Dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc anh hùng, có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Bởi truyền thống quý báu đó mà trong hơn bốn ngàn năm qua, mặc dù đã nhiều lần bị giặc Phương Bắc đô hộ tổng cộng hàng ngàn năm và giặc tây đô hộ hàng trăm năm, nhưng bất cứ giai đoạn nào Việt Nam ta vẫn có những anh hùng hào kiệt cả nam lẫn nữ, sẵn sàng hy sinh tuổi thanh xuân, vượt lên trên mọi nỗi sợ hãi để phát động quần chúng cùng đứng lên chống lại kẻ thù, giành lại chủ quyền tổ quốc và danh dự dân tộc.
Từ năm 1945 ở miền Bắc và từ năm 1975
trên cả 2 miền, dưới sự cai trị của người và chủ nghĩa Cộng sản – một
chủ nghĩa ngoại lai núp bóng dân tộc, họ đã đẩy lùi nước ta trở về với
lạc hậu, biến người dân dần dần trở nên hèn nhát và thụ động. Độc lập
dân tộc, tự do, dân chủ là niềm ước ao khao khát của bất cứ một quốc gia
dân tộc nào trên thế giới, đặc biệt với một quốc gia thuộc địa như Việt
Nam trước năm 1945. Bởi sự khát khao này của người dân Việt Nam mà Cộng
sản Quốc tế đã dễ dàng thông qua ông Hồ Chí Minh để đưa chủ thuyết của
họ xâm nhập vào Việt Nam với danh nghĩa “giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước”.
Cũng dưới danh nghĩa này mà Đảng Cộng sản đã dễ dàng quy tụ
được quần chúng. Chỉ sau khi nắm trọn quyền hành trong tay, Cộng sản
Việt Nam mới đóng chặt mọi cánh cửa với thế giới tự do bên ngoài (ngoại
trừ một số nước cùng theo chủ nghĩa Cộng sản). Từ đó tước đoạt đi những
quyền căn bản của người dân.
Dưới hình thức của các tổ chức xã hội tập
hợp dưới cái gọi là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đảng Cộng sản đã dễ dàng
thực hiện các bước đầu độc tư tưởng người dân. Thông qua các tổ chức xã
hội như Đội Thiếu niên HCM, Đoàn Thanh Niên CSHCM, Hội Phụ Nữ, Hội Nông
Dân… đảng đã thực hiện mọi biện pháp tuyên truyền làm biến dạng và lu
mờ dần trong tâm trí quần chúng nhân dân về quyền tự do dân chủ thực sự.
Đảng tự đề cao vai trò lãnh đạo của chính họ, triệt tiêu mọi ý thức
phản kháng của nhân dân, dần dần hình thành trong quần chúng nhân dân
những suy nghĩ thụ động, phó mặc, ỷ lại và đặc biệt là sợ hãi.
Nhờ đó đảng có thể tự tung tự tác, kể cả
sử dụng những màn kịch bầu cử để tuyên bố rằng đại đa số nhân dân tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của đảng. Khi đã thực hiện
xong chính sách “ngu để trị” đối với đa số quần chúng nhân dân, đảng vẫn
chưa yên tâm nên cũng thiếp lập nhiều chân rết của các “tổ chức xã hội”
của họ tới từng địa phương cơ sở.
Đến khi các nước Cộng sản ở Châu Âu tan
rã, Đảng Cộng sản bắt đầu buộc phải mở cửa buôn bán với các quốc gia dân
chủ bên ngoài để tồn tại. Nhưng lúc này bởi sự đầu độc tư tưởng kèm
theo sự đe dọa uy hiếp kéo dài qua nhiều hình thức nên trong tâm trí đại
đa số người dân đã không còn nhận diện được thế nào là dân chủ thực sự,
mặc dù hai từ này vẫn được đảng Cộng sản đưa ra để mỵ lừa nhân dân và
Quốc tế từ lâu.
Những năm gần đây nhờ sự phát triển của
công nghệ thông tin mà một số khá đông người dân đã được giải độc và
vượt lên khỏi nỗi sợ hãi của chính mình để thực hiện những hoạt động
tích cực như chúng ta đang thấy. Những đoàn dân oan kiên quyết đi khắp
nơi kêu oan khiếu kiện. Nhiều anh chị em trẻ mạnh dạn lên tiếng đòi tự
do dân chủ. Người Việt cùng nhau xuống đường biểu tình chống Trung Quốc
xâm lược. Số người tham gia càng ngày càng đông, mặc dù Đảng cộng sản đã
dùng nhiều thủ đoạn đàn áp trắng trợn. Họ không còn có thể dập tắt được
những khát khao dân chủ thật sự.
Nhưng đáng tiếc là cho tới ngày nay mặc
dù đại đa số người dân đều đã trực tiếp chứng kiến hoặc chính họ là nạn
nhân của những bất công trong cuộc sống dưới tay các cán bộ đang nắm
quyền nhưng phần lớn người dân vẫn chưa thoát được sự sợ hãi để lên
tiếng phản đối và đòi lại các quyền của minh. Hầu hết còn chấp nhận cam
chịu, phó mặc, hoặc ỷ lại cho một thế lực vô hình nào đó làm thay họ.
Vậy cách nào để có thể giải độc cho đại
đa số đồng bào chúng ta không? Bởi hầu hết bà con chúng ta là nông dân,
công nhân, và dân nghèo thành thị, họ không có điều kiện tiếp cận với
thông tin đa chiều, không có thời gian để tim hiểu về dân chủ nhân quyền
vì phải lo cho miếng cơm manh áo hàng ngày của gia đình. Đây là lực
lượng đông đảo, đóng vai trò hệ trọng trong mọi đổi thay cho đất nước
nhưng cũng bị nhiễm độc nhiều nhất qua hệ thống tuyên truyền của đảng
Cộng sản. Đây là một thách thức lớn cho những người đang đấu tranh cho
một nền dân chủ thực sự ở Việt Nam.
Năm 2013 đã xuất hiện một số đáng kể các
hội đoàn Xã Hội Dân Sự tại Việt Nam bất chấp các nỗ lực ngăn cản đàn áp
của nhà cầm quyền. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho nhân dân Việt nam.
Trong năm 2014 này, liệu các hội đoàn Xã Hôi Dân Sự có thể nhân lên
nhiều, có thể giải độc tư tưởng cho đại đa số nguời dân Việt Nam, và dần
dần thay thể những tổ chức xã hội trá hình của đảng hay không vẫn còn
tùy thuộc nhiều vào quyết tâm của tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, điều có thể nói chắc là ước mơ
trả lại cho dân tộc Việt Nam truyền thống oai hùng bất khuất và ước mơ
canh tân, đưa những tư tưởng dân chủ tiến bộ và lòng tự trọng dân tộc
thực sự tới quần chúng nhân dân, đã và đang là hoài bão của biết bao sĩ
phu, trí thức Việt suốt hơn 200 năm qua. Nỗi thôi thúc đó chưa lúc nào
ngơi nghỉ và nay đang là động cơ phía sau các nỗ lực phát triển Xã Hội
Dân Sự – con đường giải thoát dân tộc với tối thiểu đổ vỡ và thiệt hại.
Đã đến lúc giấc mơ 200 năm đó phải bắt đầu trở thành hiện thực trong năm 2014 này.
Nguyễn Trung Tôn.
Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar