søndag 8. februar 2009

Phật Giáo dưới sự kiểm soát của CSVN

Phật Giáo Việt Nam hiện nay dưới sự kiểm soát của Cộng Sản Việt Nam.

Kể từ 30 tháng 4 năm 1975, độc tài Cộng sản Việt Nam là một trong những nước vi phạm nhân quyền quá quắc nhất trong thế giới, kể cả việc ngăn cấm tự do hành đạo.
Làm cho chúng ta có nhận định rằng CSVN bán khoán chuyến viếng thăm của sư Thích Nhất Hạnh cho cộng đồng thế giới, bằng hỏa mù che đậy sự thật đàn áp tôn giáo, với các cải cách nửa vời đang thực hiện tại Việt Nam về tự do tôn giáo và nhân quyền. Nhiều người nhận định cuộc cải cách này không đáng kể, kể cả hàng lãnh đạo GHPGVNTN được đề cử làm ứng viên Giải Nobel Hòa bình: Đức Tăng thống Thích Huyền Quang viên tịch vào tháng 7.2008, và nhà đấu tranh cho nhân quyền: Hòa thượng Thích Quảng Độ hiện đang bị quản chế hơn hai mươi năm qua.

Sư Thích Nhất Hạnh xem cuộc viếng thăm này như cơ hội chữa lành sự phân hóa nơi quê nhà, giảm thiểu căng thẳng giữa CSVN và Phật giáo, và khuyến khích giới trẻ Việt Nam thực hành đạo Phật. Sự thiển cận của sư Thích Nhất Hạnh: “Đây là sự đáp ứng nhu cầu cho nhân dân Việt Nam. Đã đến lúc thực hiện cuộc hòa giải để thống nhất thực sự đất nước”. Mặt khác, thì GHPGVNTN xem cuộc thăm viếng của sư Thích Nhất Hạnh là một ngây thơ chính trị nếu không là « phi Phật giáo ». Sự cấu kết sư Nhất Hạnh với CSVVN chỉ mang lại tác dụng « giúp bạo quyền CSVN chôn sống Phật giáo... biến 2000 năm truyền thống độc lập của Phật giáo Việt Nam thành công cụ chính trị cho quái đảng CSVN, và biến tư tưởng cao cả của đạo Phật cứu khổ thành tín ngưỡng mê tín dị đoan ».

Tại Tây Tạng cuộc đàn áp mà Trung Cộng, và cuộc lưu vong của Đức Dalai Lama. Rồi cuộc bạo động và mất ổn định chính trị mới đây ở Miến Điện, với những hình ảnh sống động của chư Tăng Miến ôn hòa thách thức. Miến Điện cũng đã trở thành và đồng nghĩa với cuộc đàn áp Phật tử. Nhưng Việt Nam ? Đối với nhiều người Tây phương, sự liên tưởng bao quanh Việt Nam vẫn quay tròn theo thuyết domino, cộng sản, và cuộc chiến tranh Việt Nam. Một số người còn hồi tưởng những hình ảnh các nhà sư tự thiêu trong thời chiến.

Điều còn thiếu vắng ở Việt Nam ngày nay, là những cuộc biểu tình rộng lớn như ở Miến Điện và Tây Tạng. Chưa có những hình ảnh sống động qua y áo chư Tăng xuống đường ở Saigon, vì lẽ bị cấm và hạn chế số Tăng sĩ hành đạo. Nhưng cuộc đàn áp tại Việt Nam tinh vi hơn, [chẳng thua gì Miến Điện và Tây Tạng]. Ngay từ khi được thành lập vào thập kỷ trước, Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do tôn giáo trên Thế giới (US Commission on International Religious Freedom), là tổ chức của lưỡng đảng tại Hoa Kỳ, nhằm mục tiêu theo dõi tự do tôn giáo trên thế giới, đã không ngừng đặt Việt Nam vào các quốc gia đàn áp nhân quyền quen thuộc như Miến Điện, Trung quốc, Iran, Bắc Triều tiên, Sudan và Saudi Arabia.

Lịch sử Phật giáo Việt Nam gắn bó chặt chẽ với lịch sử chính trị dưới vùng đất bị Trung Cộng đô hộ qua nhiều thế kỷ. Cuộc chiếm đóng này, và quan hệ với người Khmer ở phía Tây Nam, đưa tới sự đa dạng khác thuờng về truyền thống tôn giáo tại Việt Nam. Phật giáo Đại thừa, Khổng giáo, và Lão giáo chung sống qua nhiều thế kỷ. Một trong những truyền thống tôn giáo bản địa, đạo Cao Đài, là một hỗn hợp của nhiều tôn giáo lớn trong thế giới với nền tín ngưỡng địa phương, (Các giáo phái Cao Đài độc lập cũng đang đối diện với những sách nhiễu và phân biệt đối xử của CSVN). Biết bao lần trong lịch sử Việt Nam, tôn giáo đóng vai trò chính trị quan trọng. Trong thời đại từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV, Phật giáo nở rộ và nhiều vị Quốc sư là những Phật tử được nhân dân kính trọng. Rồi qua cuộc nội chiến thế kỷ XVI, nhà Nguyễn dùng Phật giáo để chấn chỉnh Việt Nam thông qua những biện pháp phù dân như xây cất chùa chiền mới.

Phật giáo ngày nay vẫn tiếp tục liên kết với xã hội và đời sống chính trị. Nhóm người của sư Thích Nhất Hạnh đã có lời tố cáo GHPGVNTN cất chứa “những lá cờ của chế độ cũ” của miền Nam Việt Nam, ngụ ý sứ mệnh của GHPGVNTN là chính trị chứ không phải tâm linh. Tuy nhiên không thể nào phân biệt chính trị với tâm linh trong thực tiễn hằng ngày.
Sự tu tập bao hàm (a) khai mở trí tuệ bát nhã để phá trừ vô minh và (b) hành động cứu chúng sinh ra khỏi mọi khổ đau. Nếu ai sống trọn vẹn với hai nguyên lý này, sẽ không còn thấy biên giới giữa đức tin và chính trị”.

Đúng thế, khái niệm của sư Thích Nhất Hạnh là “Phật giáo dấn thân”, tức sự ứng dụng của trí tuệ thu đạt từ thiền định và giáo lý cứu khổ trong thế giới của đạo Phật, bất cứ trên lĩnh vực chính trị, kinh tế hay xã hội.

Bộ kinh Phật sớm nhất của Phật giáo Việt Nam, là Lục Độ Tập Kinh vào thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, dạy các nguyên tắc dấn thân cho mọi người : “Bồ tát thấy dân kêu ca, liền gạt lệ xông vào nơi chính trường hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than”. Chúng ta cần nhớ rằng Bồ tát, người đạt tới quả vị giác ngộ, nhưng không nhập Niết Bàn để dấn thân cứu độ chúng sinh. Hình ảnh Bồ tát Địa Tạng “vào địa ngục cứu những ai đang bị hành xác và nguyện sẽ không thành Phật bao lâu còn một chúng sinh trong địa ngục”.

Ngày nay, bạo quyền CSVN cấm việc tu hành Phật giáo một cách độc lập; chỉ có Phật giáo Quốc Doanh mới được quyền hành đạo. Dân chúng được cho phép đến chùa, đốt hương, cúng kiến, nhưng trái tim Bi Trí của đạo Phật đã bị bạo quyền cắt bỏ. Ở Việt Nam ai thực hành cốt lõi đạo đức Phật giáo: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng tất sẽ bị vào tù vì tội “tuyên truyền chống phá chế độ”. Mặc dù Hiến pháp Việt Nam tuyên bố cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng theo họ chọn lựa. Nhưng trong thực tế, tự do này bị hạn chế rõ rệt. Bạo quyền CSVN không cho phép các tôn giáo phát triển qua việc tập trung và tổ chức vì như thế có nguy cơ biến thành sự thách thức với quyền uy của đảng CSVN. Bạo quyền CSVN muốn biến các tôn giáo lớn tại Việt Nam thành phụ tùy cho quái đảng CSVN. Hiện nay chỉ có quyền thực hiện tín ngưỡng, trừ phi tin vào những con đường giác ngộ, không khác với điều bạo quyền cho phép. Hình thức của Phật giáo vẫn còn đó, nhưng sự tự do tu hành đạo Phật hằng ngày ở ngoài các chùa viện đã bị hạn chế. Phản kháng chống bạo quyền độc chiếm Phật giáo, kể cả biểu dương ôn hòa kiến nghị cho sự công nhận tổ chức Phật giáo, đã gặp phải sự chống cự mạnh mẽ và vu cáo, buộc tội. Năm 2007, mười vị Sư Khmer đòi hỏi ôn hòa cho sự độc lập ngoài Giáo hội Phật giáo Quốc Doanh đã bị bắt hoàn tục và bị bắt giam. Chỉ nêu một trong những vụ đàn áp các thành viên thuộc GHPGVNTN, thì năm 2006, một Sư cô thành viên của GHPGVNTN tỉnh Khánh Hòa, đã bị sách nhiễu và bị trục xuất khỏi ngôi chùa do Sư cô gầy dựng nên, chỉ vì Sư cô tham gia GHPGVNTN. Đối với Phật tử, yêu sách ôn hòa cho sự độc lập [của Giáo hội] bị xem như đe dọa quyền kiểm soát của bạo quyền. Thêm nữa, phát biểu ôn hòa ý kiến mình hay biểu tình đòi hỏi cho tự do tôn giáo rộng rãi, đòi cải cách pháp luật và chính trị cần thiết cho sự tự do này sẽ bị xem như thách thức quyền uy của bạo quyền CSVN”.

Bạo quyền CSVN kiểm soát mọi truyền thông, chúng tự đánh trống khua chuông về sự trở về của nhà sư sau thời gian dài lưu vong: “Sư Thích Nhất Hạnh ca tụng chính sách mở cửa tôn giáo của CSVN”. Cho là có dấu hiệu cải thiện tự do tôn giáo tại Việt Nam. Mặc dù với những sự chống đối của Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do tôn giáo trên Thế giới và nhiều dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ. Nhưng Hoa Thịnh Đốn vẫn ban hành sắc lệnh bình thường hóa quan hệ thương mại với CSVN và dọn đường đưa CSVN gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.

Trong chuyến về đầu tiên năm 2005, sư Thích Nhất Hạnh cho rằng ông và tăng thân của ông “muốn thận trọng lắng nghe để tìm hiểu thực tại”. Mục tiêu của sư là tương tác với mọi phía trong thảo luận. Nhiều lúc, người ta cần ngồi xuống nhiều tháng nói chuyện với nhau”.

Nhưng với GHPGVNTN thì chẳng thấy cách nào hòa giải với một chế độ man rợ. Nỗ lực của GHPGVNTN đấu tranh cho nhân quyền chỉ là vấn đề giữ Năm giới cấm. Phật tử thuộc GHPGVNTN phát nguyện không sát sinh. Nhưng khi bạo quyền CSVN tùy tiện giết dân, thì người Phật tử phải chống đối sự đàn áp. Người Phật tử phát nguyện không nói dối, nhưng khi Hà Nội cấm đoán tự do ngôn luận, khóa miệng truyền thông, báo chí, bỏ tù ký giả nói lên sự thật, thì người Phật tử phải đấu tranh cho tự do ngôn luận, tự do báo chí”.

Sư Thích Nhất Hạnh tiếp tục các chuyến đi đại chúng tại Việt Nam, vào tháng 5.2008 được nhiều hàng tít lớn đăng tải nhưng ít khi nghe nói các câu chuyện đàn áp nhân quyền.

Phần GHPGVNTN thì vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh thăng tiến tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam, dù thừa biết những vận động này sẽ làm cho bạo quyền CSVN nổi điên. Ví dụ vào năm 1995, Hòa thượng Thích Quảng Độ bị kết án 5 năm tù vì tổ chức Phái đoàn GHPGVNTN đi cứu trợ nạn nhân lũ lụt. Bạo quyền CSVN không chính thức cho phép GHPGVNTN hoạt động, nhưng Giáo hội vẫn thiết lập các Ban Đại diện GHPGVNTN tại các tỉnh thành để theo đuổi việc cứu trợ nhân đạo, giáo dục, và thông tin trong các vùng nghèo khó. Mỗi lần có một Ban Đại diện thành lập, GHPGVNTN gửi thư thông báo đến cđịa phương. Đáp lại bạo quyền CSVN trục xuất chư Tăng ra khỏi chùa và sách nhiễu Phật tử địa phương cũng như các thành viên trong Ban Đại diện, đe dọa làm mất công ăn việc làm và tổ chức những cuộc đấu tố công cộng theo kiểu Xô viết. Các Ban Đại diện GHPGVNTN tại các địa phương hoạt động như khung sườn theo hình thái một xã hội dân sự, như phương cách chuyển tải các yêu sách của quần chúng nhằm mở rộng tự do và nhân quyền.

Mặc bao áp lực từ bạo quyền CSVN, GHPGVNTN đã cung ứng sự cứu trợ cho nạn nhận lũ lụt, hậu thuẫn nông dân bị cướp đất, và thông tri cho quần chúng hiểu rõ các quyền của họ thông qua những bản dịch Việt ngữ các công ước quốc tế. Hòa thượng Thích Quảng Độ hiện đương khởi sự thực hiện sáng kiến cho vay vốn nhỏ không lời, hầu giúp đỡ Phật tử và quần chúng các giới thiếu hụt tài chánh vì lý do dấn thân của họ. Chẳng nghi ngờ gì nữa, bạo quyền CSVN liên tục đàn áp GHPGVNTN và tự do tôn giáo, vì bạo quyền thấy rõ sự đe dọa của khối quần chúng sáng suốt sẽ đặt ra vấn nạn cho chế độ độc tài. Việt Nam cũng như tại các quốc gia độc tài toàn trị khác, chẳng có con đường nào dễ dãi để đòi hỏi nhân quyền mà không bi lụy tới bản thân hay gia đình và không bị đàn áp. Tuy nhiên, sự dấn thân của mỗi Phật tử để thực hiện Chánh ngữ là điều không thể uốn lưng hòng sống yên thân. Phật tử nào có đức tin là phải sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả”.

Tạp chí Tricycle

Ingen kommentarer: