Chính Phủ Lưu Vong bao lâu nay là đề tài nóng bỏng của người Việt hải ngoại, vì mới đây có thêm Chính Phủ Lưu Vong Việt Nam tại Hoa Kỳ ra đời. Bài viết này sẽ tìm hiểu mục tiêu và hoạt động của những tổ chức này nói chung và của Việt Nam nói riêng.
Thế chiến thứ II đã chứng kiến một số chính phủ lưu vong được thành lập và hoạt động phần lớn tại Âu châu. Trong số đó phải kể đến Pháp, Hòa Lan, Ba Lan, Tiệp Khắc, Na Uy, Luxemburg, Yugoslavia, Hy lạp, và Phi Luật Tân. Vì giới hạn về khuôn khổ của bài viết này, chúng ta sẽ chỉ tìm hiểu một vài chánh phủ lưu vong trong thời kỳ này.
Vì bài viết cùng sự phân tách của ông Nguyễn Quốc Khải quá rộng có những điểm không liên quan đến tình hình Á Châu và Việt Nam, nên tạm rút ngắn qua các phần chính sau đây:
Những chính phủ lưu vong trong thời kỳ hiện đại:
Trong
giai đoạn hiện nay, vẫn có một số chính phủ lưu vong trên thế giới.
Đáng nói đến là hai chánh phủ lưu vong Tây Tạng và Miến Điện. Trung Tâm
Hành Chánh Tây Tạng (Central Tibetan Administration – CTA) thường được
gọi là chính phủ lưu vong Tây Tạng, được thành lập vào năm 1959 tại
Dharamshala, Ấn Độ do Đức Dalai Lama thứ 14 lãnh đạo. Ngài cùng với đa
số các vị bộ trưởng đã di tản an toàn ra khỏi Tây Tạng sau cuộc nổi dậy
đẫm máu chống sự cai trị của Trung Quốc thất bại. CTA xem Tây Tạng là
một quốc gia độc lập, có ngôn ngữ và văn hóa riêng biệt và sự chiếm đóng
quân sự của Trung Quốc là bất hợp pháp. Tuy nhiên mục tiêu tranh đấu
hiện nay của chính phủ lưu vong Tây Tạng là một quy chế tự trị thật sự.
Mặc
dù được tổ chức như một chánh phủ, CTA tuyên bố rằng CTA sẽ không nắm
chính quyền tại Tây Tạng mà trái lại sẽ giải tán một khi tự do được phục
hồi tại Tây Tạng. Chính quyền Tây Tạng sẽ phải do người Tây Tạng ở
trong nước chọn lựa. Chức vụ thủ tướng lúc đầu được Đức Dalai Lama bổ
nhiệm, nhưng kể từ 2001, chức vụ này được cử tri Tây Tạng bầu theo thể
thức dân chủ. Kể từ tháng 3, 2011, theo sự yêu cầu của Đức Dalai Lama,
hiến chương Tây Tạng được thay đổi để ngài không còn giữ trách nhiệm về
chính trị. Do đó, chức vụ cao nhất hiện nay của chính phủ lưu vong Tây
tạng là Thủ tướng.
CTA
chăm lo về vấn đề an sinh cho cộng đồng Tây Tạng tị nạn tại Ấn Độ gồm
khoảng 100,000 người. CTA quản trị trường học, cơ sở y tế, sinh hoạt văn
hóa, cơ sở thương mại, và những dự án phát triển kinh tế cho cộng đồng
Tây Tạng với sự thỏa thuận của chính phủ Ấn Độ. CTA phát hành cuốn sổ
xanh lá cây cho tất cả những người dân Tây Tạng sống ở hải ngoại. Cuốn
sổ này chứng nhận quốc tịch và sự đóng góp tình nguyện cho CTA. Ngoài ra
CTA còn phát hành cuốn sổ mầu xanh da trời cho những ai trên 18 tuổi
không phải là công dân Tây Tạng nhưng ủng hộ Tây Tạng.
Chánh
phủ lưu vong Tây Tạng không được chính phủ nào trên thế giới công nhận
chính thức. Tuy nhiên chánh phủ lưu vong Tây Tạng tiếp tục nhận được sự
trợ giúp không chính thức của nhiều nguồn khác nhau. Đức Dalai Lama được
các nguyên thủ quốc gia thường xuyên tiếp kiến. Chính phủ lưu vong Tây
Tạng duy trì một số văn phòng ở nhiều thành phố và quốc gia khác nhau
như New Delhi, New York, Geneva, Tokyo, London, Paris, Moscow, Canberra,
và Budapest. Những văn phòng này hoạt động như tòa đại sứ không chính
thức của chánh phủ lưu vong Tây Tạng.
Đặc tính của một chính phủ lưu vong:
Phân
tách những thí dụ kể trên người ta có thể định nghĩa chính phủ lưu vong
là một tổ chức chính trị tự xem mình là một chánh phủ hợp pháp nhưng
không thể sử dụng quyền hạn hợp pháp của mình và phải cư ngụ trên một
quốc gia khác. Những chính phủ lưu vong thường chuẩn bị một ngày nào đó
có thể quay trở về quê hương của mình để dành lại quyền hành chính thức.
Các chính phủ lưu vong được thành lập trong những trường hợp như quốc
gia bị xâm chiếm trong thời gian chiến tranh, nội chiến, đảo chánh, hay
cách mạng.
Một số yếu tố sau đây giúp người ta nhận biết thế nào làmột chính phủ lưu vong:
1. Một cá nhân hay một nhóm cá nhân tự cho mình có thẩm quyền tối cao đối với một quốc gia mà mình đã phải di tản.
2.
Một cá nhân hay một nhóm cá nhân có uy tín quốc tế và thành tích đáng
kể được quốc gia bao dung công nhận rằng họ có thẩm quyền tối cao đó.
3. Một cá nhân hay một nhóm cá nhân được tổ chức để thi hành một số hoạt động nhân danh một quốc gia.
Để chứng tỏ có thực quyền, một chính phủ lưu vong cần phải có khả năng để có thể thực hiện một số hoạt động như sau:
1. Được đại đa số dân ở trong và ngoài nước công nhận.
2. Được các quốc gia có chủ quyền công nhận ngoại giao.
3. Duy trì một lực lượng quân sự ở trong nước và/hay hải ngoại.
4. Tham dự vào những hiệp định song phương hay quốc tế.
5. Tu chính hiến chương của chính phủ lưu vong.
6. Phải có ngân sách hoạt động và có các văn phòng đại diện.
7. Phát hành giấy căn cước.
8. Cho phép thành lập đảng chính trị.
9. Thực hiện những cải tổ dân chủ.
10. Tổ chức bầu cử.
5. Tu chính hiến chương của chính phủ lưu vong.
6. Phải có ngân sách hoạt động và có các văn phòng đại diện.
7. Phát hành giấy căn cước.
8. Cho phép thành lập đảng chính trị.
9. Thực hiện những cải tổ dân chủ.
10. Tổ chức bầu cử.
Sự
hữu hiệu của một chính phủ lưu vong tùy thuộc vào uy tín và khả năng
của những người lãnh đạo.Đó là những trường hợp như Đức Dalai Lama của
Tây Tạng, Bà Aung San Suu Kyi của Miến Điện, Tướng Wladyslaw Sikorski
của Ba Lan, và Tướng de Gaulle của Pháp. Đồng thời sự trợ giúp từ khối
dân của nước đó và các chính phủ ngoại quốc cũng rất là quan trọng.
Những chánh phủ lưu vong trong những thí dụ trên đây cho thấy họ làm
việc rất hiệu quả, tạo ra khá nhiều thử thách to lớn cho đối phương.
Trái lại, có những chánh phủ lưu vong chỉ duy trì sự hiện diện tượng
trưng hoặc tệ hơn không được ai nhắc nhở đến. Trong nhóm này người ta
phải kể đến Belarusian People’s Republic, Qajar Dynasty, Pahlavi
Dynasty, Royal Lao government in Exile, Sahrawi Arab Democratic
Republic, v.v.
Các chính phủ lưu vong Việt Nam:
Riêng
về Việt Nam, đầu tiên có Chánh Phủ Quốc Gia Lâm Thời (CPQGVNLT) do
Phong Trào Việt Nam Tân Dân Chủ (PTVNTDC) vận động thành lập vào năm
1990. Vì bạo bệnh, ông Nguyễn Trân giữ chức vụ thủ tướng đầu tiên xin từ
nhiệm. Ông Đào Minh Quân, Chủ Tịch PTVNTDC, cựu Trung Úy Chiến Tranh
Chính Trị VNCH, lên thay thế và chánh thức giữ tân thủ tướng kể từ ngày
16-2-1991. CPQGVNLT khai báo đã thành lập được năm văn phòng đại diện ở
năm quốc gia có đông người tị nạn và được chính phủ Hoa Kỳ công nhận về
mặt ngoại giao nhưng không có một bằng chứng pháp lý nào chứng tỏ điều
này. CPQGVNLT không đạt được thành tích nào đáng kể và trên nguyên tắc
vẫn còn tồn tại đến ngày nay. CPQGVNLT tuyên bố rằng: CPQGVNLT là tổ chức
“duy nhất đại diện cho Quốc Gia Việt Nam và những người đang bị Cộng
Sản cướp nước và được chính phủ Hoa Kỳ nhìn nhận hợp pháp tại Hoa Kỳ.”
Chính
phủ lưu vong thứ hai là Chính Phủ Cách Mạng Việt Nam Tự Do (CPCMVNTD)
thành lập vào năm 1995, 20 năm sau khi miền nam Việt Nam rơi vào tay
Cộng Sản. Một người có bí danh là Nguyễn Hoàng Dân giữ chức vụ thủ tướng
đầu tiên. Tiếp theo là ông Nguyễn Hữu Chánh, trước đó từng là một thành
viên của CPQGVNLT. Danh hiệu CPCMVNTD sau này được đổi thành Chính Phủ
Lâm Thời Việt Nam Tự Do và cuối cùng là Chính Phủ Việt Nam Tự Do. Tổ
chức này tự giải tán vào 2008 vì “không còn phù hợp với tình hình thế
giới.” Trong 13 năm hoạt động Chính Phủ Việt Nam Tự Do không được quốc
gia nào công nhận, không thu hút được sự hỗ trợ đáng kể của dân Việt Nam
ở trong nước và hải ngoại, cũng như không đạt được thành tích nào đáng
kể. Trái lại tổ chức này còn bị tai tiếng vì liên hệ đến những vụ đặt
bom bất thành tại một vài cơ sở của CSVN.
Chính
phủ lưu vong thứ ba do các Ông Nguyễn Bá Cẩn, cựu thủ tướng VNCH, Ông
Nguyễn Văn Chức, cựu thiếu tướng và cựu thượng nghị sĩ VNCH, cựu thiếu
Tướng Lý Tòng Bá, và Ông Hồ Văn Sinh, chủ tịch VNCH Foundation, vận động
thành lập vào năm 2008 với danh xưng là chánh phủ VNCH. Tổ chức này quy
tụ được một số nhân vật thuộc nội các VNCH cuối cùng dưới quyền của cựu
Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn. Sau khi Ông Nguyễn Bá Cẩn đột ngột từ trần vào
năm 2009, hai ông Nguyễn Văn Chức và Lý Tòng Bá tiếp tục điều hành
Chinh Phủ VNCH cho đến nay. Tổ chức này chủ trương phục hồi VNCH, đòi
CSVN trả lại miền Nam Việt Nam bằng cách vận động quốc tế thi hành đúng
đắn Hiệp Định Paris 1973.
Chánh
phủ lưu vong thứ tư vừa mới thành lập vào tháng 10 vừa qua dưới danh
xưng Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH do khoảng 300 người tham dự một hội
nghị họp tại Westminter, California lấy tên là Hội Nghị Diên Hồng Việt
Nam Hải Ngoại bầu ra. Ông Nguyễn Ngọc Bích, cựu Tổng Giám Đốc VNTTX,
được nhiều phiếu nhất giữ chức chủ tịch. Ông Hồ Văn Sinh, nguyên là viên
chức Dân Vận Chiêu Hồi, đệ nhất phó chủ tịch. Ông Đoàn Hữu Định, nguyên
sĩ quan Nha Kỹ Thuật, đệ nhị phó chủ tịch.
UBLĐLTVNCH
có chủ trương tương tự như tổ chức Chánh Phủ VNCH của cố thủ tướng VNCH
Nguyễn Bá Cẩn: Phục hồi Hiệp Định Paris 1973 và đòi CSVN trả lại miền
nam Việt Nam để tái lập nước Việt Nam Cộng Hòa. Cho đến nay, người ta
chưa biết rỏ tổ chức Chánh Phủ VNCH và UBLĐLTVNCH là hai thực thể khác
biệt hay chỉ là một. Sau khi thành lập được hơn một tháng, Ông Đoàn Hữu
Định tuyên bố rút tên ra khỏi UBLĐLTVNCH: “Mới đây qua một cuộc biểu
quyết trong giới cựu quân nhân mà tôi là một thành phần đã cho biết là
việc tham gia không thuận lợi vào lúc này và không mấy thích hợp trong
hoàn cảnh và giai đoạn này. Do đó tôi phải theo ý muốn của đa số là rút
tên ra khỏi Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH.” ( Lời ông Đoàn Hữu
Định tuyên bố )
Bài học:
Tại
Hoa Kỳ hiện có ít nhất là hai hoặc ba tổ chức dưới hình thức chính phủ
Việt Nam lưu vong. Dù danh xưng là chủ tịch, tổng bí thư, tổng thống,
hay thủ tướng, cũng không có gì khác biệt. Trong lịch sử hiếm thấy hiện
tượng lạm phát chính phủ lưu vong như vậy. Thông thường chính phủ lưu
vong được thành lập ngay sau khi có cuộc di tản ra hải ngoại. Trái lại
cả bốn chính phủ lưu vong Việt Nam đều được thành lập vài ba thập niên
sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Có lẽ thời gian đầu còn bận lo
cơm áo. Ngày nay một số lãnh tụ lưu vong này đã ngoài 70 hay 80.
Trong
Hội Nghị Diên Hồng Việt Nam Hải Ngoại vừa qua, một cựu sĩ quan VNCH nhận xét rằng: “Một chính phủ lưu vong phải có các yếu tố như
là chính quyền, dân tộc, lãnh thổ và sự công nhận của quốc tế. Chúng ta
không có những điều kiện này thì hãy an phận thủ thường mà làm những
việc nho nhỏ, đừng nghĩ đến việc gì quá to lớn.” Ý kiến của ông rất chí
lý nhưng rất tiếc không được chấp nhận. Do đó hải ngoại có thêm một
chính phủ lưu vong.
Hai
năm trước đây, Lm Phan Văn Lợi, một thành viên trong ban lãnh đạo của
Khối 8406 ở quốc nội, vô cùng ngạc nhiên khi thấy tên của ngài và Lm
Nguyễn Văn Lý trong danh sách thành phần của một chánh phủ lưu vong.
Nhân dịp viết thư yêu cầu chính phủ lưu vong này lấy tên của mình ra, Lm
Lợi đã đóng góp một số ý kiến được tóm tắt như sau mà kẻ viết bài này
hoàn toàn đồng ý:
1. Thành lập một tổ chức nhỏ, hoạt động, từng bước xây dựng uy tín, để lớn dần dần.
2. Không thể có chuyện đùng một cái thành lập chính phủ lâm thời như ảo thuật được, lây qua các tổ chức đấu tranh nghiêm túc đầy gian nan vất vả khác; làm nản lòng bao người Việt tâm huyết khác.
3. Trong 35 năm qua, hình như cũng đã có một số “chính phủ lâm thời” mờ mờ ảo ảo, cũng đã làm người Việt chúng ta tốn công sức và tiền của khá nhiều rồi.
2. Không thể có chuyện đùng một cái thành lập chính phủ lâm thời như ảo thuật được, lây qua các tổ chức đấu tranh nghiêm túc đầy gian nan vất vả khác; làm nản lòng bao người Việt tâm huyết khác.
3. Trong 35 năm qua, hình như cũng đã có một số “chính phủ lâm thời” mờ mờ ảo ảo, cũng đã làm người Việt chúng ta tốn công sức và tiền của khá nhiều rồi.
Nếu
không đủ uy tín, không có đủ phương tiện, không có thực lực, không nên
tổ chức chính phủ lưu phong. Phương sách tranh đấu hữu hiệu cho một nước
Việt Nam dân chủ hiện nay vẫn là tập trung mọi nỗ lực để hỗ trợ phong
trào dân chủ ở trong nước. Chúng ta vô cùng hãnh diện có nhiều chiến sĩ
đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ ở trong nước như Lê Thị Công Nhân,
Phạm Hồng Sơn, Cù Huy Hà Vũ, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Văn Lý, Trần Huỳnh
Duy Thức, Lê Thăng Long, Phạm Thanh Nghiên, Tạ Phong Trần, Huỳnh Việt
Lang, Nguyễn Văn Hải (Điếu Cầy), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm), v.v. Họ
sẽ là những người lãnh đạo đất nước trong tương lai.
Mỗi
tổ chức ở hải ngoại dù lớn hay nhỏ nên thiết lập các Quỹ Dân Chủ để
luôn luôn có sẵn nguồn tài chánh gửi về trợ giúp những tổ chức dân chủ ở
trong nước có phương tiện hoạt động và những nhà dân chủ và gia đình
khi họ bị CSVN bao vây kinh tế. Một việc làm hữu hiệu thứ hai là tiếp
tục phổ biến tin tức trung thực vào trong nước để phá vỡ kế hoạch bưng
bít thông tin của CSVN. Ngoài ra hải ngoại cần liên kết với các sinh viên
Việt Nam du học. Lớp người trẻ này không ít thì nhiều sẽ là những thành
phần tạo sự thay đổi ở trong nước. Kỹ sư Đỗ Nam Hải, KS Nguyễn Tiến
Trung, LS Lê Công Định, Cô Hoàng Lan, v.v. là những thí dụ cụ thể.
Tóm lược bài viết của:
Nguyễn Quốc Khải.
Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar