Hiến Pháp CSVN sửa đổi 2013 có hiệu lực pháp luật từ ngày 01.01.2014, thực chất là bản cương lĩnh chính trị – kinh tế của Đảng cộng sản, tuyên bố nước Việt Nam đứng bên lề cộng đồng quốc tế. Tiếp tục khẳng định bản chất nhà nước cộng sản, theo con đường xã hội chủ nghĩa, mô hình chưa hề tồn tại trên thế giới, trong khi chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung ngay từ quê hương sinh ra nó và các nước đã sai lầm đi theo nó. Nay chỉ còn Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên và Cu Ba tuyên bố trên văn bản là theo cộng sản, nhưng thực chất nói một đằng làm một nẻo và họ chỉ giữ lại vũ khí độc chiêu bảo vệ chính quyền, thủ tiêu đối lập là “chuyên chính vô sản” và “chế độ độc đảng toàn trị”.
Mô hình đảng trị đang áp đặt lên toàn xã 
hội, đi ngược lại ý chí nhân dân, trấn áp nhân quyền, kiềm chế dân quyền
 và thắt chặt tự do dân chủ.
Một đất nước mà những quyền tự do cơ bản nhất của con người không được bảo đảm, thì bao giờ con người mới có cơ hội làm người.
Câu chuyện chế độ nào, thể chế nào đã quá
 nhàm chán và lỗi thời ở thế kỷ 21 này. Thực tế hơn là mỗi người hãy tự 
hỏi, sau gần bốn mươi năm thống nhất Đất Nước, Việt Nam đứng hàng thứ 
mấy trên thế giới?
Cái đám đông người Việt hôm nay chỉ còn 
mỗi cơ hội kiếm ăn qua ngày dưới cơ chế “Kinh tế thị trường định hướng 
XHCN”. Đầy tớ chỉ dùng sở đoản, đi thăm các nước giàu xin viện trợ thoát
 nghèo, ODA, nhân đạo… và tới các nước nghèo xin được công nhận tuy là 
cộng sản nhưng có “nền kinh tế thị trường”.
Điều 4 Hiến Pháp 2013 là điều then chốt 
của bản Hiến Pháp, nếu muốn dùng như một đạo luật có giá trị pháp lý cao
 nhất, cần xem lại về tu từ, sự lẫn lộn nội hàm và ngoại diên, đặc biệt 
là thái độ phân biệt xã hội (giai cấp, đẳng cấp), du nhập tư tưởng ngoại
 lai và sùng bái cá nhân trong nội dung đề mục.
Đơn cử, xin trích dẫn Điều 4, Mục 1, Hiến Pháp 2013:
[ Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên 
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân 
lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai 
cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – 
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh 
đạo Nhà nước và xã hội.]
Ở đây ta thấy cụm từ “nhân dân lao động” 
yếu tố ngoại diên, bị cụm từ “giai cấp công nhân” nội hàm, đứng trước, 
không cần thiết lấn át, đồng thời vi phạm luật tu từ và logic ngôn ngữ. 
Tại sao, nếu đã nói nhân dân lao động tức là gồm tất cả những thể nhân/ 
người lao động ở tất cả các tầng lớp xã hội có khả năng lao động và tạo 
ra sản phẩm từ hoạt động sáng tạo của mình, trong đó có giai cấp công 
nhân. Nếu khẳng định điều này tức là giai cấp công nhân đứng ngoài nhân 
dân lao động và không phải là những người lao động (thực tế chỉ làm công
 cụ cho thủ đoạn độc tài toàn trị tức chuyên chính vô sản).
Điều này chỉ rõ thái độ đối xử bất bình 
đẳng và phân biệt các tầng lớp nhân dân trong xã hội, tự ý đề cao “giai 
cấp công nhân” lên trên và trước đa số nhân dân lao động còn lại. Thiệt 
thòi nhất là nông dân, những người bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để
 làm đẹp lời diễn văn của các nguyên thủ quốc gia khi các vị tự hào phát
 ngôn cái thành tích nhất nhì thế giới về xuất khẩu lúa gạo mà vẫn là 
lớp nghèo nhất xã hội. Chính sự phân biệt giàu nghèo giữa giai cấp tư 
sản và vô sản để đấu tranh giai cấp của Mác đã trở thành vũ khí giết 
người hàng loạt, hủy hoại lương tâm và đạo lý con người.
Sự phân biệt này chứng tỏ cái đầu óc lạc 
hậu của ĐCS với thế giới ngày nay là nhân loại đã bước vào kỷ nguyên của
 “kinh tế tri thức”, xóa bỏ những rào cản giai cấp, đẳng cấp, giới tính…
 và chỉ khuyến khích lao động sáng tạo để cải tạo con người, xã hội và 
thiên nhiên.
Đoạn tiếp theo cũng phản logic như đoạn trước: “… đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc,” vì chỉ cần “… đại biểu trung thành của nhân dân lao động và dân tộc” là đủ.
Đoạn cuối của đề mục là đặc biệt nguy 
hại, bởi tư tưởng chủ đạo của lực lượng lãnh đạo đất nước mà bị áp đặt 
một tư tưởng ngoại lai không tưởng đã lỗi thời và phá sản thế giới trong
 trọn thế kỷ 20 – chủ nghĩa Mác Lê nin. “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là ĐCS VN
 tự đặt ra, thế giới chỉ ghi nhận HCM là nhà hoạt động cách mạng và là 
lãnh tụ đảng cộng sản, chứ không có “Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Hơn nữa, ở 
Việt Nam, một cá nhân dù lớn đến mấy cũng không thể hơn được tinh hoa, 
tư tưởng Văn Hóa Dân Tộc đã đúc kết từ hàng ngàn năm lịch sử.
Đây thực sự là nan đề của dân tộc cần 
được bàn thấu tình đạt lý. Quyết không để Bộ Não Chủ Đạo của một bản 
Hiến Pháp, một Đạo Luật gốc của Quốc Gia bị áp đặt một tư tưởng ngoại 
lại lỗi thời và một “tư tưởng” cá nhân chưa được toàn dân đồng thuận.
Dân tộc ta đã từng là chủ nhân của đất 
Tàu hiện tại, cách nay 7.000 đến 10.000 năm, đã từng cộng sinh và bị dồn
 ép xuống phía Nam như ngày nay. Chúng ta đã cố gắng cùng chung sống với
 Tàu, nhưng không thể. Đã từng theo Tây, lại đuổi Tây. Theo Liên Xô, họ 
tự bỏ. Theo Mỹ, đuổi Mỹ.
Thế thì theo ai bây giờ? Thưa, chẳng theo ai cả.
Hãy tự tin mà bước trên chính đôi chân của mình!
Đó là Thượng sách. Và hãy đừng là quân cờ cho bất cứ kẻ nào!
Nhân đây cũng lưu ý với quý vị rằng, 
những thuật ngữ ngoại lai gây thảm họa cho trí thức, văn hóa và hạnh 
phúc của nhân dân Việt Nam và thế giới, chính là “giai cấp”, “đấu tranh 
giai cấp”, “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”, “vô sản” (nay biến
 tướng thành… vô sản), “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”, “vô sản 
toàn thế giới đoàn kết lại”… Những thuật ngữ này những năm 20 thế kỷ 20 
trở về trước không có trong văn hóa ngôn ngữ Việt Nam và Từ điển từ 
nguyên. Chất độc này nó không dừng lại ở tiếng nói mà nó đã trở thành 
tiềm thức gây hại. Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm rõ sự thật lịch sử 
để thế hệ nối tiếp có thể nhận diện và ý thức tẩy độc.
Tóm lại, Điều 4 HP 2013 là điều luật phản
 dân, hại nước gây chia rẽ các tầng lớp xã hội, phủ nhận Đạo lý dân tộc 
và Văn Hóa Việt Nam từ ngàn đời, du nhập tư tưởng ngoại lai lỗi thời và 
tệ sùng bái các nhân làm đất nước và dân tộc tụt hậu với thế giới.
L A V. 


Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar