơn, dễ xơi hơn. Bauxite Tây nguyên không phải là đáp án sao!?, nên CSVN mới gọi là kế hoạch lớn.
2. Sự tồn tại của chế động không còn được lâu nữa:
Chế độ này đã được hình thành và nuôi dưỡng bằng chính xương máu của nhân dân, Nhưng khi nó trưởng thành nó trở lại đè đầu đè cổ áp bức và cướp bóc của nhân nhân.
Từ ngày chế độ này nó còn là trứng nước, nó đã được các địa chủ bỏ tiền ra nuôi nó. Đến khi nó đã trưởng thành nó quay lại hạ sát giới địa chủ. Thủ đoạn này không khác gì Hitle. Nhờ một khoản tiền khổng lồ do những người Do Thái đóng góp, Hitle đã thành công trên con đường chính trị của mình. Nhưng khi thành công, vì không muốn mang nợ người Do Thái, Hitle đã tìm các lý do để giết người Do Thái. Kết quả là hơn sáu triệu người Do Thái vô tội đã chết dưới tay kẻ mà mình đã nuôi dưỡng.
Cộng sản cũng vậy, sau khi cướp được chính quyền, dưới chiêu bài cải cách ruộng đất đã giết bao nhiêu người vô tội. “Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây một không khí kinh hoàng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, và tác hại mạnh đến sự đoàn kết dân tộc và nhiều thế hệ người Việt”. Với số người bị giết hại “trong chương trình Cái cách Rộng đất là không thể thống kê chính xác và còn gây tranh cãi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải tìm cho ra tỷ lệ 5% địa chủ, chúng ghép tội "Việt gian" để mang ra đấu tố thì con số sẽ không ít”. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con số người chết vô tội trong cái được gọi là “cải cách ruộng đất” lên tới 500.000 người.
Với chiêu bài độc lập dân tộc, nó đã đưa cả dân tộc VN vào cuộc chiến tương tàn. Hàng triệu triệu con người đã ngã xuống. Khi quyền lực đã hoàn toàn nắm trong tay, chúng tìm mọi thủ đoạn để tiêu diệt, bỏ tù những người không cùng chiến tuyến với mình. Chúng thực hiện chính sách ngu dân (diệt trí thức) và bần cùng hóa nhân dân (tập thể hóa, đánh tư sản) để dễ bề thống trị. Dưới ánh sáng mặt trời, lịch sử đã, đang và sẽ phơi bày mọi tội ác của chúng.
Những tội ác chúng đã làm và đang làm đã gây ra “một xã hội thật đang thối nát quá mức rồi. Nếu không tỉnh táo sửa đổi thì tin rằng những tên bạo ác CSVN bất chấp nhân tâm này, đang đẩy nhân dân đến con đường bần cùng hóa quá mức. Đồng thời còn triệt hạ con cháu chúng ta nữa.”
Chế độ CSVN chính bản thân nó đã hiểu hơn ai hết rằng nhân dân Việt Nam đã căm ghét cái chế độ độc tài toàn trị này. Nó không còn tự tung tự đắc nữa ngay cả khi nó dùng các thủ đoạn kinh tởm sau:
1. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ.
2. Phải giữ cho cái gọi là 'phong trào dân chủ đối lập' không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng.
3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để 'dân trí cao' không đồng nghĩa với 'ý thức dân chủ cao'.
4. Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hòa giai cấp trung lưu đang lớn mạnh (gọi là 'co-optation')…
Bọn chúng CSVN cũng chỉ dám hy vọng rằng “Chế độ của chúng vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn.”
Đấy là nếu thực hiện được các thủ đoạn nói trên thì chúng mới hy vọng sống thêm 20 năm nữa. Nhưng thực tế cho thấy: “Đa số Đảng viên và quan chức hiện nay đều hèn nhát, những người dũng cảm có tư cách thì rất ít, những người này đều không lên cao được. Những kẻ chức vụ càng cao thì không những hèn mà còn nhát, thượng đội hạ đạp. Bản chất bọn chúng là những kẻ sợ sệt đủ thứ, chúng chỉ hung hăng khi nắm quyền lực trong tay và đối xử thô bạo với kẻ dưới hoặc những người không có chút quyền gì. Tin rằng, khi có một sự thay đổi bọn người này là những kẻ trốn chạy đầu tiên hoặc quay đầu theo lực lượng mới. Bọn chúng đa số đều là những kẻ giàu có, giờ thì lắm tiền nhiều của, sợ chết và sẵn sàng trở thành kẻ phản bội cho người khác sai bảo nếu được đảm bảo rằng không làm gì bọn chúng.
Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắc và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa.” Dù thời gian thế nào chế độ phi nhân nhất định phải sụp đổ.
CSVN biết rằng mình không còn sống được bao nhiêu nữa, “lo sợ giờ G đang đến gần”, nên trước khi chết nó muốn khai thác tất cả những nguồn tài nguyên nào còn lại để chia chác cho nhau, sợ rằng nếu không khai thác thì sau này sẽ rơi vào chính quyền mới mà không phải là nó.
3. Được chia phần:
Những vụ án như PMU.18 và PCI, cho thấy các quan chức được chia phần rất lớn. Kẻ trực tiếp tham nhũng chỉ là những con chốt cùng lắm là “dê” để tế thần mà thôi. Mà thực ra không có áp lực của dư luận hay của Nhật bản thì những con chốt này vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Khi có áp lực thì những con chốt này bị bắt đưa vào nhà tù “năm sao”, khi dư luận lắng xuống thì những con chốt này mặc com-lê bước ra khỏi nhà tù lên xe BMW về nhà như trường hợp Nguyễn Việt Tiến.
Những vụ án tham nhũng bị phanh phui chẳng qua là lũ CSVN không thể che đậy được nữa đành phải đưa ra ánh sáng. Nếu không có vụ cá độ bóng đá triệu đô, thì đâu có biết Bùi Tiến Dũng tham những như thế nào, Nguyễn Việt Tiến ra sao, vì “trước khi chưa bị bắt thì bọn chúng luôn mang nhản hiệu là những đảng viên tốt” theo như một quan chức BGTVT đã nói. Nếu không có vụ hiếp dâm tuổi vị thành niên thì, Lương Quốc Dũng đâu phải “ngồi tù năm sao”. Nếu không có áp lực dừng viện trợ đột ngột của Nhật Bản thì làm gì có vụ PCI.
Hãy lắng nghe một đảng viên viết trong bài “lời bộc bạch của một đảng viên”: “Lê Thanh Hải đã chi ra cả trăm tỷ đồng để hối lộ cho những vị ủy viên Bộ Chính Trị vào tận Sài Gòn để xem xét việc cách chức ông ta vì dính đến vụ PCI. Bây giờ bọn chúng lại tuyên bố với đám đàn em kinh tài là vững như bàn thạch vì không những thế, chính tên Thủ Tướng CSVN còn nhận mấy triệu đô la nữa. Lúc này bọn chúng ra sức vơ vét và tạo điều kiện cho các đàn em kinh tài vơ vét để bù lại những gì đã phải chi ra để chạy tội. Những chuyện này giờ đây tồn tại như một sự tất yếu, chẳng có gì đáng ngạc nhiên.”
Những dự án vay tiền của nước ngoài, tiền thuế của nhân dân chúng còn ăn chia, thì một dự án bauxite khổng lồ như thế này, với toàn quyền lực trong tay sẽ là một sự ăn chia lớn, một miếng mồi béo bở.
4. Đã trót bán cho Trung Cộng:
Cái gọi là “Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc, nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức giữa Việt Cộng và Trung Cộng của tên Nông Đức Mạnh » từ ngày 30 tháng 11 đến ngày 4 tháng 12 năm 2001, ngoài khuôn khổ chung về hợp tác hợp tác kinh tế, thương mại,khoa học kỹ thuật và các lĩnh vực khác thì hai bên đã “nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông” và “Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông”.
Đây là những lời hoa mỹ có tính ngoại giao và công khai cho mọi người. Nhưng thực tế Nông Đức Manh đã đi đêm với Hồ Cẩm Đào. “Nông Đức Mạnh bàn việc riêng với nhân viên đối nhiệm của Trung Cộng trong những lần đến thăm Bắc Kinh và Đảo Hải Nam. Các điều khoản thỏa thuận và thi hành hoàn toàn được giữ bí mật, vả người ta chỉ được biết quyết định giữa hai Đảng Cộng Sản được xúc tiến từ 2006”.
Trước đây Phạm Văn Đồng dâng đảo, dâng biển cho Trung Quốc, Lê Khả Phiêu dâng đất liền cho Trung Quốc, thì việc Nông Đức Mạnh hiện nay bán hay hiến Tây Nguyên cho Trung Quốc cũng không có gì lạ lắm.
Hơn nữa CSVN hiện nay là một tập đoàn bạc nhược. Trong nước thì hà hiếp cướp bóc của dân, trắng trợn gần đây nhất là vụ cướp đất Thái Hà và Tòa Khâm Sứ, quốc tế thì theo như mọi người nhận xét “thái độ của cộng sản Việt Nam quá rụt rè, có thể nói là nhu nhược” trước vấn đề Trung Quốc cướp thêm biển thêm đảo. Trong khi nó đến cướp đất, cướp đảo và cướp biển còn không dám mở mồm, còn cấm những người yêu nước lên tiếng thì một khi đã trót hứa dâng-bán Tây Nguyên cho Trung Cộng rồi thì với bản chất nhu nhược như vậy đâu dám “đòi lại”.
Lời kết:
Tóm lại, việc khai thác bauxite để “duy trì chế độ, lo sợ giờ G sắp đến, được ăn chia và đã trót bán cho Quan thầy Trung Cộng” thì không phải là một “chủ chương lớn của cái đảng và nhà nước bạc nhược hay sao ?”
Trần Công Luận.
tirsdag 5. mai 2009
Kẻ Ăn Ốc, Người Đổ Vỏ
Kẻ Ăn Ốc, Người Đổ Vỏ
Luận Về Việc Cứu Trợ Nạn Nhân Các Loại Ở Việt Nam:
Bên cạnh những sự kiện chính trị nóng hổi như sự ra đời các đoàn thể, đảng phái tranh đấu cho Tự Do Nhân Quyền ở Việt Nam, vấn đề cứu trợ nạn nhân các thành phần tại Việt Nam cũng là một đề tài vô cùng tế nhị và gây tranh luận lâu dài mà phía nào cũng đưa ra những luận cứ vững chắc, hợp tình để biện minh cho lập trường của mình.
Tệ nạn xã hội, thiên tai (bão lụt, hạn hán, sóng thần…) thì thời nào cũng có.
Từ xã hội nghèo đói cho đến xã hội văn minh giàu có, không ai dám nhận là đã xoá hết các tệ nạn đã đưa đẩy một tỷ lệ dân chúng lâm vào cách hoàn cảnh đáng thương.
Ở Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu, cũng có hàng trăm ngàn người không nhà, trẻ em khuyết tật, người già bị bỏ rơi, bệnh nhân các nan y không phương cứu chữa. Đó là những người hàng ngày sống trông chờ vào lòng nhân ái của đồng bào, đồng chủng.
Người ta nói “Chỉ có cầm thú mới quay lưng trước khổ đau của đồng loại.” Nói thế cũng chưa đủ, vì có nhiều loại thú cũng chẳng hề bỏ rơi đồng loại khi nguy biến. Đó là nói về phạm trù đạo đức mà tổ tiên chúng ta đã từng giáo dục qua những câu ca dao rất quen thuộc:
Nhiểu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Thấy người hoạn nạn thì thương
Thấy người tàn tật lại càng thương hơn
hoặc:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Truyền thống dân tộc Việt Nam đã bao đời chứng minh tình nghĩa đùm bọc nhau trong bao biến cố thăng trầm, qua bao tai biến thiên nhiên. Đó là việc hiển nhiên, không chối cãi và cũng không thể nại ra lý do để bài bác.
Tuy nhiên, chúng ta không xét vấn đề hời hợt bên ngoài mà không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của những tệ nạn. Có như thế, chúng ta mới tìm được cách giải quyết tận gốc rễ để giảm thiểu những nỗi khổ đau của đồng bào, đồng loại một cách có hiệu quả.
Đó là chúng tôi muốn đề cập đến phạm trù chính trị mà hiện những người Việt yêu nước đang phải dương đầu để giành lại quyền sống cho người dân Việt Nam tại quốc nội.
Ngày xưa, trước năm 1975, tuy bị chi phối bởi chiến tranh dai dẳng, tàn khốc, chính phủ VNCH cũng đã có những chương trình cải tạo xã hội. Ba mục tiêu chiến lược mà cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đề ra sau khi đắc cử là:
“Xây Dựng Dân Chủ, Giải quyết Chiến tranh, và Cải tạo Xã hội.”
Khó mà bàn luận về thành quả của các mục tiêu này, vì chính TT Thiệu và nội các của ông đã bị chi phối bởi nhiều vấn đề rất phức tạp, khó khăn của chiến sự và sự bất nhất của đồng minh Hoa Kỳ trong khi Cộng sản Bắc Việt tập trung nỗ lực phá hoại các công cuộc xây dưng phát triển của miền Nam. Tuy nhiên đã có những cố gắng về phiá chính phủ trong việc giải quyết phần nào thành công những tệ nạn, cứu trợ từ các nạn nhân chiến tranh đến các nạn nhân xã hội.
Sau khi Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, họ tuyên bố các tệ nạn là sản phẩm của “Mỹ Ngụy”, là hậu quả của chiến tranh; vì họ cho rằng chế độ Xã hội Chủ Nghĩa của họ là thiên đường, không có những nạn bóc lột người và chính quyền của họ là ưu việt trong việc xây dựng “một xã hội phồn vinh hạnh phúc, vân vân.”
Thế nhưng đảng Cộng sản đã cầm quyền hơn nửa thế kỷ trên miền Bắc, và 34 năm tại miền Nam. Chúng ta thử rộng lương thông cảm hoàn cảnh chiến tranh mà chỉ tính khoảng thời gian 34 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Người Cộng sản chiếm được miền Nam với một tài sản không lồ, một nhân lực hùng hậu có trình độ kỹ thuật, và một mức phát triển kinh tế tương đối cao trong khu vực các quốc gia vùng Đông Nam Á do chính quyền miền Nam để lại. Họ đã làm được gì ngoài việc lợi dụng quyền năng để cướp đoạt, bóc lột cho vào túi tham không đáy sau những năm dài đói khổ trong cái thiên đường XHCN miền Bắc?
Ngay khi loài người biết tập hợp lại để thành lập cơ cấu chính quyền, thì chức năng đầu tiên và quan trọng nhất là lo cho phúc lợi xã hội của người dân. Đó là vấn đề an sinh xã hội. Các chức năng khác như quốc phòng, phát triển kinh tế, giáo dục... cũng chẳng qua là để hỗ trợ, bảo đảm cho việc phát triển an sinh.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh do Bình Định Vương Lê Lợi khởi xướng, nhà mưu lược đại tài Nguyễn Trãi đã soạn ra một bản văn hùng hồn lên án giặc Minh và kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đó là bản “Bình Ngô Đại Cáo” mà đã mở đầu bằng câu:
“Việc trị nước cốt để an dân.”
Chức năng chính quyền là làm cho dân giàu, nước mạnh. Chính quyền có khả năng thu thuế và có điều kiện vận động để thực thi mục tiêu an dân. Vấn đề xã hội phải được nâng lên hàng đầu cốt làm sao cho nơi nơi, người dân sống ấm no, hạnh phúc.
Thực tế hàng chục năm qua đã chứng minh, ngụy quyền Cộng sản không những không quan tâm đến giải quyết vấn đề an sinh xã hội, mà còn góp phần làm cho các tệ nạn tăng nhanh do những chính sách hà khắc, bóc lột. Họ chỉ thực sự quan tâm đến việc củng cố guồng máy cai trị và sự vững mạnh của đảng Cộng Sản để bảo vệ cho quyền lực và lợi nhuận riêng của đảng; hay nói đúng hơn, của những đảng viên nòng cốt.
Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ rằng trong khi có hàng triệu người dân chật vật kiếm miếng ăn, sống chui rúc trong những căn nhà ổ chuột, lang thang ngoài hè phố, đói rách nơi rừng thiêng nước độc, phải bán con, đợ vợ thì có hàng trăm viên chức cao cấp trong đảng có tài sản từ hàng trăm triệu đến hàng tỷ đô la.
Số cán bộ Cộng sản trung cấp nay là các nhà tư sản đỏ, cũng có tài sản hàng triệu đô la mà không phải do khả năng kinh doanh thực sự, mà chỉ do quyền thế hối mại, tham những, ăn cắp từ công khố, từ tiền viện trợ của nước ngoài, từ tiền do sách nhiễu đồng bào. Họ không chừa một ngõ ngách nào trong sinh hoạt xã hội mà không lợi dụng để kiếm đồng tiền bất chính.
Do đó, các tệ nạn còn lại sau chiến tranh đã được nhân lên gấp bội. Lực lượng nạn nhân từ những người thiếu may mắn của miền Nam trước đây, nay được tăng cường thêm hàng triệu người do hậu quả chính sách đuổi dân thành thị đi xây dựng khu kinh tế mới, cải tạo “ngụy quân, ngụy quyền”, cải tạo công thương nghiệp, tập sản hoá, hợp tác hoá, bán bãi vượt biên. Dân đã nghèo, càng nghèo thêm. Dân đã đói, càng thêm đói.
Cho đến khi nhìn thấy nguồn lợi từ du lịch, Cộng sản đã đổ tiền vào xây dựng những khu du lịch bề thế để hấp dẫn khách nước ngoài. Sự phát triển thiếu cân bằng giữa các lãnh vực đã đưa đến hậu quả là sự phồn vinh hoành tráng bên ngoài ở một vài trung tâm du lịch trong khi chỉ cách đó chừng vài trăm thước, là cảnh bùn lầy nước đọng của những cư dân thành phần mạt hạng trong xã hội. Và hậu quả nặng nề nhất ảnh hưởng đến suy đồi đạo đức xã hội là đưa đẩy một số lớn các thanh niên thiếu nữ vào con đường bán thân vì chỉ có cách đó mới sống còn trong cái xã hội bắt đầu tiêm nhiễm những xa hoa của chế độ tư bản do du khách và các tư sản đỏ mới nổi lên phô bày ra.
Ngụy quyền Cộng Sản không những không chú tâm giải quyết tệ nạn mà còn tạo thêm ra tệ nạn. Đáng trách hơn, họ còn lợi dụng các tệ nạn, thiên tai để moi tiền cứu trợ.
Từ hàng chục năm qua, chúng ta đã đọc trên các báo những tin tức về các phái đoàn trong nước, của người Việt hải ngoại quyên góp tiền để cứu trợ các thành phần nạn nhân từ tệ nạn xã hội cho đến thiên tai. Rất nhiều, nếu không nói là hầu hết, đều kể ra việc các viên chức các cấp trong guồng máy ngụy quyền Cộng sản đã ngăn cản, gây khó dể, đe doạ... nhằm giành lấy số tiền, phẩm vật cứu trợ để chia chác nhau. Họ đã thay gạo ngon bằng gạo mục trong các kho nhà nước để cấp phát cho nạn nhân. Họ đã lập ra danh sách những bà con bạn bè để nhận quà thay vì những nạn nhân thực thụ. Họ đã cưỡng ép người thụ hưởng phải ký giấy nhận đủ tiền, nhưng chỉ trao cho khoảng một phần mười số tiền hay phẩm vật cứu trợ. Họ đã tuyên truyền lập công trong việc cứu trợ cho nhà nước Cộng Sản thay vì nói thật đó là tấm lòng của những người Việt Hải ngoại hay những cơ quan từ thiện quốc tế.
Họ đã gửi ra nước ngoài những tu sĩ quốc doanh để vận động quyên góp tín đồ gửi tiền về xây dựng nhà thờ, chùa chiền trong khi có hàng trăm cơ sở tôn giáo bị họ tịch thu từ hàng chục năm qua vẫn chưa được hoàn trả. Dù các giáo hội Thiên Chúa giáo hay Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo đã lên tiếng khẩn thiết để đòi lại.
Họ thu thuế người dân, họ nhận tiền viện trợ từ các quốc gia, các cơ quan quốc tế thì họ phải sử dụng tiền đó vào việc phát triển, phúc lợi.
Các quốc gia, các cơ quan tài trợ ngoại quốc khi cho nguỵ quyền Cộng sản Việt Nam vay nợ đã đặ ra những điều kiện này nọ về cải cách chính sách, giải quyết vấn đề dân chủ, nhân quyền. Trong khi tập thể người Việt “Chống Cộng” hải ngoại cho không mỗi năm hàng 3, 4 tỷ đô la mà không có một đòi hỏi điều kiện nào cả! Thật là rộng lượng dễ tính đến mức độ phải nói là xuẫn động. Chúng ta có người đã lao động cực khổ “cày” hai ba job, chịu thương chịu khó mỗi tuần hàng 50, 60 giờ trong các công xưởng của Mỹ để rồi đưa vai ra gánh giùm các gánh nặng của Cộng sản cho chúng rảnh tay làm những việc đàn áp nhân dân, làm giàu riêng cho bản thân, gia đình.
Chúng tôi đã nghe chuyện những con em cán bộ Cộng sản đi du học tại San Francisco mua nhà hơn nửa triệu đô la bằng tiền mặt; đi mua sắm hàng ngàn đô la mồi lần trong các shopping mall sang trọng. Chúng tôi đã nghe kể các “phu nhân” các cán bộ CS đi du lịch bên Trung hoa vung hàng ngàn đô la tiêu xài dễ dàng như chúng ta xài bạc chục bên Mỹ này.
Sau cơn bão cuối năm 2006 vừa qua tàn phá các tỉnh miền Trung, ngụy quyền CS tuyên bố chi ra khoảng 2 tỷ đồng Việt Nam (khoảng 150 ngàn đô la) để cứu trợ nạn nhân tình Quảng Trị. Trong khi đó, hai cán bộ đảng về hưu đã được cấp từ 6 đến 8 tỷ bạc để mua xe hơi đời mới. Cần lưu ý rằng chỉ tại Việt Nam và các nước Cộng Sản, ngoài hệ thống chính quyền để điều hành công việc nhà nước, còn tồn tại song song một hệ thống đảng đồ sộ hơn, đông đảo hơn để lãnh đạo chính quyền. Mà người dân vừa phải đóng góp nuôi trả chi phí cho cơ quan công quyền, lại vừa trang trải cho cái hệ thống đảng lãnh đạo này. Có rất nhiều cán bộ các cấp vừa nắm quyền trong đảng vừa trong chính quyền nên đã xem như hưởng hai lần phúc lợi.
Chúng tôi không dám nghi ngờ thiện ý của những cơ quan, những cá nhân quyên góp tiền về cứu trợ đồng bào (dù rằng không thể không có những phần tử xấu lợi dụng để mưu lợi riêng tư, lấy tiền bỏ túi hay mưu cầu danh vọng). Chúng tôi cũng không hề nói rằng những vị làm từ thiện là tay sai Cộng Sản như đã từng có người lên án gay gắt. Chúng tôi đánh giá cao và vinh danh những hoạt động từ thiện vì đó là sự băn khoăn, sự cảm thông sâu sắc đến những đau khổ của đồng bào trong nước. Nếu chính phủ CS đã hết lòng lo toan mà không có khả năng làm xuể, chúng tôi sẽ xung phong góp phần. Nhưng thử nghĩ cứ 100 đô la chúng ta gửi về, chỉ có vài đô la đến tay người đáng nhận, còn lại thì vào túi bọn cán bộ. Như thế, sự giúp đỡ của chúng ta giải quyết được gì? Có thể coi là chúng ta đạt được mục tiêu cứu trợ không?
Không phải những người không ủng hộ việc cứu trợ là vô tình với nỗi đau của đồng bào. Họ có cách nhìn khác. Ví như một người bệnh mà vi trùng đã ăn vào máu cần được mổ xẻ, chữa trị tận gốc thay vì chỉ dùng thuốc đỏ bôi xoa bên ngoài vết lở lói. Cái vi trùng độc hại này là cơ chế Cộng sản đang cầm quyền mà ngày nào còn tại vị, thì tệ nạn vẫn còn và càng gia tăng
Thế nên hải ngoại mới có những Trần Văn Bá, Nguyễn Quốc Túy, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh và hàng ngàn chiến sĩ quốc gia đang ngày đêm hoạt động trong các lãnh vực để tiếp tục cuộc chiến tranh chính trị, ngoại giao để chống nguỵ quyền CS. Thế nên trong nước mới có Hoà Thương Quảng Độ, Huyền Quang; những linh mục Nguyễn Văn Lý, mục sư Hồng Quang, những người tranh đấu Nguyễn Đan Quế, Phạm Hồng Sơn, Đỗ Nam Hải... Và lực lương này mỗi ngày mỗi được tăng cường thêm dù bị đàn áp, tù đày, nhục mạ.
Những tưởng rằng sau khi Liên bang Sô Viết và khối CS đông Âu sụp đổ, sẽ là cơ may cho Việt Nam thoát khỏi ách Cộng Sản. Vì trong thời điểm đó, Cộng sản VN vừa mất chỗ dựa về kinh tế từ Liên Sô, vừa đương đầu với thái độ thù nghịch của Trung Cộng, lại vừa bị các nước Tây phương cấm vận. Thế nhưng họ đã sống sót nhờ vào lòng hào phóng của chính những “Người Việt Chống Cộng” tại Hoa Kỳ và các quốc gia tự do. Trong thời kỳ chiến tranh, 17 triệu dân miền Nam nhận khoảng hơn 1 tỷ đô la viện trợ, mà phần lớn là đổ vào quân viện. Chỉ một phần rất nhỏ là dùng cho việc phát triển;. Thế mà Việt Nam Cộng Hoà đã phát triển tiến bộ hơn rất nhiều nước Đông Nam Á, giàu có hơn Thái Lan, Philippines, Đại Hàn. Thập niên 90, khi đất nước nằm trong bàn tay cai trị của Cộng sản, người Việt hải ngoại đã chuyển về nước từ hai, ba tỷ đô la mỗi năm qua các hình thức du lịch, thăm nhà, giúp đỡ thân nhân, bạn bè; và ngay cả có những con nai tơ đem hàng trăm triệu đô la về đầu tư để cuối cùng tiền mất vào tay Cộng sản, thân mang tù tội.
Duy chỉ còn lại một đối tương mà chúng ta phải cưu mang. Đó là các anh em Thương phế binh của Quân Lực VNCH mà Cộng sản đã hất hủi họ, xua đuổi họ ra bên lề xã hội ngay khi chiếm đoạt miền Nam. Họ đang sống những ngày cuối đời tàn tạ, đau đớn nhục nhằn thực sự cần đến sự lưu tâm của chúng ta.. Chúng ta không thể mong chờ ngụy quyền CS giải quyết cho họ, mà đó là bổn phận của chính chúng ta, những người bạn chiến đấu, những sống sót nhờ sự hy sinh của họ.
Để có đề tài suy ngẫm chúng tôi xin kể lại chuyện năm 1994, khi chúng tôi về Washington DC để vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ủng hộ cho phong trào đấu tranh Nhân quyền tại Việt Nam. Chúng tôi đã cay đắng nghe một lời bình phẩm từ một quý bà đang làm trợ lý bộ Ngoại Giao: “Quý ông muốn chúng tôi có biện pháp kinh tế với chính quyền Cộng sản Việt Nam thì trước hết, quý ông phải vận động, giáo dục đồng hương quý ông đã. Chính họ và quý ông đã nuôi dưỡng chế độ Cộng sản cho nó tồn tại đó.”
Đỗ Văn Phúc
Luận Về Việc Cứu Trợ Nạn Nhân Các Loại Ở Việt Nam:
Bên cạnh những sự kiện chính trị nóng hổi như sự ra đời các đoàn thể, đảng phái tranh đấu cho Tự Do Nhân Quyền ở Việt Nam, vấn đề cứu trợ nạn nhân các thành phần tại Việt Nam cũng là một đề tài vô cùng tế nhị và gây tranh luận lâu dài mà phía nào cũng đưa ra những luận cứ vững chắc, hợp tình để biện minh cho lập trường của mình.
Tệ nạn xã hội, thiên tai (bão lụt, hạn hán, sóng thần…) thì thời nào cũng có.
Từ xã hội nghèo đói cho đến xã hội văn minh giàu có, không ai dám nhận là đã xoá hết các tệ nạn đã đưa đẩy một tỷ lệ dân chúng lâm vào cách hoàn cảnh đáng thương.
Ở Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu, cũng có hàng trăm ngàn người không nhà, trẻ em khuyết tật, người già bị bỏ rơi, bệnh nhân các nan y không phương cứu chữa. Đó là những người hàng ngày sống trông chờ vào lòng nhân ái của đồng bào, đồng chủng.
Người ta nói “Chỉ có cầm thú mới quay lưng trước khổ đau của đồng loại.” Nói thế cũng chưa đủ, vì có nhiều loại thú cũng chẳng hề bỏ rơi đồng loại khi nguy biến. Đó là nói về phạm trù đạo đức mà tổ tiên chúng ta đã từng giáo dục qua những câu ca dao rất quen thuộc:
Nhiểu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Thấy người hoạn nạn thì thương
Thấy người tàn tật lại càng thương hơn
hoặc:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Truyền thống dân tộc Việt Nam đã bao đời chứng minh tình nghĩa đùm bọc nhau trong bao biến cố thăng trầm, qua bao tai biến thiên nhiên. Đó là việc hiển nhiên, không chối cãi và cũng không thể nại ra lý do để bài bác.
Tuy nhiên, chúng ta không xét vấn đề hời hợt bên ngoài mà không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của những tệ nạn. Có như thế, chúng ta mới tìm được cách giải quyết tận gốc rễ để giảm thiểu những nỗi khổ đau của đồng bào, đồng loại một cách có hiệu quả.
Đó là chúng tôi muốn đề cập đến phạm trù chính trị mà hiện những người Việt yêu nước đang phải dương đầu để giành lại quyền sống cho người dân Việt Nam tại quốc nội.
Ngày xưa, trước năm 1975, tuy bị chi phối bởi chiến tranh dai dẳng, tàn khốc, chính phủ VNCH cũng đã có những chương trình cải tạo xã hội. Ba mục tiêu chiến lược mà cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đề ra sau khi đắc cử là:
“Xây Dựng Dân Chủ, Giải quyết Chiến tranh, và Cải tạo Xã hội.”
Khó mà bàn luận về thành quả của các mục tiêu này, vì chính TT Thiệu và nội các của ông đã bị chi phối bởi nhiều vấn đề rất phức tạp, khó khăn của chiến sự và sự bất nhất của đồng minh Hoa Kỳ trong khi Cộng sản Bắc Việt tập trung nỗ lực phá hoại các công cuộc xây dưng phát triển của miền Nam. Tuy nhiên đã có những cố gắng về phiá chính phủ trong việc giải quyết phần nào thành công những tệ nạn, cứu trợ từ các nạn nhân chiến tranh đến các nạn nhân xã hội.
Sau khi Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, họ tuyên bố các tệ nạn là sản phẩm của “Mỹ Ngụy”, là hậu quả của chiến tranh; vì họ cho rằng chế độ Xã hội Chủ Nghĩa của họ là thiên đường, không có những nạn bóc lột người và chính quyền của họ là ưu việt trong việc xây dựng “một xã hội phồn vinh hạnh phúc, vân vân.”
Thế nhưng đảng Cộng sản đã cầm quyền hơn nửa thế kỷ trên miền Bắc, và 34 năm tại miền Nam. Chúng ta thử rộng lương thông cảm hoàn cảnh chiến tranh mà chỉ tính khoảng thời gian 34 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Người Cộng sản chiếm được miền Nam với một tài sản không lồ, một nhân lực hùng hậu có trình độ kỹ thuật, và một mức phát triển kinh tế tương đối cao trong khu vực các quốc gia vùng Đông Nam Á do chính quyền miền Nam để lại. Họ đã làm được gì ngoài việc lợi dụng quyền năng để cướp đoạt, bóc lột cho vào túi tham không đáy sau những năm dài đói khổ trong cái thiên đường XHCN miền Bắc?
Ngay khi loài người biết tập hợp lại để thành lập cơ cấu chính quyền, thì chức năng đầu tiên và quan trọng nhất là lo cho phúc lợi xã hội của người dân. Đó là vấn đề an sinh xã hội. Các chức năng khác như quốc phòng, phát triển kinh tế, giáo dục... cũng chẳng qua là để hỗ trợ, bảo đảm cho việc phát triển an sinh.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh do Bình Định Vương Lê Lợi khởi xướng, nhà mưu lược đại tài Nguyễn Trãi đã soạn ra một bản văn hùng hồn lên án giặc Minh và kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đó là bản “Bình Ngô Đại Cáo” mà đã mở đầu bằng câu:
“Việc trị nước cốt để an dân.”
Chức năng chính quyền là làm cho dân giàu, nước mạnh. Chính quyền có khả năng thu thuế và có điều kiện vận động để thực thi mục tiêu an dân. Vấn đề xã hội phải được nâng lên hàng đầu cốt làm sao cho nơi nơi, người dân sống ấm no, hạnh phúc.
Thực tế hàng chục năm qua đã chứng minh, ngụy quyền Cộng sản không những không quan tâm đến giải quyết vấn đề an sinh xã hội, mà còn góp phần làm cho các tệ nạn tăng nhanh do những chính sách hà khắc, bóc lột. Họ chỉ thực sự quan tâm đến việc củng cố guồng máy cai trị và sự vững mạnh của đảng Cộng Sản để bảo vệ cho quyền lực và lợi nhuận riêng của đảng; hay nói đúng hơn, của những đảng viên nòng cốt.
Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ rằng trong khi có hàng triệu người dân chật vật kiếm miếng ăn, sống chui rúc trong những căn nhà ổ chuột, lang thang ngoài hè phố, đói rách nơi rừng thiêng nước độc, phải bán con, đợ vợ thì có hàng trăm viên chức cao cấp trong đảng có tài sản từ hàng trăm triệu đến hàng tỷ đô la.
Số cán bộ Cộng sản trung cấp nay là các nhà tư sản đỏ, cũng có tài sản hàng triệu đô la mà không phải do khả năng kinh doanh thực sự, mà chỉ do quyền thế hối mại, tham những, ăn cắp từ công khố, từ tiền viện trợ của nước ngoài, từ tiền do sách nhiễu đồng bào. Họ không chừa một ngõ ngách nào trong sinh hoạt xã hội mà không lợi dụng để kiếm đồng tiền bất chính.
Do đó, các tệ nạn còn lại sau chiến tranh đã được nhân lên gấp bội. Lực lượng nạn nhân từ những người thiếu may mắn của miền Nam trước đây, nay được tăng cường thêm hàng triệu người do hậu quả chính sách đuổi dân thành thị đi xây dựng khu kinh tế mới, cải tạo “ngụy quân, ngụy quyền”, cải tạo công thương nghiệp, tập sản hoá, hợp tác hoá, bán bãi vượt biên. Dân đã nghèo, càng nghèo thêm. Dân đã đói, càng thêm đói.
Cho đến khi nhìn thấy nguồn lợi từ du lịch, Cộng sản đã đổ tiền vào xây dựng những khu du lịch bề thế để hấp dẫn khách nước ngoài. Sự phát triển thiếu cân bằng giữa các lãnh vực đã đưa đến hậu quả là sự phồn vinh hoành tráng bên ngoài ở một vài trung tâm du lịch trong khi chỉ cách đó chừng vài trăm thước, là cảnh bùn lầy nước đọng của những cư dân thành phần mạt hạng trong xã hội. Và hậu quả nặng nề nhất ảnh hưởng đến suy đồi đạo đức xã hội là đưa đẩy một số lớn các thanh niên thiếu nữ vào con đường bán thân vì chỉ có cách đó mới sống còn trong cái xã hội bắt đầu tiêm nhiễm những xa hoa của chế độ tư bản do du khách và các tư sản đỏ mới nổi lên phô bày ra.
Ngụy quyền Cộng Sản không những không chú tâm giải quyết tệ nạn mà còn tạo thêm ra tệ nạn. Đáng trách hơn, họ còn lợi dụng các tệ nạn, thiên tai để moi tiền cứu trợ.
Từ hàng chục năm qua, chúng ta đã đọc trên các báo những tin tức về các phái đoàn trong nước, của người Việt hải ngoại quyên góp tiền để cứu trợ các thành phần nạn nhân từ tệ nạn xã hội cho đến thiên tai. Rất nhiều, nếu không nói là hầu hết, đều kể ra việc các viên chức các cấp trong guồng máy ngụy quyền Cộng sản đã ngăn cản, gây khó dể, đe doạ... nhằm giành lấy số tiền, phẩm vật cứu trợ để chia chác nhau. Họ đã thay gạo ngon bằng gạo mục trong các kho nhà nước để cấp phát cho nạn nhân. Họ đã lập ra danh sách những bà con bạn bè để nhận quà thay vì những nạn nhân thực thụ. Họ đã cưỡng ép người thụ hưởng phải ký giấy nhận đủ tiền, nhưng chỉ trao cho khoảng một phần mười số tiền hay phẩm vật cứu trợ. Họ đã tuyên truyền lập công trong việc cứu trợ cho nhà nước Cộng Sản thay vì nói thật đó là tấm lòng của những người Việt Hải ngoại hay những cơ quan từ thiện quốc tế.
Họ đã gửi ra nước ngoài những tu sĩ quốc doanh để vận động quyên góp tín đồ gửi tiền về xây dựng nhà thờ, chùa chiền trong khi có hàng trăm cơ sở tôn giáo bị họ tịch thu từ hàng chục năm qua vẫn chưa được hoàn trả. Dù các giáo hội Thiên Chúa giáo hay Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo đã lên tiếng khẩn thiết để đòi lại.
Họ thu thuế người dân, họ nhận tiền viện trợ từ các quốc gia, các cơ quan quốc tế thì họ phải sử dụng tiền đó vào việc phát triển, phúc lợi.
Các quốc gia, các cơ quan tài trợ ngoại quốc khi cho nguỵ quyền Cộng sản Việt Nam vay nợ đã đặ ra những điều kiện này nọ về cải cách chính sách, giải quyết vấn đề dân chủ, nhân quyền. Trong khi tập thể người Việt “Chống Cộng” hải ngoại cho không mỗi năm hàng 3, 4 tỷ đô la mà không có một đòi hỏi điều kiện nào cả! Thật là rộng lượng dễ tính đến mức độ phải nói là xuẫn động. Chúng ta có người đã lao động cực khổ “cày” hai ba job, chịu thương chịu khó mỗi tuần hàng 50, 60 giờ trong các công xưởng của Mỹ để rồi đưa vai ra gánh giùm các gánh nặng của Cộng sản cho chúng rảnh tay làm những việc đàn áp nhân dân, làm giàu riêng cho bản thân, gia đình.
Chúng tôi đã nghe chuyện những con em cán bộ Cộng sản đi du học tại San Francisco mua nhà hơn nửa triệu đô la bằng tiền mặt; đi mua sắm hàng ngàn đô la mồi lần trong các shopping mall sang trọng. Chúng tôi đã nghe kể các “phu nhân” các cán bộ CS đi du lịch bên Trung hoa vung hàng ngàn đô la tiêu xài dễ dàng như chúng ta xài bạc chục bên Mỹ này.
Sau cơn bão cuối năm 2006 vừa qua tàn phá các tỉnh miền Trung, ngụy quyền CS tuyên bố chi ra khoảng 2 tỷ đồng Việt Nam (khoảng 150 ngàn đô la) để cứu trợ nạn nhân tình Quảng Trị. Trong khi đó, hai cán bộ đảng về hưu đã được cấp từ 6 đến 8 tỷ bạc để mua xe hơi đời mới. Cần lưu ý rằng chỉ tại Việt Nam và các nước Cộng Sản, ngoài hệ thống chính quyền để điều hành công việc nhà nước, còn tồn tại song song một hệ thống đảng đồ sộ hơn, đông đảo hơn để lãnh đạo chính quyền. Mà người dân vừa phải đóng góp nuôi trả chi phí cho cơ quan công quyền, lại vừa trang trải cho cái hệ thống đảng lãnh đạo này. Có rất nhiều cán bộ các cấp vừa nắm quyền trong đảng vừa trong chính quyền nên đã xem như hưởng hai lần phúc lợi.
Chúng tôi không dám nghi ngờ thiện ý của những cơ quan, những cá nhân quyên góp tiền về cứu trợ đồng bào (dù rằng không thể không có những phần tử xấu lợi dụng để mưu lợi riêng tư, lấy tiền bỏ túi hay mưu cầu danh vọng). Chúng tôi cũng không hề nói rằng những vị làm từ thiện là tay sai Cộng Sản như đã từng có người lên án gay gắt. Chúng tôi đánh giá cao và vinh danh những hoạt động từ thiện vì đó là sự băn khoăn, sự cảm thông sâu sắc đến những đau khổ của đồng bào trong nước. Nếu chính phủ CS đã hết lòng lo toan mà không có khả năng làm xuể, chúng tôi sẽ xung phong góp phần. Nhưng thử nghĩ cứ 100 đô la chúng ta gửi về, chỉ có vài đô la đến tay người đáng nhận, còn lại thì vào túi bọn cán bộ. Như thế, sự giúp đỡ của chúng ta giải quyết được gì? Có thể coi là chúng ta đạt được mục tiêu cứu trợ không?
Không phải những người không ủng hộ việc cứu trợ là vô tình với nỗi đau của đồng bào. Họ có cách nhìn khác. Ví như một người bệnh mà vi trùng đã ăn vào máu cần được mổ xẻ, chữa trị tận gốc thay vì chỉ dùng thuốc đỏ bôi xoa bên ngoài vết lở lói. Cái vi trùng độc hại này là cơ chế Cộng sản đang cầm quyền mà ngày nào còn tại vị, thì tệ nạn vẫn còn và càng gia tăng
Thế nên hải ngoại mới có những Trần Văn Bá, Nguyễn Quốc Túy, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh và hàng ngàn chiến sĩ quốc gia đang ngày đêm hoạt động trong các lãnh vực để tiếp tục cuộc chiến tranh chính trị, ngoại giao để chống nguỵ quyền CS. Thế nên trong nước mới có Hoà Thương Quảng Độ, Huyền Quang; những linh mục Nguyễn Văn Lý, mục sư Hồng Quang, những người tranh đấu Nguyễn Đan Quế, Phạm Hồng Sơn, Đỗ Nam Hải... Và lực lương này mỗi ngày mỗi được tăng cường thêm dù bị đàn áp, tù đày, nhục mạ.
Những tưởng rằng sau khi Liên bang Sô Viết và khối CS đông Âu sụp đổ, sẽ là cơ may cho Việt Nam thoát khỏi ách Cộng Sản. Vì trong thời điểm đó, Cộng sản VN vừa mất chỗ dựa về kinh tế từ Liên Sô, vừa đương đầu với thái độ thù nghịch của Trung Cộng, lại vừa bị các nước Tây phương cấm vận. Thế nhưng họ đã sống sót nhờ vào lòng hào phóng của chính những “Người Việt Chống Cộng” tại Hoa Kỳ và các quốc gia tự do. Trong thời kỳ chiến tranh, 17 triệu dân miền Nam nhận khoảng hơn 1 tỷ đô la viện trợ, mà phần lớn là đổ vào quân viện. Chỉ một phần rất nhỏ là dùng cho việc phát triển;. Thế mà Việt Nam Cộng Hoà đã phát triển tiến bộ hơn rất nhiều nước Đông Nam Á, giàu có hơn Thái Lan, Philippines, Đại Hàn. Thập niên 90, khi đất nước nằm trong bàn tay cai trị của Cộng sản, người Việt hải ngoại đã chuyển về nước từ hai, ba tỷ đô la mỗi năm qua các hình thức du lịch, thăm nhà, giúp đỡ thân nhân, bạn bè; và ngay cả có những con nai tơ đem hàng trăm triệu đô la về đầu tư để cuối cùng tiền mất vào tay Cộng sản, thân mang tù tội.
Duy chỉ còn lại một đối tương mà chúng ta phải cưu mang. Đó là các anh em Thương phế binh của Quân Lực VNCH mà Cộng sản đã hất hủi họ, xua đuổi họ ra bên lề xã hội ngay khi chiếm đoạt miền Nam. Họ đang sống những ngày cuối đời tàn tạ, đau đớn nhục nhằn thực sự cần đến sự lưu tâm của chúng ta.. Chúng ta không thể mong chờ ngụy quyền CS giải quyết cho họ, mà đó là bổn phận của chính chúng ta, những người bạn chiến đấu, những sống sót nhờ sự hy sinh của họ.
Để có đề tài suy ngẫm chúng tôi xin kể lại chuyện năm 1994, khi chúng tôi về Washington DC để vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ủng hộ cho phong trào đấu tranh Nhân quyền tại Việt Nam. Chúng tôi đã cay đắng nghe một lời bình phẩm từ một quý bà đang làm trợ lý bộ Ngoại Giao: “Quý ông muốn chúng tôi có biện pháp kinh tế với chính quyền Cộng sản Việt Nam thì trước hết, quý ông phải vận động, giáo dục đồng hương quý ông đã. Chính họ và quý ông đã nuôi dưỡng chế độ Cộng sản cho nó tồn tại đó.”
Đỗ Văn Phúc
Sự Thật Bối Cảnh Chính Trị
Sự Thật Bối Cảnh Chính Tri.
1. Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới:
Năm 1949, trong khi chờ đợi củng cố lại lực lượng vừa bị Pháp đánh tan khắp nơi, HCM thành lập Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới để vận động dư luận quốc tế buộc Pháp phải thỏa hiệp với chính phủ HCM. Cư sĩ Tâm Minh, tức BS Lê Đình Thám, đã được HCM cử giữ chức Chủ Tịch Phong Trào này, vì các tăng sĩ PG không ai có khả năng ngoại ngữ và tư thế bằng ông. Nhưng HT Thích Trí Độ được đưa vào làm Ủy Viên Trung Ương của phong trào để chỉ đạo đường lối.
2. Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết:
Năm 1953, HCM thay Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới bằng Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình với mục đích vận động dư luận thế giới buộc Pháp phải chấp nhận một giải pháp hòa bình cho Đông Dương. Cư sĩ Lê Đình Thám được chuyển qua làm Chủ Tịch Ủy Ban nàỵ HT Thích Trí Độ giữ chức Ủy viên Trung ương của Ủy ban. TT Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy ban.
Năm 1954, sau hiệp định Geneva, TT Trí Quang vào Huế làm Hội trưởng Hội VN Phật Học ở Huế. Ông đã lợi dụng cương vị này để cùng một số trí thức PG lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình, tại miền Nam. Ủy Ban này mang tính chất ngụy hòa, tiếp tay cho HCM trong việc kêu gọi hòa hợp hòa giải, hiệp thương để tiến tới bầu cử thống nhất 2 miền trong thời hạn 2 năm sau hiệp định Genevạ HCM tin rằng trong khi tình hình miền Nam đang rối loạn vì giáo phái, chưa có tổ chức, nếu có bầu cử, nhất định CS sẽ thắng vì trong những năm kháng chiến chống Pháp họ đã gài vô số cán bộ nằm vùng ở lại để vận đô.ng. Phong trào này đã bị Ngô Đình Cẩn ra lệnh bắt chiêu hồi.
Ngày 27/2/1965, TT Thích Quảng Liên thành lập Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc. Phong trào này là hậu thân của Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình của TT Trí Quang lập năm 1954. TT Quảng Liên là Tổng Ủy Viên Tổng Vụ Pháp Sự của GHPG Ấn Quang. Song song với Ủy ban này, ông cho thành lập thêm một tổ chức thứ hai có tên Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết để phối hợp hoạt đô.ng. Cả 2 phong trào đưa ra chủ trương ngụy hòa, kêu gọi Hoa Kỳ và chính phủ VNCH phải chấm dứt chiến tranh.
Ngày 5/3/1965, Tổng Nha Cảnh Sát ra một thông cáo thông báo dân chúng biết Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận Động Hòa Bình, Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh hay Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, v.v... tuy có nhiều danh xưng khác nhau nhưng cùng là một tổ chức do các cán bộ đặc công của CS đặt ra làm suy yếu tinh thần chống Cộng của miền Nam. Cảnh sát đã đưa ra tài liệu của VC nhằm hướng dẫn cách thức thành lập và cổ động cho các phong trào nàỵ Trước những bằng chứng không thể phủ nhận được, ngày 11/3/1965, Viện Hóa Đạo ra một thông cáo nói rằng Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình là do TT Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan gì đến Viện Hóa Đạọ Ngày 17/3/1965, TT Quảng Liên tuyên bố từ chức Chủ tịch của Phong trào.
Những người tham gia 2 phong trào này đã bị chính phủ Phan Huy Quát ra lệnh bắt và điều trạ Trước đó, ngày 1/3/1965, chính phủ Phan Huy Quát đã tuyên bố xác định chỉ nói chuyện hòa bình khi nào CS chấm dứt xâm lăng. Ngày 19/3/1965, 3 người thuộc Phong Trào Hòa Bình bị trục xuất ra Bắc là BS
Thú Y Phạm Văn Huyến, ký giả Cao Minh Chiếm và GS Tôn Thất Dương Ky.. Ngày 4/8/1965, Tòa Án Quân Sự Mặt Trận xét xử vụ những người tham gia Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết do TT Quảng Liên thành lập và làm Chủ tịch, xác nhận hoạt động của 2 tổ chức này có liên hệ với CS, tuyên án 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị tù treo và tha bổng 6 ngườị Nhưng TT Quảng Liên lại không bị bắt hay bị truy tố. Chính sự tránh né này của chính phủ Quát đã làm cho một số tăng sĩ PG miền Trung trong GHPG Ấn Quang tin rằng chính quyền không dám đụng tới họ và họ đã trở thành những thành phần bất khả xâm phạm trong xã hộị Với ý nghĩ đó, nhóm tăng sĩ miền Trung thừa thắng xông lên, gây ra biết bao tai biến nghiêm trọng sau nàỵ Đây cũng là thời kỳ mà người ta gọi là "nạn kiêu tăng".
3. Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc:
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris vừa được ký kết thì ngày 31/1/1973, một nhân vật khác hiện ra, TT Thic'h Thiện Minh, đã vội phổ biến một thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc, cử luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ tịch với nhiệm vụ đòi "nghiêm chỉnh thực thi ngưng bắn" và tiến tới lập chính phủ hòa hợp hòa giảị
TT Thích Mẫn Giác cho biết việc thành lập lực lượng nói trên là do quyết định của Hội Đồng Viện Hoá Đạo theo đề nghị của Nghị sĩ Vũ Văn Mẫụ HT Thích Trí Thủ, TT Trí Quang và TT Thiện Minh đã yểm trợ mạnh mẽ cho quyết định này ? Viện Hoá Đạo GHPG Ấn Quang đã lập lực lượng nói trên để làm gì ?
Điều 12 của Hiệp định Paris dự liệu thành lập tại miền Nam VN một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sau khi ngưng bắn. Hội Đồng này gồm 3 thành phần : VNCH, MTGPMN và các thành phần ở giữạ Lúc đầu Hà Nội cương quyết đòi Hội Đồng này phải được tổ chức từ trung ương đến địa phương như một chính quyền song hành với chính phủ VNCH. Nhưng sau khi Hoa Kỳ ném bom B52 xuống Hà Nội 12 ngày đêm, Hà Nội mới chịu giới hạn quyền của Hội Đồng vào việc tổ chức bầu cử mà thôị Hà Nội tin rằng trong 3 thành phần của Hội Đồng, họ sẽ chiếm 2 thành phần là MTGPMN và các tổ chức thân Cộng trong thành phần thứ ba, nên sẽ thắng khi cuộc tổng tuyển cử được tổ
chức tại miền Nam. TT Thích Thiện Minh được chỉ thị thành lập "thành phần thứ ba" gồm các tổ chức thân Cộng để tham gia Hội Đồng, đó là Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc nói trên.
Thông bạch do TT Thích Thiện Minh công bố đã bị các đảng phái quốc gia và báo chí công kích nặng nề nên lực lượng này không hoạt động được.
* Các tổ chức gây bất ổn và liên hệ với CS:
1. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc và Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng:
Năm 1964, TT Trí Quang đã cho tái sinh Hội cứu quốc trong Mặt Trận Việt Minh dưới danh hiệu Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Sau khi bị lật tẩy, ông cho đổi thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Ma.ng. Mục tiêu của 2 tổ chức này là gây biến động chính trị tại miền Nam để tiến tới cướp
chính quyền.
Dưới chiêu bài "chống đàn áp PG" và "diệt Cần Lao Thiên Chúa Giáo", 2 tổ chức trên đã tung hoành từ Quảng Trị tới Saigon, không coi chính quyền và luật pháp quốc gia ra gì, nhưng đến tháng 6/1966 thì bị chính phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan. Sau biến cố Mậu Thân 1968 và nhất là sau 30/4/1975, người ta mới khám phá ra các thành phần chủ lực trong 2 lực lượng này đều là CS nằm vùng như TT Thích Minh Châu (Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh), 2 Đại Đức Thích Hạnh Tuệ và Thích Nhất Chí, Hoàng Phủ Ngọc Tường (sẽ nói sau), Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Hàm...
2. Dùng Đại học Vạn Hạnh làm cơ sở hoạt động nội thành cho VC:
Viện Đại học Vạn Hạnh được xây cất vào ngày 9/6/1965. Khi hoàn thành, TT Thích Minh Châu dược GHPG Ấn Quang cử làm Viện Trưởng, ông đã biến nơi này thành một căn cứ địa an toàn cho đặc công CS nằm vùng và các tổ chức chống chính phủ. Chính nơi đây là địa điểm phát xuất các toán biểu tình và bạo động.
Ngày mất nước 30/4/1975, dưới quyền điều khiển của Nguyễn Trực, họ đã cầm cờ PG ra Ngã Tư Bảy Hiền đón "quân giải phóng". Các tài liệu của VC xác nhận TT Thích Minh Châu là cán bộ nội tuyến và Viện Đại Học Vạn Hạnh là cơ sở hoạt động nội thành.
3. Nhận chỉ thị của VC để hoạt động:
Trong thời Đệ II Cộng Hòa, nhóm tham mưu của Viện Đại Học Vạn Hạnh vẫn lén lút ra Huế họp với Khu Ủy Tri.-Thiên -Huế để báo cáo và nhận chỉ thị hoạt động quấy phá miền Nam. Mỗi lần đi đều bị nhân viên tình báo của VNCH theo dõi và chụp hình. Các tài liệu này sau đó được thông báo cho Viện Hóa Đạo và Viện Đại học Vạn Hạnh biết kèm theo lời cảnh cáọ Nhưng ít lâu sau, công việc này lại tái diễn.
Các TT Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ và Thích Bữu Phương đã nhiều lần đi Tây Ninh họp với VC. Lần họp tại chùa Từ Vân ở Gò Dầu Hạ, Tây Ninh, đã bị cơ quan an ninh phát giác. TT Thích Hộ Giác bị Bộ Quốc Phòng VNCH buộc phải từ chức Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy PG. TT Thích Quảng Độ từ khi du học Ấn Độ về đã có lập trường thân Cộng và hoạt động cho MTGPMN. Chỉ sau 30/4/1975, khi ông cũng như TT Thích Thiện Minh không được tin dùng, ông mới quay lại chống chế độ và bị bắt.
Chính quyền miền Nam đã không bắt các vị sư tăng trên đi an trí hay truy tố họ ra tòa vì sợ gây hoang mang dư luận và hơn nữa cơ quan tình báo không muốn phá vỡ đường dây để đễ theo dõi.
* Các hình thức yểm trợ các đòi hỏi của CS:
Ăn rập với các đòi hỏi của VC, nhóm cực đoan thân Cộng miền Trung trong GHPG Ấn Quang đã phát động rất tinh vi nhiều chiến dịch nhằm yểm trợ các đòi hỏi của VC.
1. Chiến dịch "Việt Nam, Đóa Hoa Sen Trong Biển Lửa".
Ngày 3/6/1966, Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được một nhóm phản chiến của Mỹ mời thăm Hoa Kỳ. Nhân dịp này, ông đã công bố chủ trương 5 điểm của GHPG Ấn Quang như sau :
- Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.
- Quân đội Mỹ rút luị
- Ngưng oanh tạc Bắc Việt.
- Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ và tái thiết miền Nam không điều kiện.
5 điểm đòi hỏi này giống hệt 5 điểm đòi hỏi của MTGPMN.
Năm 1967, Đại Đức Nhất hạnh cho xuất bản cuốn "Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Buđhist Proposal for Peace" (Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, môt đề nghị hòa bình của Phật giáo), nói về cuộc tranh đấu của PG từ 1963-1966 và những chết chóc tang thương do Hoa Kỳ và quân đội VNCH gây rạ Ông lên án Ngô Đình Diệm đàn áp PG, Nguyễn Cao Kỳ độc tài quân phiệt và ca tụng HCM là anh hùng dân tộc. Ông tuyên bố MTGPMN do những người quốc gia chống chế độ Ngô Đình Diệm lập ra chứ không phải do Hà Nội lập ra, nhưng vì Mỹ đã đổ quân và vũ khí vào VN, nên họ "nghiêng theo khối CS, và càng ngày càng trở thành công cụ của khối CS", nhưng ở dưới ông lại trích dẫn lời của Lê Duẩn tuyên bố trong Đại hội đảng kỳ 3 (1960) xác nhận "Đảng ta" lãnh đạo Mặt Trận. Trong bộ Lịch Sử Đảng CSVN do Nhà xuất bản Sách Giáo khoa Mác-Lênin ở Hà Nội ấn hành, Hà Nội chính thức xác nhận rằng MTGPMN được thành lập do Nghị Quyết của Đại hội III của Đảng CSVN họp tại Hà Nội vào tháng 9/1960. Đại Đức Thích Nhất Hạnh biết rõ điều đó, nhưng khi làm công tác tuyên truyền cho VC, ông đã cố tình bóp méo sự thật để biện hộ cho sự xâm lăng của Hà Nội.
Năm 1968, khi hòa đàm Paris bắt đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức của GHPG Ấn Quang ở hải ngoạị Đại Đức Nhất Hạnh ra ngoại quốc năm 1964, thường trú tại Pháp. Đọc những bài ông viết sau 1977, người ta thấy lập trường chính trị của ông đã có nhiều thay đổi.
2. Thành lập Nhóm Hòa Giải, sau đổi thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bộ:
Sau Đại hội PG kỳ 3 của GHPG Ấn Quang tổ chức tại Saigon ngày 20/8/1968, luật sư Trần Ngọc Liễng tuyên bố thành lập Nhóm Hòa Giải gồm 25 ngườị Nhóm này sau biến thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bô.. Ngày 15/11/1969, LS Liễng đưa ra một tuyên bố khẳng định "hướng đi của dân tộc VN là hòabình trên cơ sở độc lập, tự do và dân chủ". Tiếp theo, ông kêu gọi thành lập một chính phủ hòa giải để chấm dứt chiến tranh, triệt thoái quân đội ngoại lai ra khỏi miền Nam thật sớm. Các báo ở Saigon hỏi ông tại sao không nói gì về phía CS, ông không trả lờị Mục tiêu của bản tuyên bố này là yểm trợ cho các đòi hỏi của Cộng Sản Bắc Việt tại hòa đàm Paris.
3. Tuyên ngôn 6 điểm của Phái đoàn PG Ấn Quang:
Tháng 10/1970, TT Thích Thiện Minh cầm đầu một Phái đoàn PGVN qua Nhật Bản dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Tokyo từ 16-22/10/1970. Phái đoàn này gồm có TT Thích Thiện Minh, TT Thích Huyền Quang, TT Thích Mình Tâm, Đại Đức Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và 2 cư sĩ Ngô Văn Giáo và Vĩnh Bữụ Tại hội nghị nói trên, phái đoàn đã đưa ra đề nghị 6 điểm của PGVN như sau:
1. Các phe lâm chiến phải bắt đầu xuống thang ngay lập tức để đạt đến một cuộc ngưng bắn toàn diện vào lúc 18 giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26/1/1971).
2. LHQ sẽ chỉ dịnh một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội Kiểm Soát Ngưng Bắn gồm cả đại diện của Quân đội VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN.
3. Chính phủ VNCH phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên, trí thức, tu sĩ và tất cả những người đã bị tạm giam vì tranh đấu cho hòa bình và chủ quyền của dân tộc.
4. Chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt tình trạng thối nát, độc tài và bất lực ở miền Nam VN bằng cách để cho người Việt tự do chọn đại diện đa số dân chúng có bản chất hòa giải dân tộc, không liên kết và có đủ khả năng để:
- Thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt thoái mau chóng toàn thể quân lực Hoa Kỳ ở VN và những liên hệ ngoại giao, văn hóa và kinh tế giữa Hoa Kỳvà VN.
- Thương thuyết với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN về những thể thức tổng tuyển cử để bầu lên một chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng chính trị ở Nam VN, một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc tế, trong đó mọi người VN thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào đều có thể tham dư..
5. Các chính phủ Hoa Kỳ, Sô-viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các quốc gia liên hệ khác cộng tác với nhau để chấm dứt đau khổ của người dân Việt bằng cách ủng hộ đề nghị này cho chính người Việt đề rạ
6. Các phe lâm chiến tại VN, nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới, các giáo hội tôn giáo và các nhà nhân bản cấp thời hành động để thúc đẩy các quốc gia có trách nhiệm về chiến tranh VN chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN, Kampuchea và Làọ
Từ các danh từ và văn tự được xử dụng đến nội dung của bản tuyên bố đều giống hệt các bản tuyên bố của MTGPMN. Bản tuyên bố được viết vơi lối hành văn lập pháp hay quyết định thay vì nhẹ nhàng của một đề nghị của một tổ chức quốc tế về tôn giáo và hòa bình. Sau bản tuyên bố trên, GHPG đã làm mất cảm tình của hầu hết các quốc gia trên thế giớị Phái đoàn Đan Mạch đã vặn hỏi tại sao PGVN chỉ đòi quân đội Mỹ rút ra mà không đòi tất cả các quân đội ngoại nhập phải rút, trong đó có cả quân đội CS Bắc Việt, Phái đoàn PGVN không trả lời được.
* Thành lập "chính phủ Phật Giáo" để giao cho VC :
Tạp chí Quê Mẹ số 125 & 126 tháng 10-11/1993 đã công bố bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu về cuộc gặp gỡ giữa ông và TT Phạm Văn Đồng năm 1976. Bản tự thuật cho biết vào tháng 4/1975, PG đã thành lập Chính Phủ Phật Giáo Dương Văn Minh để giao miền Nam cho CS Hà Nộị Sau đây là phần liên hệ đến vấn đề này được đề cập trong bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu:
TT Phạm văn Đồng :
"- Đấy, theo Cụ biết, trong khi người Mỹ đi rồi, Thiệu xuống rồi, Phật Giáo lại âm mưu lập chính phủ Phật Giáo, đưa Dương Văn Minh lên làm TT. Lập làm gì vậy? Lập chính phủ đó để đánh với Cách Mạng phải không?
HT Thích Đôn Hậu đáp :
- Chuyện ấy có, Phật Giáo chúng tôi có lập Chính Phủ. Nhưng thế nàỵ Thưa Thủ Tướng. Chúng tôi đã hỏi các vị trong Viện Hóa Đạọ Các vị cho biết như sau : "HT nên nhớ rằng, PG chúng ta không ngu si đến độ lập Chính Phủ Phật Giáo, sau khi Mỹ đã bỏ miền Nam, Thiệu vơ vét của cải đi rồị Của cải, thế lực ở miền Nam VN chẳng còn gì, mà Cách Mạng đã đến bên lưng. Ông Dương Văn Minh cũng không đến nỗi dại gì muốn lên làm Tổng Thống lúc ấỵ"
Các vị ở Viện Hoá Đạo nói tiếp:
"PG chúng ta, con sâu con kiến cũng thương, huống gì con người ! Đã 30 năm chiến tranh, chết chóc đau thương chồng chất. Bây giờ đây nếu thả lỏng để ông già lụ khụ Trần Văn Hương tuyên bố : "Đánh" ! Thử hỏi cả 2 bên tham chiến chết bao nhiêu người nữả Muốn hạn chế sự chết chóc và tài sản của đồng bào, nên PG chúng ta phải có chủ trương. Lúc bấy giờ, chẳng còn ai lo cho đất nước, ai cũng chạy trối chết, PG đâu thể ngồi như vậy mà nhìn? Nên phải lập Chính Phủ, đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Nhưng không phải lập để đánh với Cách Ma.ng.
TT Phạm Văn Đồng hỏi:
- Vậy tại sao Dương Văn Minh lên, tuyên bố giữ mảnh đất cuối cùng, nếu không phải để đánh với Cách Mạng thì để làm gì?
Tôi hỏi Thủ Tướng :
- Khi Dương Văn Minh tuyên bố như vậy, về sau có nổ phát súng nào không?
- Không.
- Như vậy, Dương Văn Minh chỉ tuyên bố thôi, chứ không cốt đánh."
Chính phủ PG nói trên, khi mới nhận chức vào ngày 29/4/1975, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đã ra tuyên bố :
- Hoa Kỳ phải rút khỏi VN trong vòng 24 giờ kể từ ngày 29/4/1975.
- Hoa Kỳ phải tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc VN, quyền tự quyết của nhân dân VN và chấm dứt mọi sự dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam VN.
* Tổ chức mừng Việt Cộng giải phóng Miền Nam:
1. Mừng Việt Cộng giải phóng tại Đà Nẵng:
Ngày 29/3/1975, VC vưa chiếm được Đà Nẵng thì các tổ chức PG tại đây cắm cờ PG trên xe, chạy khắp thành phố reo mừng. Sau đó, tại các chùa Tỉnh Hội, Phổ Đà, Phật Học, Vĩnh Hội và một vài nơi khác trong thành phố đã bắc loa kêu gọi quân nhân và công chức chế độ cũ ra trình diện.
Một số được coi là "thành phần ác ôn" đã bị các chùa bắt giữ và giao nạp cho bộ đội VC. Số còn lại bị Ban Lãnh Đạo Cách Mạng thành lập ở các chùa nói trên thu hồi thẻ quân nhân hay công chức rồi cấp giấy phép tạm tha cho về để đợi lê.nh. Những người được coi là "có công với cách Mạng" được nhà chùa cấp giấy chứng nhận để khỏi đi học tập cải tạọ PG Đà Nẵng đã coi chiến thắng của VC như chiến thắng của Phật Giáo và các chùa ở Đà Nẵng đã hoạt động giống như những cơ sở chính quyền của Việt Cô.ng.
Tại Saigon, Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu tuyên bố một cách hãnh diện rằng khi "quân giải phóng" vào Đà Nẵng, chỉ còn một lá cờ duy nhất được tung bay trên thành phố này thôi, đó là lá cờ của Lực Lượng Hòa Giải của Phật Giáọ
Nhưng sau khi làm chủ được tình hình, VC liền dẹp tất cả các Ban Lãnh Đạo Cách Mạng ở các chùa và thay thế bằng các Ủy Ban Quân Quản của ho..
2. Mừng Việt Cộng giải phóng tại Saigon:
Như đã nói ở trên, ngày 30/4/1975, một số người trong Ban Giảng Huấn và sinh viên Đại học Vạn Hạnh đã ra Ngã Tư Bảy Hiền đón đoàn quân giải phóng.
Sau khi VC nắm quyền tại miền Nam, GHPG Ấn Quang lập Ủy Ban Tổ Chức Mừng Chiến Thắng do TT Thích Mẫn Giác, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa Viện Hoá Đạo làm Chủ ti.ch. Ủy ban này đã huy động Phật tử tổ chức mừng giải phóng ngày 15/5/1975 và lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh ngày 19/5/1975. Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31/12/1993, HT Tâm Châu có ghi lại diễn tiến nàỵ Theo những tài liệu của VC thì có khoảng 900 người tham gia mừng ngày giải phóng trên. Trong diễn văn chào mừng ngày 15/5/1975, TT Thích Mãn Giác có nói:
"Cuộc đấu tranh của Phật Giáo cho nền thống nhất tổ quốc cùng là một với cuộc đấu tranh vì Chủ nghĩa xã hội".
Sau khi GHPG Ấn Quang bị VC tấn công, một số tăng sĩ bị bắt giữ, HT Thích Mẫn Giác đã vượt biên và định cư tại Hoa Kỳ. Trong một đại hội của PG tại Seattle ngày 29/8/1980, bị đồng bào chất vấn, ông đã xác nhận ông có đọc bài diễn văn đó và nhìn nhận sự lầm lẫn của ông.
1. Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới:
Năm 1949, trong khi chờ đợi củng cố lại lực lượng vừa bị Pháp đánh tan khắp nơi, HCM thành lập Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới để vận động dư luận quốc tế buộc Pháp phải thỏa hiệp với chính phủ HCM. Cư sĩ Tâm Minh, tức BS Lê Đình Thám, đã được HCM cử giữ chức Chủ Tịch Phong Trào này, vì các tăng sĩ PG không ai có khả năng ngoại ngữ và tư thế bằng ông. Nhưng HT Thích Trí Độ được đưa vào làm Ủy Viên Trung Ương của phong trào để chỉ đạo đường lối.
2. Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết:
Năm 1953, HCM thay Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới bằng Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình với mục đích vận động dư luận thế giới buộc Pháp phải chấp nhận một giải pháp hòa bình cho Đông Dương. Cư sĩ Lê Đình Thám được chuyển qua làm Chủ Tịch Ủy Ban nàỵ HT Thích Trí Độ giữ chức Ủy viên Trung ương của Ủy ban. TT Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy ban.
Năm 1954, sau hiệp định Geneva, TT Trí Quang vào Huế làm Hội trưởng Hội VN Phật Học ở Huế. Ông đã lợi dụng cương vị này để cùng một số trí thức PG lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình, tại miền Nam. Ủy Ban này mang tính chất ngụy hòa, tiếp tay cho HCM trong việc kêu gọi hòa hợp hòa giải, hiệp thương để tiến tới bầu cử thống nhất 2 miền trong thời hạn 2 năm sau hiệp định Genevạ HCM tin rằng trong khi tình hình miền Nam đang rối loạn vì giáo phái, chưa có tổ chức, nếu có bầu cử, nhất định CS sẽ thắng vì trong những năm kháng chiến chống Pháp họ đã gài vô số cán bộ nằm vùng ở lại để vận đô.ng. Phong trào này đã bị Ngô Đình Cẩn ra lệnh bắt chiêu hồi.
Ngày 27/2/1965, TT Thích Quảng Liên thành lập Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc. Phong trào này là hậu thân của Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình của TT Trí Quang lập năm 1954. TT Quảng Liên là Tổng Ủy Viên Tổng Vụ Pháp Sự của GHPG Ấn Quang. Song song với Ủy ban này, ông cho thành lập thêm một tổ chức thứ hai có tên Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết để phối hợp hoạt đô.ng. Cả 2 phong trào đưa ra chủ trương ngụy hòa, kêu gọi Hoa Kỳ và chính phủ VNCH phải chấm dứt chiến tranh.
Ngày 5/3/1965, Tổng Nha Cảnh Sát ra một thông cáo thông báo dân chúng biết Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận Động Hòa Bình, Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh hay Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, v.v... tuy có nhiều danh xưng khác nhau nhưng cùng là một tổ chức do các cán bộ đặc công của CS đặt ra làm suy yếu tinh thần chống Cộng của miền Nam. Cảnh sát đã đưa ra tài liệu của VC nhằm hướng dẫn cách thức thành lập và cổ động cho các phong trào nàỵ Trước những bằng chứng không thể phủ nhận được, ngày 11/3/1965, Viện Hóa Đạo ra một thông cáo nói rằng Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình là do TT Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan gì đến Viện Hóa Đạọ Ngày 17/3/1965, TT Quảng Liên tuyên bố từ chức Chủ tịch của Phong trào.
Những người tham gia 2 phong trào này đã bị chính phủ Phan Huy Quát ra lệnh bắt và điều trạ Trước đó, ngày 1/3/1965, chính phủ Phan Huy Quát đã tuyên bố xác định chỉ nói chuyện hòa bình khi nào CS chấm dứt xâm lăng. Ngày 19/3/1965, 3 người thuộc Phong Trào Hòa Bình bị trục xuất ra Bắc là BS
Thú Y Phạm Văn Huyến, ký giả Cao Minh Chiếm và GS Tôn Thất Dương Ky.. Ngày 4/8/1965, Tòa Án Quân Sự Mặt Trận xét xử vụ những người tham gia Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết do TT Quảng Liên thành lập và làm Chủ tịch, xác nhận hoạt động của 2 tổ chức này có liên hệ với CS, tuyên án 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị tù treo và tha bổng 6 ngườị Nhưng TT Quảng Liên lại không bị bắt hay bị truy tố. Chính sự tránh né này của chính phủ Quát đã làm cho một số tăng sĩ PG miền Trung trong GHPG Ấn Quang tin rằng chính quyền không dám đụng tới họ và họ đã trở thành những thành phần bất khả xâm phạm trong xã hộị Với ý nghĩ đó, nhóm tăng sĩ miền Trung thừa thắng xông lên, gây ra biết bao tai biến nghiêm trọng sau nàỵ Đây cũng là thời kỳ mà người ta gọi là "nạn kiêu tăng".
3. Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc:
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris vừa được ký kết thì ngày 31/1/1973, một nhân vật khác hiện ra, TT Thic'h Thiện Minh, đã vội phổ biến một thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc, cử luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ tịch với nhiệm vụ đòi "nghiêm chỉnh thực thi ngưng bắn" và tiến tới lập chính phủ hòa hợp hòa giảị
TT Thích Mẫn Giác cho biết việc thành lập lực lượng nói trên là do quyết định của Hội Đồng Viện Hoá Đạo theo đề nghị của Nghị sĩ Vũ Văn Mẫụ HT Thích Trí Thủ, TT Trí Quang và TT Thiện Minh đã yểm trợ mạnh mẽ cho quyết định này ? Viện Hoá Đạo GHPG Ấn Quang đã lập lực lượng nói trên để làm gì ?
Điều 12 của Hiệp định Paris dự liệu thành lập tại miền Nam VN một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sau khi ngưng bắn. Hội Đồng này gồm 3 thành phần : VNCH, MTGPMN và các thành phần ở giữạ Lúc đầu Hà Nội cương quyết đòi Hội Đồng này phải được tổ chức từ trung ương đến địa phương như một chính quyền song hành với chính phủ VNCH. Nhưng sau khi Hoa Kỳ ném bom B52 xuống Hà Nội 12 ngày đêm, Hà Nội mới chịu giới hạn quyền của Hội Đồng vào việc tổ chức bầu cử mà thôị Hà Nội tin rằng trong 3 thành phần của Hội Đồng, họ sẽ chiếm 2 thành phần là MTGPMN và các tổ chức thân Cộng trong thành phần thứ ba, nên sẽ thắng khi cuộc tổng tuyển cử được tổ
chức tại miền Nam. TT Thích Thiện Minh được chỉ thị thành lập "thành phần thứ ba" gồm các tổ chức thân Cộng để tham gia Hội Đồng, đó là Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc nói trên.
Thông bạch do TT Thích Thiện Minh công bố đã bị các đảng phái quốc gia và báo chí công kích nặng nề nên lực lượng này không hoạt động được.
* Các tổ chức gây bất ổn và liên hệ với CS:
1. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc và Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng:
Năm 1964, TT Trí Quang đã cho tái sinh Hội cứu quốc trong Mặt Trận Việt Minh dưới danh hiệu Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Sau khi bị lật tẩy, ông cho đổi thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Ma.ng. Mục tiêu của 2 tổ chức này là gây biến động chính trị tại miền Nam để tiến tới cướp
chính quyền.
Dưới chiêu bài "chống đàn áp PG" và "diệt Cần Lao Thiên Chúa Giáo", 2 tổ chức trên đã tung hoành từ Quảng Trị tới Saigon, không coi chính quyền và luật pháp quốc gia ra gì, nhưng đến tháng 6/1966 thì bị chính phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan. Sau biến cố Mậu Thân 1968 và nhất là sau 30/4/1975, người ta mới khám phá ra các thành phần chủ lực trong 2 lực lượng này đều là CS nằm vùng như TT Thích Minh Châu (Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh), 2 Đại Đức Thích Hạnh Tuệ và Thích Nhất Chí, Hoàng Phủ Ngọc Tường (sẽ nói sau), Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Hàm...
2. Dùng Đại học Vạn Hạnh làm cơ sở hoạt động nội thành cho VC:
Viện Đại học Vạn Hạnh được xây cất vào ngày 9/6/1965. Khi hoàn thành, TT Thích Minh Châu dược GHPG Ấn Quang cử làm Viện Trưởng, ông đã biến nơi này thành một căn cứ địa an toàn cho đặc công CS nằm vùng và các tổ chức chống chính phủ. Chính nơi đây là địa điểm phát xuất các toán biểu tình và bạo động.
Ngày mất nước 30/4/1975, dưới quyền điều khiển của Nguyễn Trực, họ đã cầm cờ PG ra Ngã Tư Bảy Hiền đón "quân giải phóng". Các tài liệu của VC xác nhận TT Thích Minh Châu là cán bộ nội tuyến và Viện Đại Học Vạn Hạnh là cơ sở hoạt động nội thành.
3. Nhận chỉ thị của VC để hoạt động:
Trong thời Đệ II Cộng Hòa, nhóm tham mưu của Viện Đại Học Vạn Hạnh vẫn lén lút ra Huế họp với Khu Ủy Tri.-Thiên -Huế để báo cáo và nhận chỉ thị hoạt động quấy phá miền Nam. Mỗi lần đi đều bị nhân viên tình báo của VNCH theo dõi và chụp hình. Các tài liệu này sau đó được thông báo cho Viện Hóa Đạo và Viện Đại học Vạn Hạnh biết kèm theo lời cảnh cáọ Nhưng ít lâu sau, công việc này lại tái diễn.
Các TT Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ và Thích Bữu Phương đã nhiều lần đi Tây Ninh họp với VC. Lần họp tại chùa Từ Vân ở Gò Dầu Hạ, Tây Ninh, đã bị cơ quan an ninh phát giác. TT Thích Hộ Giác bị Bộ Quốc Phòng VNCH buộc phải từ chức Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy PG. TT Thích Quảng Độ từ khi du học Ấn Độ về đã có lập trường thân Cộng và hoạt động cho MTGPMN. Chỉ sau 30/4/1975, khi ông cũng như TT Thích Thiện Minh không được tin dùng, ông mới quay lại chống chế độ và bị bắt.
Chính quyền miền Nam đã không bắt các vị sư tăng trên đi an trí hay truy tố họ ra tòa vì sợ gây hoang mang dư luận và hơn nữa cơ quan tình báo không muốn phá vỡ đường dây để đễ theo dõi.
* Các hình thức yểm trợ các đòi hỏi của CS:
Ăn rập với các đòi hỏi của VC, nhóm cực đoan thân Cộng miền Trung trong GHPG Ấn Quang đã phát động rất tinh vi nhiều chiến dịch nhằm yểm trợ các đòi hỏi của VC.
1. Chiến dịch "Việt Nam, Đóa Hoa Sen Trong Biển Lửa".
Ngày 3/6/1966, Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được một nhóm phản chiến của Mỹ mời thăm Hoa Kỳ. Nhân dịp này, ông đã công bố chủ trương 5 điểm của GHPG Ấn Quang như sau :
- Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.
- Quân đội Mỹ rút luị
- Ngưng oanh tạc Bắc Việt.
- Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ và tái thiết miền Nam không điều kiện.
5 điểm đòi hỏi này giống hệt 5 điểm đòi hỏi của MTGPMN.
Năm 1967, Đại Đức Nhất hạnh cho xuất bản cuốn "Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Buđhist Proposal for Peace" (Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, môt đề nghị hòa bình của Phật giáo), nói về cuộc tranh đấu của PG từ 1963-1966 và những chết chóc tang thương do Hoa Kỳ và quân đội VNCH gây rạ Ông lên án Ngô Đình Diệm đàn áp PG, Nguyễn Cao Kỳ độc tài quân phiệt và ca tụng HCM là anh hùng dân tộc. Ông tuyên bố MTGPMN do những người quốc gia chống chế độ Ngô Đình Diệm lập ra chứ không phải do Hà Nội lập ra, nhưng vì Mỹ đã đổ quân và vũ khí vào VN, nên họ "nghiêng theo khối CS, và càng ngày càng trở thành công cụ của khối CS", nhưng ở dưới ông lại trích dẫn lời của Lê Duẩn tuyên bố trong Đại hội đảng kỳ 3 (1960) xác nhận "Đảng ta" lãnh đạo Mặt Trận. Trong bộ Lịch Sử Đảng CSVN do Nhà xuất bản Sách Giáo khoa Mác-Lênin ở Hà Nội ấn hành, Hà Nội chính thức xác nhận rằng MTGPMN được thành lập do Nghị Quyết của Đại hội III của Đảng CSVN họp tại Hà Nội vào tháng 9/1960. Đại Đức Thích Nhất Hạnh biết rõ điều đó, nhưng khi làm công tác tuyên truyền cho VC, ông đã cố tình bóp méo sự thật để biện hộ cho sự xâm lăng của Hà Nội.
Năm 1968, khi hòa đàm Paris bắt đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức của GHPG Ấn Quang ở hải ngoạị Đại Đức Nhất Hạnh ra ngoại quốc năm 1964, thường trú tại Pháp. Đọc những bài ông viết sau 1977, người ta thấy lập trường chính trị của ông đã có nhiều thay đổi.
2. Thành lập Nhóm Hòa Giải, sau đổi thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bộ:
Sau Đại hội PG kỳ 3 của GHPG Ấn Quang tổ chức tại Saigon ngày 20/8/1968, luật sư Trần Ngọc Liễng tuyên bố thành lập Nhóm Hòa Giải gồm 25 ngườị Nhóm này sau biến thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bô.. Ngày 15/11/1969, LS Liễng đưa ra một tuyên bố khẳng định "hướng đi của dân tộc VN là hòabình trên cơ sở độc lập, tự do và dân chủ". Tiếp theo, ông kêu gọi thành lập một chính phủ hòa giải để chấm dứt chiến tranh, triệt thoái quân đội ngoại lai ra khỏi miền Nam thật sớm. Các báo ở Saigon hỏi ông tại sao không nói gì về phía CS, ông không trả lờị Mục tiêu của bản tuyên bố này là yểm trợ cho các đòi hỏi của Cộng Sản Bắc Việt tại hòa đàm Paris.
3. Tuyên ngôn 6 điểm của Phái đoàn PG Ấn Quang:
Tháng 10/1970, TT Thích Thiện Minh cầm đầu một Phái đoàn PGVN qua Nhật Bản dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Tokyo từ 16-22/10/1970. Phái đoàn này gồm có TT Thích Thiện Minh, TT Thích Huyền Quang, TT Thích Mình Tâm, Đại Đức Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và 2 cư sĩ Ngô Văn Giáo và Vĩnh Bữụ Tại hội nghị nói trên, phái đoàn đã đưa ra đề nghị 6 điểm của PGVN như sau:
1. Các phe lâm chiến phải bắt đầu xuống thang ngay lập tức để đạt đến một cuộc ngưng bắn toàn diện vào lúc 18 giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26/1/1971).
2. LHQ sẽ chỉ dịnh một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội Kiểm Soát Ngưng Bắn gồm cả đại diện của Quân đội VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN.
3. Chính phủ VNCH phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên, trí thức, tu sĩ và tất cả những người đã bị tạm giam vì tranh đấu cho hòa bình và chủ quyền của dân tộc.
4. Chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt tình trạng thối nát, độc tài và bất lực ở miền Nam VN bằng cách để cho người Việt tự do chọn đại diện đa số dân chúng có bản chất hòa giải dân tộc, không liên kết và có đủ khả năng để:
- Thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt thoái mau chóng toàn thể quân lực Hoa Kỳ ở VN và những liên hệ ngoại giao, văn hóa và kinh tế giữa Hoa Kỳvà VN.
- Thương thuyết với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN về những thể thức tổng tuyển cử để bầu lên một chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng chính trị ở Nam VN, một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc tế, trong đó mọi người VN thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào đều có thể tham dư..
5. Các chính phủ Hoa Kỳ, Sô-viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các quốc gia liên hệ khác cộng tác với nhau để chấm dứt đau khổ của người dân Việt bằng cách ủng hộ đề nghị này cho chính người Việt đề rạ
6. Các phe lâm chiến tại VN, nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới, các giáo hội tôn giáo và các nhà nhân bản cấp thời hành động để thúc đẩy các quốc gia có trách nhiệm về chiến tranh VN chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN, Kampuchea và Làọ
Từ các danh từ và văn tự được xử dụng đến nội dung của bản tuyên bố đều giống hệt các bản tuyên bố của MTGPMN. Bản tuyên bố được viết vơi lối hành văn lập pháp hay quyết định thay vì nhẹ nhàng của một đề nghị của một tổ chức quốc tế về tôn giáo và hòa bình. Sau bản tuyên bố trên, GHPG đã làm mất cảm tình của hầu hết các quốc gia trên thế giớị Phái đoàn Đan Mạch đã vặn hỏi tại sao PGVN chỉ đòi quân đội Mỹ rút ra mà không đòi tất cả các quân đội ngoại nhập phải rút, trong đó có cả quân đội CS Bắc Việt, Phái đoàn PGVN không trả lời được.
* Thành lập "chính phủ Phật Giáo" để giao cho VC :
Tạp chí Quê Mẹ số 125 & 126 tháng 10-11/1993 đã công bố bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu về cuộc gặp gỡ giữa ông và TT Phạm Văn Đồng năm 1976. Bản tự thuật cho biết vào tháng 4/1975, PG đã thành lập Chính Phủ Phật Giáo Dương Văn Minh để giao miền Nam cho CS Hà Nộị Sau đây là phần liên hệ đến vấn đề này được đề cập trong bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu:
TT Phạm văn Đồng :
"- Đấy, theo Cụ biết, trong khi người Mỹ đi rồi, Thiệu xuống rồi, Phật Giáo lại âm mưu lập chính phủ Phật Giáo, đưa Dương Văn Minh lên làm TT. Lập làm gì vậy? Lập chính phủ đó để đánh với Cách Mạng phải không?
HT Thích Đôn Hậu đáp :
- Chuyện ấy có, Phật Giáo chúng tôi có lập Chính Phủ. Nhưng thế nàỵ Thưa Thủ Tướng. Chúng tôi đã hỏi các vị trong Viện Hóa Đạọ Các vị cho biết như sau : "HT nên nhớ rằng, PG chúng ta không ngu si đến độ lập Chính Phủ Phật Giáo, sau khi Mỹ đã bỏ miền Nam, Thiệu vơ vét của cải đi rồị Của cải, thế lực ở miền Nam VN chẳng còn gì, mà Cách Mạng đã đến bên lưng. Ông Dương Văn Minh cũng không đến nỗi dại gì muốn lên làm Tổng Thống lúc ấỵ"
Các vị ở Viện Hoá Đạo nói tiếp:
"PG chúng ta, con sâu con kiến cũng thương, huống gì con người ! Đã 30 năm chiến tranh, chết chóc đau thương chồng chất. Bây giờ đây nếu thả lỏng để ông già lụ khụ Trần Văn Hương tuyên bố : "Đánh" ! Thử hỏi cả 2 bên tham chiến chết bao nhiêu người nữả Muốn hạn chế sự chết chóc và tài sản của đồng bào, nên PG chúng ta phải có chủ trương. Lúc bấy giờ, chẳng còn ai lo cho đất nước, ai cũng chạy trối chết, PG đâu thể ngồi như vậy mà nhìn? Nên phải lập Chính Phủ, đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Nhưng không phải lập để đánh với Cách Ma.ng.
TT Phạm Văn Đồng hỏi:
- Vậy tại sao Dương Văn Minh lên, tuyên bố giữ mảnh đất cuối cùng, nếu không phải để đánh với Cách Mạng thì để làm gì?
Tôi hỏi Thủ Tướng :
- Khi Dương Văn Minh tuyên bố như vậy, về sau có nổ phát súng nào không?
- Không.
- Như vậy, Dương Văn Minh chỉ tuyên bố thôi, chứ không cốt đánh."
Chính phủ PG nói trên, khi mới nhận chức vào ngày 29/4/1975, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đã ra tuyên bố :
- Hoa Kỳ phải rút khỏi VN trong vòng 24 giờ kể từ ngày 29/4/1975.
- Hoa Kỳ phải tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc VN, quyền tự quyết của nhân dân VN và chấm dứt mọi sự dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam VN.
* Tổ chức mừng Việt Cộng giải phóng Miền Nam:
1. Mừng Việt Cộng giải phóng tại Đà Nẵng:
Ngày 29/3/1975, VC vưa chiếm được Đà Nẵng thì các tổ chức PG tại đây cắm cờ PG trên xe, chạy khắp thành phố reo mừng. Sau đó, tại các chùa Tỉnh Hội, Phổ Đà, Phật Học, Vĩnh Hội và một vài nơi khác trong thành phố đã bắc loa kêu gọi quân nhân và công chức chế độ cũ ra trình diện.
Một số được coi là "thành phần ác ôn" đã bị các chùa bắt giữ và giao nạp cho bộ đội VC. Số còn lại bị Ban Lãnh Đạo Cách Mạng thành lập ở các chùa nói trên thu hồi thẻ quân nhân hay công chức rồi cấp giấy phép tạm tha cho về để đợi lê.nh. Những người được coi là "có công với cách Mạng" được nhà chùa cấp giấy chứng nhận để khỏi đi học tập cải tạọ PG Đà Nẵng đã coi chiến thắng của VC như chiến thắng của Phật Giáo và các chùa ở Đà Nẵng đã hoạt động giống như những cơ sở chính quyền của Việt Cô.ng.
Tại Saigon, Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu tuyên bố một cách hãnh diện rằng khi "quân giải phóng" vào Đà Nẵng, chỉ còn một lá cờ duy nhất được tung bay trên thành phố này thôi, đó là lá cờ của Lực Lượng Hòa Giải của Phật Giáọ
Nhưng sau khi làm chủ được tình hình, VC liền dẹp tất cả các Ban Lãnh Đạo Cách Mạng ở các chùa và thay thế bằng các Ủy Ban Quân Quản của ho..
2. Mừng Việt Cộng giải phóng tại Saigon:
Như đã nói ở trên, ngày 30/4/1975, một số người trong Ban Giảng Huấn và sinh viên Đại học Vạn Hạnh đã ra Ngã Tư Bảy Hiền đón đoàn quân giải phóng.
Sau khi VC nắm quyền tại miền Nam, GHPG Ấn Quang lập Ủy Ban Tổ Chức Mừng Chiến Thắng do TT Thích Mẫn Giác, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa Viện Hoá Đạo làm Chủ ti.ch. Ủy ban này đã huy động Phật tử tổ chức mừng giải phóng ngày 15/5/1975 và lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh ngày 19/5/1975. Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31/12/1993, HT Tâm Châu có ghi lại diễn tiến nàỵ Theo những tài liệu của VC thì có khoảng 900 người tham gia mừng ngày giải phóng trên. Trong diễn văn chào mừng ngày 15/5/1975, TT Thích Mãn Giác có nói:
"Cuộc đấu tranh của Phật Giáo cho nền thống nhất tổ quốc cùng là một với cuộc đấu tranh vì Chủ nghĩa xã hội".
Sau khi GHPG Ấn Quang bị VC tấn công, một số tăng sĩ bị bắt giữ, HT Thích Mẫn Giác đã vượt biên và định cư tại Hoa Kỳ. Trong một đại hội của PG tại Seattle ngày 29/8/1980, bị đồng bào chất vấn, ông đã xác nhận ông có đọc bài diễn văn đó và nhìn nhận sự lầm lẫn của ông.
Abonner på:
Innlegg (Atom)