Thành Tích Bán Nước Của Đảng CSVN.
Trong dòng sông Việt sử cận đại, ta thấy có rất nhiều mốc thời gian quan trọng, phần lớn đều có liên quan tới Đảng Việt Cộng. Đầu tiên là năm 1930 ngày đảng được mẹ Liên xô sinh ra và trôi giạt tới xứ Việt. Năm 1945, đảng lượm được chính quyền bên vệ đường, khi quân phiệt Nhật bị ăn bom nguyên tử, phải tháo chạy khỏi Đông Dương. Năm 1954, nhờ các đồng chí Nga-Tàu và khối thứ ba trung lập nhưng bợ đít cọng sản, nên Hồ cướp được nửa mảnh cơ đồ Hồng Lạc. Ngày 30-4-1975, Việt Cộng đại công cáo thành, làm chủ cả nước, cho tới hôm nay. Tuy nhiên, nếu gọi là biến cố lịch sử bao đời, thì phải nhắc tới hiểm họa xâm lăng Trung Cộng, luôn muốn chiếm cho được Việt Nam, ròng rã liên tục suốt mấy ngàn năm máu lệ. Tóm lại những thành tích của Hồ và Đảng Việt Cộng, khởi sự từ năm 1958, công nhận Hoàng Sa-Trường Sa là lãnh thổ của Tàu nhưng chết người là sự Phạm văn Đồng, thay Hồ Chí Minh, ngày 4-9-1958, ký công nhận bản đồ và lời tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng là 12 hải lý. Như vậy, biển VN tại Quảng Nam, Phan Thiết, kể cả các nước Phi, Nam Dương, Mã Lai trong Đông Hải, từ bờ ra hải phận chỉ có 50 hải lý. Ngày 11-1-1974 Mao Trạch Đông tuyên bố, Hoàng Sa –Trường Sa là Tây Sa và Nam Sa, sau đó xua quân chiếm hai đảo trên vào ngày 19-1-1974. Hỡi ôi, chỉ vì manh tâm cướp chiếm miền Nam, Hồ Chí Minh và VC đã bán đứng hai quần đảo thiêng liêng của đất nước, cho kẻ thù truyền kiếp, tận tuyệt.
Rồi tháng 12/1999 và kế tiếp là tháng 12/2000, hết Đổ Mười, tới Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Nguyễn Mạnh Cầm và nhiều chóp bu khác trong đảng, đã bí mật sang Tàu, ký kết bán-nhượng cũng như dâng hiến cho giâc , nhiều đất đai dọc theo biên giới Việt Trung, trong đó có thác Bản Dốc, hang Pắc Pó và nhất là ải Nam Quan, một biểu tượng , được xem như hồn thiêng sông núi của dân tộc. Kế đó, VC lại tiếp tục bán nhượng cho Tàu, nhiều phần lãnh hải quan trọng trong Vịnh Bắc Phần, là nơi có tiềm năng dầu khí và ngư nghiệp rất lớn, của nước ta.
Không kể thời Bắc thuộc huyền hoặc, bao đời Việt Nam trong dòng lịch sử, khi mất nước cũng như hồi độc lập, ngoại trừ trường hợp bán nước duy nhất của Mạc Đăng Dung, cho nhà Minh vào năm 1540, không có một vua chúa nào, dám công khai đem một tấc đất biển, dâng bán cho giặc như Hồ Chí Minh và đảng VC dám làm..suốt thời kỳ 1930 cho tới ngày nay. Vậy mà lúc nào, cũng nói Trần Thiểm Bình, Hồ Hán Thương, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh..cõng rắn cắn gà nhà. Nhưng nay, sau ba mươi năm nhìn lại, chỉ riêng thành tích bán nước cho giặc, thì Hồ Chí Minh và đảng VC, còn tệ mạt gấp ngàn lần những nhân vật bị đời bêu rếu. Sau ngày 30-4-1975, thiên hạ khi nhắc tới cọng sản, đả quả quyết là chúng sẽ nghìn năm vĩnh tuyệt nhưng tới năm 2000, cả khối từ Liên Xô, Đông Đức, Đông Âu..lăn đùng ngáp chết, chỉ còn bốn đảng Tàu, Việt, Bắc Hàn và Cu Ba phải quăng Lê-Mác-Mao-Hồ vào đáy huyệt, trải thảm đỏ, quỳ gối mở cửa, rước Mỹ và tư bản da trắng, da vàng, đem đô la vào cứu đảng. Tóm lại, ai nói hay nghĩ thế nào cũng được nhưng chắc chắc với một chánh quyền tham tàn, bạo ngược, hại dân và nhất là công khai bán nước, nên dù VC có được Trung Cộng hay Hoa Kỳ chống lưng, bảo vệ..thì sự sụp đổ của chế độ thối nát trên, nay đang sơn son thiếp vàng để bịp người, cũng chỉ là một lâu đài trên cát, chờ giờ đền tội, trước quốc dân và Tòa Án lịch sử muôn đời.
Từ sau ngày 30-4-1975 chiếm được cả nước VN, đảng VC lúc nào cũng rêu rao khoắc lác về độc lập tự do, vẹn toàn lãnh thổ. Thế nhưng mọi sự đã lộ nguyên hình, khi thành tích bán nước cho Tàu, phản bội quê hương bị toàn dân trong và ngoài nước phanh phui nguyền rủa. Nhờ đó, mà những cái loa Việt Gian bợ đít VC , từ bấy lâu nay tại hải ngoại, mới chịu khép miệng, vì không còn biết đâu mà mò.
Theo đó, ta biết trong năm 1999 và 2000, bọn chóp bu đảng gồm Đổ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm và toàn lũ trong Chính trị Bộ, đã lén lút, ký kết 2 Hiệp Ước bất bình thường, vô lý, phản bội dân tộc, trong sự Bán Đất Biên giới và Bán Vịnh Bắc Phần, cho giặc Tàu. Cũng may, thành tích trên sớm bị bật mí, còn không hậu quả biết đâu mà lường, vì VC chuyện gì cũng dám làm, miễn là bảo vệ được chiếc ngai vàng đẫm máu, để còn dịp vơ vét tài sản của đất nước và đồng bào.
Trước năm 1975, lúc nào CSVN cũng nói VNCH tham nhũng, độc tài, Diệm-Nhu, Thiệu –Kỳ chạy theo Mỹ, nay rõ ràng hơn chính đảng VC và Hồ Chí Minh, mới đích thực sự là đầy tớ, hết Nga tới Tàu, nay sắp bỏ chân qua Mỹ-Nhật. Còn Cán bộ đảng thì tham nhũng, hốt trọn tài sản của dân nước, chuyển hết ra nước ngoài, rửa tiền , đầu tư, làm giàu và hưởng thụ, ai chết mặc bây. Đó chính là thành tích bán nước của Đảng VC hơn ba mươi ba năm quốc hận.
Hồ Ðinh
søndag 22. februar 2009
“Chiến Dịch 30 Tháng Tư Ðen 2009”.
Khi tôi được đọc bài “Tháng Tư Đen 2009”, nội dung bài viết, tha thiết kêu gọi đồng bào, vào tháng Tư hằng năm “không gửi tiền hoặc sẽ không về thăm Việt Nam” vào tháng Tư, tôi thấy điều ấy hợp lý, vì lẽ:
- Phản đối như vậy rất nhẹ nhàng, chúng ta không mất mát gì cả, đồng bào ta không bị hung hiểm, quê hương ta không bị thiệt thòi. Nhưng chính quyền Hà Nội hiện hữu trong tháng ấy thất thu nhiều trăm triệu đô la, chắc chắn họ sẽ tự hỏi vì sao? Rồi chính họ tự trả lời: Vì tham nhũng, vì độc tài, vì dâng đất hiến đảo, vì trù dập tôn giáo và các nhà dân chủ... Nên đồng bào hải ngoại cảnh cáo. Từ đấy họ sẽ ăn năn phần nào đi chăng?
- Phản đối bạo quyền Cộng sản Việt Nam, để họ biết rằng dẫu có ru ngủ “Khúc ruột xa nghìn dặm”, cũng không làm cho người Việt ở hải ngoại, dễ dàng nghe theo lời dụ dỗ ngọt ngào, mới ngày nào giết hại người vượt biên, những lời lẽ ấy chẳng qua cần tiền và cần chất xám để củng cố chế độ : Độc đảng, độc tài, độc ác.
- Phản đối việc công an ngăn ngừa hay bắt bớ sinh viên, học sinh và đồng bào đã biểu tình vì lòng thiết tha bảo vệ thổ cương, bị Bắc Phương dùng quyền lực lấn chiếm.
- Để bạo quyền Hà nội hiểu rằng, mỗi năm người Việt Hải ngoại gửi tiền về nước khoảng 8 tỉ đô la, không phải là ít, người Việt gửi tiền về nước, vì lòng vương vấn, thân thuộc giống nòi, nhưng không chấp nhận bất cứ chế độ nào hại dân, bán nước.
- Để cho nhân dân thế giới hiểu rằng, đồng bào Việt Nam ở hải ngoại, vì lòng yêu nước khó tha thứ chính quyền Hà Nội hiện hữu, đã, đang và sẽ dâng đất, hiến đảo, trù dập các nhà đấu tranh dân chủ, bắt bớ giam cầm những vị Hòa thượng, những Đức Cha một cách mù quán và hành hạ ác độc.
Chẳng những cá nhân tôi hưởng ứng, mà tôi còn E mail và điện thoại đến bà con và bạn bè, mong mỏi tiếp tay, ngoài ra với truyền thống “Chicago nói riêng và Illinois nói chung hằng năm ăn tết đúng ngày”, vào ngày mùng một tết Kỷ sửu, tôi sẽ xin phép, để tường trình với đông đảo bà con, xin hưởng ứng “chiến dịch 30 tháng Tư đen 2009”.
Tôi cũng mạo muội trân trọng đề nghị: Báo chí, truyền thanh, truyền hình của người Việt Quốc gia hải ngoại, xin vui lòng phổ biến tin tức này, vì đây là một trong những chiến dịch chống Cộng nhẹ nhàng nhưng hiệu quả. Thứ đến tôi xin mong mỏi quí vị hoặc đoàn thể Quốc gia hải ngoại, xin phổ biến “chiến dịch 30 tháng Tư đen 2009”, để bà con ở hải ngoại cùng được biết, hy vọng sẽ được đông đảo đồng bào hưởng ứng.
Chắc hẳn những người lớn tuổi, mong mỏi và hân hoan hưởng ứng chiến dịch “Tháng Tư Đen 2009”, vì biết quá rõ ràng Cộng sản Việt Nam là thế nào. Nhưng những người trẻ tuổi thì sao? Xin thưa, các vị Bác sĩ, Tiến sĩ, Nghị viên... có lẽ hiểu được, có đời sống sáng lạng hay danh vọng ở hải ngoại hôm nay, là do cha ông nhẫn nhục từ trại tù tối tăm của thiên đường Cộng sản. Từ sự liễu lĩnh thân thể nơi bể Đông, biết bao hung hiểm. Từ sự vượt biên nhục nhằn bằng đường bộ, mà đôi chân xơ xác, rã rời nơi rừng rú rậm rạp, trả giá bằng chết chóc, mới đến được bến bờ tự do. Từ những nhục nhằn dẫn dắt con cháu đến bến bờ tự do, mà ngày nay người tuổi trẻ có dịp mài miệt học hành, để trở thành các vị Bác sĩ, Tiến sĩ, Nghị viên... trẻ trung ở nơi xứ sở tự do ngày hôm nay.
Tôi cũng xin thưa thêm rằng, những người bị hay được gán ghép là “Ngụy quân, Ngụy quyền” đa số chỉ một lòng thiết tha bảo vệ Miền Nam tự do, không than thở hay trách móc những người cha ông. Những người “Ngụy quân, Ngụy quyền” ấy, đa số đã đem hết lòng nhiệt huyết noi gương trung trinh của tiền nhân, xả thân vì quốc gia dân tộc. Từ những tâm tình này, hy vọng tuổi trẻ thấy được và hiểu được điều đúng đắn, cần làm và nên làm, là sẽ luôn luôn gắn bó với nước Việt, với đồng bào và thân thương quê hương.
Nguyễn Lộc Yên
- Phản đối như vậy rất nhẹ nhàng, chúng ta không mất mát gì cả, đồng bào ta không bị hung hiểm, quê hương ta không bị thiệt thòi. Nhưng chính quyền Hà Nội hiện hữu trong tháng ấy thất thu nhiều trăm triệu đô la, chắc chắn họ sẽ tự hỏi vì sao? Rồi chính họ tự trả lời: Vì tham nhũng, vì độc tài, vì dâng đất hiến đảo, vì trù dập tôn giáo và các nhà dân chủ... Nên đồng bào hải ngoại cảnh cáo. Từ đấy họ sẽ ăn năn phần nào đi chăng?
- Phản đối bạo quyền Cộng sản Việt Nam, để họ biết rằng dẫu có ru ngủ “Khúc ruột xa nghìn dặm”, cũng không làm cho người Việt ở hải ngoại, dễ dàng nghe theo lời dụ dỗ ngọt ngào, mới ngày nào giết hại người vượt biên, những lời lẽ ấy chẳng qua cần tiền và cần chất xám để củng cố chế độ : Độc đảng, độc tài, độc ác.
- Phản đối việc công an ngăn ngừa hay bắt bớ sinh viên, học sinh và đồng bào đã biểu tình vì lòng thiết tha bảo vệ thổ cương, bị Bắc Phương dùng quyền lực lấn chiếm.
- Để bạo quyền Hà nội hiểu rằng, mỗi năm người Việt Hải ngoại gửi tiền về nước khoảng 8 tỉ đô la, không phải là ít, người Việt gửi tiền về nước, vì lòng vương vấn, thân thuộc giống nòi, nhưng không chấp nhận bất cứ chế độ nào hại dân, bán nước.
- Để cho nhân dân thế giới hiểu rằng, đồng bào Việt Nam ở hải ngoại, vì lòng yêu nước khó tha thứ chính quyền Hà Nội hiện hữu, đã, đang và sẽ dâng đất, hiến đảo, trù dập các nhà đấu tranh dân chủ, bắt bớ giam cầm những vị Hòa thượng, những Đức Cha một cách mù quán và hành hạ ác độc.
Chẳng những cá nhân tôi hưởng ứng, mà tôi còn E mail và điện thoại đến bà con và bạn bè, mong mỏi tiếp tay, ngoài ra với truyền thống “Chicago nói riêng và Illinois nói chung hằng năm ăn tết đúng ngày”, vào ngày mùng một tết Kỷ sửu, tôi sẽ xin phép, để tường trình với đông đảo bà con, xin hưởng ứng “chiến dịch 30 tháng Tư đen 2009”.
Tôi cũng mạo muội trân trọng đề nghị: Báo chí, truyền thanh, truyền hình của người Việt Quốc gia hải ngoại, xin vui lòng phổ biến tin tức này, vì đây là một trong những chiến dịch chống Cộng nhẹ nhàng nhưng hiệu quả. Thứ đến tôi xin mong mỏi quí vị hoặc đoàn thể Quốc gia hải ngoại, xin phổ biến “chiến dịch 30 tháng Tư đen 2009”, để bà con ở hải ngoại cùng được biết, hy vọng sẽ được đông đảo đồng bào hưởng ứng.
Chắc hẳn những người lớn tuổi, mong mỏi và hân hoan hưởng ứng chiến dịch “Tháng Tư Đen 2009”, vì biết quá rõ ràng Cộng sản Việt Nam là thế nào. Nhưng những người trẻ tuổi thì sao? Xin thưa, các vị Bác sĩ, Tiến sĩ, Nghị viên... có lẽ hiểu được, có đời sống sáng lạng hay danh vọng ở hải ngoại hôm nay, là do cha ông nhẫn nhục từ trại tù tối tăm của thiên đường Cộng sản. Từ sự liễu lĩnh thân thể nơi bể Đông, biết bao hung hiểm. Từ sự vượt biên nhục nhằn bằng đường bộ, mà đôi chân xơ xác, rã rời nơi rừng rú rậm rạp, trả giá bằng chết chóc, mới đến được bến bờ tự do. Từ những nhục nhằn dẫn dắt con cháu đến bến bờ tự do, mà ngày nay người tuổi trẻ có dịp mài miệt học hành, để trở thành các vị Bác sĩ, Tiến sĩ, Nghị viên... trẻ trung ở nơi xứ sở tự do ngày hôm nay.
Tôi cũng xin thưa thêm rằng, những người bị hay được gán ghép là “Ngụy quân, Ngụy quyền” đa số chỉ một lòng thiết tha bảo vệ Miền Nam tự do, không than thở hay trách móc những người cha ông. Những người “Ngụy quân, Ngụy quyền” ấy, đa số đã đem hết lòng nhiệt huyết noi gương trung trinh của tiền nhân, xả thân vì quốc gia dân tộc. Từ những tâm tình này, hy vọng tuổi trẻ thấy được và hiểu được điều đúng đắn, cần làm và nên làm, là sẽ luôn luôn gắn bó với nước Việt, với đồng bào và thân thương quê hương.
Nguyễn Lộc Yên
Tháng Tư Đen 2009
Tháng Tư Đen 2009
Tháng Tư người Việt, tái tê lòng
Từ đấy tự do khắc khoải mong
Việt cộng liên miên dâng đất đảo
Đồng bào vĩnh viễn giữ non sông!
Nhục nhằn vượt biển khó lo lường
Tơi tả rừng sâu, lắm đoạn trường!
Cảnh ấy, hãi hùng bao chết chóc?!
Nơi này, mong mỏi giữ thiên lương?!
Hỡi giống nòi! Cương thổ bảo tồn!
Hoàng Sa đảo ấy củagiang sơn!
Kìa người bán nước, người nhu nhược?!
Đâu kẻ thương dân, kẻ sắt son?!
Việt Nam thiếu nữ mặn mà trông
Trao đổi tiền nong, nói lấy chồng!
Hàn quốc, Em than đời bạc bẽo!
Đài Loan, Nàng khóc phận long đong!!!
Ngẫm nghĩ tháng Tư quá xót xa
Nỡ quên, thảm thiết khắp sơn hà?!
Gởi tiền ngày ấy, thêm chua chát
Thăm nước tháng này, khó mặn mà
Nguyễn Lộc Yên
Tháng Tư người Việt, tái tê lòng
Từ đấy tự do khắc khoải mong
Việt cộng liên miên dâng đất đảo
Đồng bào vĩnh viễn giữ non sông!
Nhục nhằn vượt biển khó lo lường
Tơi tả rừng sâu, lắm đoạn trường!
Cảnh ấy, hãi hùng bao chết chóc?!
Nơi này, mong mỏi giữ thiên lương?!
Hỡi giống nòi! Cương thổ bảo tồn!
Hoàng Sa đảo ấy củagiang sơn!
Kìa người bán nước, người nhu nhược?!
Đâu kẻ thương dân, kẻ sắt son?!
Việt Nam thiếu nữ mặn mà trông
Trao đổi tiền nong, nói lấy chồng!
Hàn quốc, Em than đời bạc bẽo!
Đài Loan, Nàng khóc phận long đong!!!
Ngẫm nghĩ tháng Tư quá xót xa
Nỡ quên, thảm thiết khắp sơn hà?!
Gởi tiền ngày ấy, thêm chua chát
Thăm nước tháng này, khó mặn mà
Nguyễn Lộc Yên
lørdag 21. februar 2009
Ủng Hộ Chiến Dịch Tháng Tư Đen 2009
Ủng Hộ Chiến Dịch Tháng Tư Đen 2009.
Lời Kêu Gọi Ủng Hộ Chiến Dịch Tháng Tư Ðen 2009
Không về Việt Nam, không gởi tiền vào dịp Tháng Tư Ðen
của Diễn Ðàn Người Việt Yêu Nước Yêu Tự Do:
Diễn Ðàn Người Việt Yêu Nước Yêu Tự Do xin kêu gọi sự đồng tâm nhất trí, của tất cả mọi người Việt khắp nơi trên thế giới quyết tâm, tẩy chay, và nhất quyết không về Việt Nam hay là gởi tiền trong Tháng 4 Ðen 2009. Tuyệt đối dứt khoát không làm một việc gì để gián tiếp hay trực tiếp tiếp tay cho bè lũ quĩ đỏ CSVN vinh thân buôn dân, bán nước.
Kính thưa toàn thể quý đồng hương.
• Để tưởng niệm vong linh hàng trăm ngàn đồng bào bị vùi thây trên biển cả và trong rừng sâu trên bước đường đi tìm tự do.
• Để cảm thông với nổi đau xót nhục nhằn của bao nhiêu phụ nữ bị hãm hiếp bởi hải tặc trên đường lánh nạn cộng sản.
• Để lên án bạo quyền cộng sản đang tâm phá vỡ các đài tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam đã bỏ mình ở Mã Lai, Nam Dương.
• Để chống lại tập đoàn cộng sản đang dày xéo quê hương, với bao nhiêu tội lỗi tày trời áp đặt lên người dân Việt trong nhiều năm qua, kể cả tội phản quốc dâng đất và biển cho Trung Cộng.
Diễn Ðàn Người Việt Yêu Nước Yêu Tự Do tha thiết kêu gọi quý đồng hương cùng hưởng ứng và ủng hộ Chiến Dịch Tháng Tư Ðen 2009 đang được phát động khắp nơi trên toàn thế giới.
Sức mạnh của chúng ta hiện nay là 7 tỉ mỹ kim gửi về với số lượng Việt Kiều hằng năm về thăm nhà, vô hình chung đã đem lại nguồn lợi không nhỏ cho bạo quyền CSVN.
Thay vì lấy đó xây dựng đất nước, đảng CSVN chỉ tiếp tục củng cố ngôi vị và thẳng tay đàn áp nhân dân. Nếu chúng ta đồng loạt ý thức thực thi chiến dịch nầy thì đảng CSVN mất nguồn lợi, dù chỉ trong vòng một tháng. Ngoài ra đây cũng là thông điệp hồng gửi đến các nhà dân chủ đang đấu tranh trong nước cũng như đồng bào đang bị đàn áp tại quê nhà, chúng ta vẫn không quên đồng bào mình và vẫn sẵn sàng đấu tranh hổ trợ bằng mọi nỗ lực bất cứ hình thức nào.
Kính chào đoàn kết và quyết thắng trong niềm tin YÊU NƯỚC THƯƠNG DÂN.
Ban Ðiều Hành
Diễn Ðàn Người Việt Yêu Nước Yêu Tự Do
Lời Kêu Gọi Ủng Hộ Chiến Dịch Tháng Tư Ðen 2009
Không về Việt Nam, không gởi tiền vào dịp Tháng Tư Ðen
của Diễn Ðàn Người Việt Yêu Nước Yêu Tự Do:
Diễn Ðàn Người Việt Yêu Nước Yêu Tự Do xin kêu gọi sự đồng tâm nhất trí, của tất cả mọi người Việt khắp nơi trên thế giới quyết tâm, tẩy chay, và nhất quyết không về Việt Nam hay là gởi tiền trong Tháng 4 Ðen 2009. Tuyệt đối dứt khoát không làm một việc gì để gián tiếp hay trực tiếp tiếp tay cho bè lũ quĩ đỏ CSVN vinh thân buôn dân, bán nước.
Kính thưa toàn thể quý đồng hương.
• Để tưởng niệm vong linh hàng trăm ngàn đồng bào bị vùi thây trên biển cả và trong rừng sâu trên bước đường đi tìm tự do.
• Để cảm thông với nổi đau xót nhục nhằn của bao nhiêu phụ nữ bị hãm hiếp bởi hải tặc trên đường lánh nạn cộng sản.
• Để lên án bạo quyền cộng sản đang tâm phá vỡ các đài tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam đã bỏ mình ở Mã Lai, Nam Dương.
• Để chống lại tập đoàn cộng sản đang dày xéo quê hương, với bao nhiêu tội lỗi tày trời áp đặt lên người dân Việt trong nhiều năm qua, kể cả tội phản quốc dâng đất và biển cho Trung Cộng.
Diễn Ðàn Người Việt Yêu Nước Yêu Tự Do tha thiết kêu gọi quý đồng hương cùng hưởng ứng và ủng hộ Chiến Dịch Tháng Tư Ðen 2009 đang được phát động khắp nơi trên toàn thế giới.
Sức mạnh của chúng ta hiện nay là 7 tỉ mỹ kim gửi về với số lượng Việt Kiều hằng năm về thăm nhà, vô hình chung đã đem lại nguồn lợi không nhỏ cho bạo quyền CSVN.
Thay vì lấy đó xây dựng đất nước, đảng CSVN chỉ tiếp tục củng cố ngôi vị và thẳng tay đàn áp nhân dân. Nếu chúng ta đồng loạt ý thức thực thi chiến dịch nầy thì đảng CSVN mất nguồn lợi, dù chỉ trong vòng một tháng. Ngoài ra đây cũng là thông điệp hồng gửi đến các nhà dân chủ đang đấu tranh trong nước cũng như đồng bào đang bị đàn áp tại quê nhà, chúng ta vẫn không quên đồng bào mình và vẫn sẵn sàng đấu tranh hổ trợ bằng mọi nỗ lực bất cứ hình thức nào.
Kính chào đoàn kết và quyết thắng trong niềm tin YÊU NƯỚC THƯƠNG DÂN.
Ban Ðiều Hành
Diễn Ðàn Người Việt Yêu Nước Yêu Tự Do
Thế Nào Là Hòa Giải - Hòa Giải
Thế Nào Là Hòa Giải - Hòa Giải
Đảng CSVN nghĩ rằng, với những xa hoa vật chất nơi xứ người, sẽ làm cho người Việt Tỵ Nạn CS say mê để quên đi tất cả, trở thành những kẻ vong bản, vô tình, vô nghĩa, vô thủy, vô chung như họ đã từng rêu rao. Tuy nhiên khi nhìn lại thực chất, Đảng CSVN mới bừng tỉnh để thấy được chính những hạnh phúc phồn vinh ấy, đã tạo cho người Việt Tỵ Nạn một sự trăn trở khi nhìn về quê hương và dân tộc đang ngụp lặn trong khốn cùng, đau khổ, nhục nhã dưới bàn tay khát máu, tàn bạo của tập đoàn đốn mạt CSVN. Từ đó, tinh thần quốc gia, yêu tự do, hoà bình và nhân bản được phát triển một cách mạnh mẽ hơn và tinh thần đấu tranh mỗi ngày một dâng cao, cố gắng bương trải tìm mọi cách để có thể chia sẻ những hạnh phúc ấy với quê hương dân tộc, đặc biệt là những điều căn bản tự do, dân chủ và nhân quyền. Điều này đã khiến Đảng CSVN trở nên bối rối và lo sợ, và cũng chính vì thế Đảng CSVN đã phải thay đổi “Tư Duy”, không còn chửi bới phỉ báng, mà ngược lại bắt đầu o bế, nịnh bợ và phát động chiến dịch kêu gọi “Hòa Giải” hay khút ruột xa ngàn dặm.
Sau nhiều năm kêu gọi bằng nhiều cách, như thành lập “Hội Việt Kiều; Qũy Yểm Trợ Cộng Đồng” và sau cùng Ðảng CSVN bịp bợm bằng Nghị Quyết 36 đã được đưa ra vào cuối tháng 3năm 2003, mà đại đa số Cộng Đồng Hải Ngoại ai cũng biết. Mặc dù đã cố gắng dùng mọi thủ đoạn bịp bợm trong nhiều năm, nhưng chiêu bài “Hòa Giải” này Ðảng CSVN cũng không được “ăn khách”, tưởng chừng như đã bị trôi vào lãng quên.
Sau khi phát động “Chiến Dịch Chống Tầu Cộng” qua sự kiện Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa chiêu bài “Hoà Giải” bịp bợm này lại tái xuất hiện qua một bài viết mang tên “Hoà giải là sống còn của đất nước, là nhu cầu khẩn trương” được ký dưới bút hiệu Nguyễn Tường Long. Theo bài viết, tác giả cố gắng kêu gọi khối người Việt Tỵ Nạn CS tại Hải Ngoại nên “khép lại qúa khứ, xóa bỏ hận thù” để bắt tay “Hòa Giải” với Đảng CSVN, tạo sức mạnh cùng nhau “chống ngoại xâm”. Và bài viết này cũng đang tạo ra một làn sóng tranh cãi trong dư luận, nhất là trên các diễn đàn điện tử. Nó tựa như một trái khói mù tung ra, mong đánh lạc hương đấu tranh trong cục diện hiện tại.
Ngược dòng lịch sử đất nước, với “Một ngàn năm đô hộ bởi giặc Tầu và một trăm năm nộ lệ bởi giặc Tây”, Hoàng Sa, Bản Giốc, Nam Quan vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng chỉ hơn ba mươi năm được gọi là Thống Nhất, Độc Lập dưới chế độ đốn mạt, phi nhân của Ðảng CSVN thì tất cả đã mất. Vậy thử hỏi bọn CSVN là giống gì, mà đần độn, hèn hạ đến nỗi, làm mất cả đất đai của Tổ Tiên. Hơn nữa, đất nước hiện tại cũng đã trở thành một "Nhà Tù Vĩ Đại" không cửa sổ. Tất cả những lọc lừa, khủng bố, đàn áp, bóc lột, không chừa một ai, từ những nhà bất đồng chính kiến, những vị lãnh đạo tôn giáo và thậm chí những phụ nữ tay yếu chân mềm, những em bé ngây thơ cũng không thoát khỏi bị đem bán làm nô lệ tình dục dưới mọi hình thức. Ngay cả những nơi ăn, chốn ở, thậm chí đến cả nải chuối buồng cau, con gà, con vịt, là những tư hữu tối thiểu của người dân, nhưng bây giờ tất cả những thứ đó, có thực sự còn là của họ hay không, hay tất cả đã thuộc về Đảng CSVN ? Như vậy sự đấu tranh của người dân Việt nói chung và Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn nói riêng trong hiện tại, chắc chắn không phải thuần túy phát xuất từ một quá khứ hận thù, mà nó được kết tinh từ những khốn cùng của đất nước, đau thương của dân tộc trong quá khứ cũng như hiện tại từ hơn nửa thế kỷ qua.
Người dân cả Ba Miền (Bắc Trung Nam), đã bỏ nước ra đi bằng những con đường khốn khổ, đau thương nhất, không phải thuần túy đi tìm miếng cơm, manh áo cá nhân, hay vì sợ sự trả thu` chế độ CS, hoặc vì sự hận thù của một thời quá khứ như Ðảng CSVN đã gán ghép, mà tất cả chỉ vì họ quá kinh tởm cái chế độ khát máu, phi nhân, được cai trị bởi một bọn thú đội lốt người. Do đó, nhớ hay quên quá khứ không phải là điểm then chốt của vấn đề, mà chính là cái đốn mạt, dã man, cuồng bạo của guồng máy cai trị CSVN. Người ta thường nói "kẻ nào cột, thì người ấy phải gỡ". Vì vậy, muốn xóa bỏ hận thù, khép lại quá khứ để “Hoà Giải”, chắc chắn phải thiêu hủy cái cơ chế đã gây ra hận thù, tạo ra những đau thương cho dân tộc và điếm nhục cho quê hương mới là điểm then chốt.
Trở lại vấn đề, ai hoà giải với ai, thực sự Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn tại Hải Ngoại và Đồng Bào Ruột Thịt trong nước chưa bao giờ bất hoà, nên không cần thiết phải nhắc đến hai chữ "Hoà Giải", những bương trải đấu tranh của họ không ngoài mục đích đi tìm tự do, hạnh phúc cho toàn dân, không phải để đòi lại những tài sản hay thân xác của từng cá nhân đã bị CSVN cưỡng đoạt. Do đó, nói đến một sự “Hoà Giải” đúng nghĩa và hợp lý, thì chính CSVN là kẻ gây ra đau thương, hận thù, nhục nhã cho Quê Hương và Dân Tộc, tất nhiên phải biết ăn năn, hối cải để hoà giải với với toàn dân. CSVN phải thật lòng, đừng mỵ dân thêm nữa, hãy cúi đầu xám hối, chế độ phải thay đổi toàn bộ, phải vất bỏ cái Lý Thuyết CS không tưởng, đốn mạt phi nhân bản CS vào thùng rác lịch sử như các nước CS Đông Âu đã thực hiện.
Ngoài ra, CSVN phải thể hiện thiện chí bằng một xã hội tự do dân chủ đúng đắn, phóng thích ngay những nhà đấu tranh dân chủ, các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo đang bị quản chế hay giam cầm, phải lắng nghe tất cả những tiếng nói lương tri từ mọi tầng lớp xã hội một cách chân thành bằng tự do thông tin và tự do ngôn luận, trả lại quyền tự quyết của dân tộc mà CSVN đã từng cưỡng chiếm. Nếu thực hiện được như vậy, chắc chắn người dân sẽ không hẹp hòi gì để nhắc lại quá khứ. Họ sẵn sàng khép lại tất cả những hận thù đau khổ, để cùng nhau bắt tay xây dựng lại non sông sau bao nhiêu năm khốn khổ, băng hoại do CSVN gây ra.
Thiết nghĩ có lẽ giờ đây cũng không còn ai có thể ngây ngô, lầm lẫn với chiêu bài “Hoà Giải” của CSVN nữa, và nếu bất cứ ai đòi hỏi mộ sự hoà giải mà không đi kèm những điều kiện nêu trên, thì đó chỉ là một sự cưỡng từ đoạt lý lừa bịp, nếu không phải là CS chính gốc thì cũng là những “con vẹt” tay sai đang giúp CSVN trong mưu đồ xích hoá Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn hầu củng cố cho chế độ phi nhân CSVN thêm vững chắc để tiếp tục buôn dân, bán nước, phá hoại Giang Sơn.
Phạm Thanh Phương
Đảng CSVN nghĩ rằng, với những xa hoa vật chất nơi xứ người, sẽ làm cho người Việt Tỵ Nạn CS say mê để quên đi tất cả, trở thành những kẻ vong bản, vô tình, vô nghĩa, vô thủy, vô chung như họ đã từng rêu rao. Tuy nhiên khi nhìn lại thực chất, Đảng CSVN mới bừng tỉnh để thấy được chính những hạnh phúc phồn vinh ấy, đã tạo cho người Việt Tỵ Nạn một sự trăn trở khi nhìn về quê hương và dân tộc đang ngụp lặn trong khốn cùng, đau khổ, nhục nhã dưới bàn tay khát máu, tàn bạo của tập đoàn đốn mạt CSVN. Từ đó, tinh thần quốc gia, yêu tự do, hoà bình và nhân bản được phát triển một cách mạnh mẽ hơn và tinh thần đấu tranh mỗi ngày một dâng cao, cố gắng bương trải tìm mọi cách để có thể chia sẻ những hạnh phúc ấy với quê hương dân tộc, đặc biệt là những điều căn bản tự do, dân chủ và nhân quyền. Điều này đã khiến Đảng CSVN trở nên bối rối và lo sợ, và cũng chính vì thế Đảng CSVN đã phải thay đổi “Tư Duy”, không còn chửi bới phỉ báng, mà ngược lại bắt đầu o bế, nịnh bợ và phát động chiến dịch kêu gọi “Hòa Giải” hay khút ruột xa ngàn dặm.
Sau nhiều năm kêu gọi bằng nhiều cách, như thành lập “Hội Việt Kiều; Qũy Yểm Trợ Cộng Đồng” và sau cùng Ðảng CSVN bịp bợm bằng Nghị Quyết 36 đã được đưa ra vào cuối tháng 3năm 2003, mà đại đa số Cộng Đồng Hải Ngoại ai cũng biết. Mặc dù đã cố gắng dùng mọi thủ đoạn bịp bợm trong nhiều năm, nhưng chiêu bài “Hòa Giải” này Ðảng CSVN cũng không được “ăn khách”, tưởng chừng như đã bị trôi vào lãng quên.
Sau khi phát động “Chiến Dịch Chống Tầu Cộng” qua sự kiện Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa chiêu bài “Hoà Giải” bịp bợm này lại tái xuất hiện qua một bài viết mang tên “Hoà giải là sống còn của đất nước, là nhu cầu khẩn trương” được ký dưới bút hiệu Nguyễn Tường Long. Theo bài viết, tác giả cố gắng kêu gọi khối người Việt Tỵ Nạn CS tại Hải Ngoại nên “khép lại qúa khứ, xóa bỏ hận thù” để bắt tay “Hòa Giải” với Đảng CSVN, tạo sức mạnh cùng nhau “chống ngoại xâm”. Và bài viết này cũng đang tạo ra một làn sóng tranh cãi trong dư luận, nhất là trên các diễn đàn điện tử. Nó tựa như một trái khói mù tung ra, mong đánh lạc hương đấu tranh trong cục diện hiện tại.
Ngược dòng lịch sử đất nước, với “Một ngàn năm đô hộ bởi giặc Tầu và một trăm năm nộ lệ bởi giặc Tây”, Hoàng Sa, Bản Giốc, Nam Quan vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng chỉ hơn ba mươi năm được gọi là Thống Nhất, Độc Lập dưới chế độ đốn mạt, phi nhân của Ðảng CSVN thì tất cả đã mất. Vậy thử hỏi bọn CSVN là giống gì, mà đần độn, hèn hạ đến nỗi, làm mất cả đất đai của Tổ Tiên. Hơn nữa, đất nước hiện tại cũng đã trở thành một "Nhà Tù Vĩ Đại" không cửa sổ. Tất cả những lọc lừa, khủng bố, đàn áp, bóc lột, không chừa một ai, từ những nhà bất đồng chính kiến, những vị lãnh đạo tôn giáo và thậm chí những phụ nữ tay yếu chân mềm, những em bé ngây thơ cũng không thoát khỏi bị đem bán làm nô lệ tình dục dưới mọi hình thức. Ngay cả những nơi ăn, chốn ở, thậm chí đến cả nải chuối buồng cau, con gà, con vịt, là những tư hữu tối thiểu của người dân, nhưng bây giờ tất cả những thứ đó, có thực sự còn là của họ hay không, hay tất cả đã thuộc về Đảng CSVN ? Như vậy sự đấu tranh của người dân Việt nói chung và Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn nói riêng trong hiện tại, chắc chắn không phải thuần túy phát xuất từ một quá khứ hận thù, mà nó được kết tinh từ những khốn cùng của đất nước, đau thương của dân tộc trong quá khứ cũng như hiện tại từ hơn nửa thế kỷ qua.
Người dân cả Ba Miền (Bắc Trung Nam), đã bỏ nước ra đi bằng những con đường khốn khổ, đau thương nhất, không phải thuần túy đi tìm miếng cơm, manh áo cá nhân, hay vì sợ sự trả thu` chế độ CS, hoặc vì sự hận thù của một thời quá khứ như Ðảng CSVN đã gán ghép, mà tất cả chỉ vì họ quá kinh tởm cái chế độ khát máu, phi nhân, được cai trị bởi một bọn thú đội lốt người. Do đó, nhớ hay quên quá khứ không phải là điểm then chốt của vấn đề, mà chính là cái đốn mạt, dã man, cuồng bạo của guồng máy cai trị CSVN. Người ta thường nói "kẻ nào cột, thì người ấy phải gỡ". Vì vậy, muốn xóa bỏ hận thù, khép lại quá khứ để “Hoà Giải”, chắc chắn phải thiêu hủy cái cơ chế đã gây ra hận thù, tạo ra những đau thương cho dân tộc và điếm nhục cho quê hương mới là điểm then chốt.
Trở lại vấn đề, ai hoà giải với ai, thực sự Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn tại Hải Ngoại và Đồng Bào Ruột Thịt trong nước chưa bao giờ bất hoà, nên không cần thiết phải nhắc đến hai chữ "Hoà Giải", những bương trải đấu tranh của họ không ngoài mục đích đi tìm tự do, hạnh phúc cho toàn dân, không phải để đòi lại những tài sản hay thân xác của từng cá nhân đã bị CSVN cưỡng đoạt. Do đó, nói đến một sự “Hoà Giải” đúng nghĩa và hợp lý, thì chính CSVN là kẻ gây ra đau thương, hận thù, nhục nhã cho Quê Hương và Dân Tộc, tất nhiên phải biết ăn năn, hối cải để hoà giải với với toàn dân. CSVN phải thật lòng, đừng mỵ dân thêm nữa, hãy cúi đầu xám hối, chế độ phải thay đổi toàn bộ, phải vất bỏ cái Lý Thuyết CS không tưởng, đốn mạt phi nhân bản CS vào thùng rác lịch sử như các nước CS Đông Âu đã thực hiện.
Ngoài ra, CSVN phải thể hiện thiện chí bằng một xã hội tự do dân chủ đúng đắn, phóng thích ngay những nhà đấu tranh dân chủ, các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo đang bị quản chế hay giam cầm, phải lắng nghe tất cả những tiếng nói lương tri từ mọi tầng lớp xã hội một cách chân thành bằng tự do thông tin và tự do ngôn luận, trả lại quyền tự quyết của dân tộc mà CSVN đã từng cưỡng chiếm. Nếu thực hiện được như vậy, chắc chắn người dân sẽ không hẹp hòi gì để nhắc lại quá khứ. Họ sẵn sàng khép lại tất cả những hận thù đau khổ, để cùng nhau bắt tay xây dựng lại non sông sau bao nhiêu năm khốn khổ, băng hoại do CSVN gây ra.
Thiết nghĩ có lẽ giờ đây cũng không còn ai có thể ngây ngô, lầm lẫn với chiêu bài “Hoà Giải” của CSVN nữa, và nếu bất cứ ai đòi hỏi mộ sự hoà giải mà không đi kèm những điều kiện nêu trên, thì đó chỉ là một sự cưỡng từ đoạt lý lừa bịp, nếu không phải là CS chính gốc thì cũng là những “con vẹt” tay sai đang giúp CSVN trong mưu đồ xích hoá Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn hầu củng cố cho chế độ phi nhân CSVN thêm vững chắc để tiếp tục buôn dân, bán nước, phá hoại Giang Sơn.
Phạm Thanh Phương
torsdag 19. februar 2009
Những Mắc Xích Tiến Chiếm Việt Nam
Những Mắc Xích Tiến Chiếm Việt Nam
Chính sách đối với Việt Nam
Trung Cộng từ hơn 30 năm qua (không kể trong thời kỳ chiến tranh trước năm 1975), đã và đang chuyển mình tiến về Đông Nam Á. Và Việt Nam là một trong những thí điểm lớn để cho tư bản TC định cư cùng với những ảnh hưởng chính trị và quân sự để thực hiện mộng bá quyền nước lớn và thôn tính vùng Đông Nam Á cùng biển Đông.
Trước sự cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt, việc hạ giá thành phẩm là việc làm ưu tiên để có thể chiếm lĩnh thị trường thế giới. Đó là chính sách chung của mọi quốc gia. Do đó, Việt Nam là một mãnh đất béo bở cho tài phiệt TC đầu tư vì:
- Nhân công còn quá rẻ, ngay cả đối với nhân công TC vốn dĩ đã quá rẻ mạt;
- Chi phí cho việc bảo vệ môi trường không bị đòi hỏi gắt gao như ở TC hiện tại;
- Và quan trọng nhất là mọi thủ tục hành chánh và dịch vụ xuất nhập cảng đều được dễ dàng vì cung cách quản lý địa phương ở Việt Nam dễ bị mua chuộc.
Từ 3 yếu tố trên, CSVN đối với TC có thể được ví như là Mễ Tây Cơ với Hoa Kỳ
trong lãnh vực đầu tư và sản xuất.
Thêm một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho các nhà đầu tư TC di chuyển xuống Việt Nam là TC tìm thấy nơi đây một xứ sở giống như đất nước của họ, một đất nước đang chuyển mình từ từ và đang từ bỏ chủ thuyết cộng sản không tưởng để tiến tới một nền kinh tế thị trường tự do đầy hấp dẫn. Còn về tâm lý chung của hai dân tộc, có nhiều điểm tương đồng chính nhất là việc quan hệ kinh doanh dựa theo cách tiếp cận có tính cách cá nhân và thường sử dụng quyền lực áp đặt để lấn át pháp luật hầu mang lại mọi dễ dãi trong thủ tục hành chánh.
Hãy nghe Zou Qinghai, chủ tịch phòng Thương mãi Triết Giang tuyên bố:” Chúng tôi hiểu thông suốt rằng phải đưa tiền hối lộ mới xong công việc. Cách thức phát triển của Việt Nam chỉ đơn giản là một bản sao của Trung Quốc”.
Hiện tại, tính đến cuối năm 2005, đầu tư của TC chính thức vào Việt Nam tương đối còn khiêm nhường so với các quốc gia trong vùng như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn là 734 triệu Mỹ kim so với hơn 50 tỷ của ba nước vừa kể trên. Nhưng qua những con số không chính thức có liên quan đến những đối tác Hồng Kông thì mức thẩm thấu vào Việt Nam có thể lên đến 3,7 tỷ. Và thương mãi hai chiều dự kiến trong năm 2008 là trên 10 tỷ Mỹ kim.
Các công ty TQ chú trọng đầu tư vào năng lượng và tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. TC đã ký thoả thuận trong việc thăm dò dầu khí ở vịnh Bắc Việt trong khi Hồ Cẩm Đào viếng thăm tại Hà Nội vào tháng 10, 2005. Việt Nam vẫn là một lợi điểm cho TQ vì hai quốc gia đã ký hiệp ước tự do mậu dịch với nhau. Từ đó, TC có thể chuyển ngành dệt sang VN để tránh vấn đề hạng ngạch (quota) trong việc xuất cảng các sản phẩm nầy qua Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu.
Ảnh hưởng lên môi sinh Việt Nam
Gần 20 năm qua, TQ đã bắt đầu chuyển dịch các cơ sở sản xuất qua VN vì áp lực của luật ô nhiễm môi trường ở bản địa là chính. Các đầu tư di chuyển về VN cũng vì luật lệ ở TC nghiêm ngặt hơn qua việc bảo vệ môi trường ở một số khu vực tại TQ, đặc biệt ở các tỉnh ở miền duyên hải như Thượng Hải, Hong Kong, Triết Giang.
Những tỉnh nầy khuyến khích đầu tư ở Việt Nam đối với các công nghệ gây ô nhiễm môi trường nhiều nhất như công nghệ thép, plastic, điện tử, hoá chất v.v... Cơ quan bảo vệ môi trường ở các tỉnh trên đã bắt đầu ngăn cấm và tước quyền sử dụng đất, nước, và điện của những cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Đó cũng là một trong những lý do chính để các nhà đầu tư TC xuôi Nam, một nơi có chi phí dùng trong an toàn lao động rẻ mạt.
Từ những nhận định và phân tích trên đây, quả thật Việt Nam đang phải hứng chịu nhiều hệ quả của việc bành trướng và phát triển kinh tế và kỹ nghệ của TC. Tư thế của một đàn em CSVN trước một đàn anh nước lớn TC cho đến nay vẫn là một sự thuần phục hoàn toàn. Thuần phục trong tư thế chính trị, quân sự lẫn kinh tế. TC đã tạo được một sức ép quá mạnh trong ba lãnh vực trên, khiến cho Việt Nam luôn luôn đang ở thế bị động và không thể nào thoát khỏi tầm ảnh hưởng của ba gọng kền trên.
Chiến lược xâm chiếm Việt Nam của Trung Cộng, chúng ta thử hình dung các mắc xích có thể kết nối bảy sự kiện đang được khai triển ở Việt Nam và các quốc gia lân cận, đó là:
1 - Công trình xây dựng xa lộ Trường sơn,
2 - Mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua thị xã Đồng Hới,
3 – Xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất,
4 - Dự án quốc tế giữa Trung Quốc, Lào, và Thái Lan trong việc khai thông lòng sông Cửu Long để tàu vận tài nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy,
5 - Thiết lập xa lộ nối liền thành phố Nam Ninh và Hà Nội,
6 - Miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận mũi Cà Mau,
7 - Dự án khai thác quặng bauxite ở vùng Tây nguyên (Cao nguyên).
Công trình xây dựng xa lộ Trường Sơn:
Từ năm 2001, tên Võ Văn Kiệt đã ra lịnh bằng mọi giá phải xây dựng xa lộ Trường Sơn nối liền Bắc Nam dọc theo biện giiới Việt Miên Lào, huy động hàng trăm ngàn thanh niên xung phong thời bấy giờ.
Theo quan điểm chiến lược quân sự mới, xa lộ Trường Sơn sẽ không còn là con đường chiến lược một khi có chiến tranh như bọn đầu lãnh CSVN biện minh cho việc xây dựng nầy, vì với vũ khí tối tân hiện tại, sẽ không có việc di chuyển vũ khí và quân đội bằng đường bộ qua kinh nghiệm hai trận chiến ở Iraq và Afganistan.
Thiết nghĩ đây là con đường chiến lựơc dành cho mục đích kinh tế-chính trị, nhưng không hẳn để áp dụng cho Việt Nam vì trong suốt chiều dài của xa lộ là vùng thưa dân cư nếu không nói là hoang dã.
Như vậy mục tiêu chính phải chăng là nhắm tới một mục tiêu bí mật nhằm giải quyết huyết lộ vận chuyển hàng hoá hai chiều ở miền Tây Trung Cộng ra hải ngoại. Thử hỏi, Quốc lộ I, con đường huyết mạch của Việt Nam, cần phải được nâng cấp vì nhu cầu giao thông và phát triển cho Việt Nam, nhất là từ Quảng Trị trở ra Bắc nhưng tại sao không được lưu tâm đến ?
Đường số 9 được nới rộng thành một xa lộ để khai thông một huyết mạch mới đông tây từ Thái Lan ra biển Đông nối liền Quảng Trị và thành phố Tchepone va Sawannakhet của Lào. Có được con đường nầy, hàng hoá hai chiều của TC có thể được chuyển vận bằng đường sông và đường bộ để tiếp cận với các quốc gia khác qua biển Đông.
Về nhà máy lọc dầu Dung Quất: Tuy vùng nầy không có hạ tầng cơ sở như giao thông, điện nuớc, và dân cư thưa thớt, và rất xa trung tâm sản xuất dầu thô hàng ngàn dậm. Địa điểm nầy phải chăng được chọn lựa để đáp ứng mục tiêu chuyển vận dầu khí vào vùng đất phía Tây Nam của Trung Cộng, thay vì phải chuyển vận bằng xe từ Thượng Hải, Hong Kong bằng đường bộ rất tốn kém? Có phải, chính vì các lý do trên mà Việt Nam chấp nhận mọi tốn kém để xây dựng nhà máy Dung Quất dù cho tư bản Pháp và Liên bang Nga đã rút ra khỏi dự án từ ban đầu.
Và công trình quốc tế thứ tư là trục vớt đá ngầm cùng nới sâu lòng sông Cửu Long không ngoài mục đích vận chuyển của các tàu vận tải hàng hóa có trọng tải trên 20 ngàn tấn nối liền Vân Nam (Tây Nam Trung Cộng), Thái, Lào, và Việt Nam, và giao thương với thế giới. Vân Nam là một tỉnh sản xuất hoá chất hàng đầu của Trung Cộng; do đó, nhu cầu vận chuyển nguyên liệu nhập cảng và xuất cảng thành phảm ra ngoại quốc là một nhu cầu chính yếu.
Thiết lập xa lộ nối liền Nam Ninh và Hà Nội: Song song với việc trên, một thiết lộ cũng đã được khai thác và nối liền hai thành phố. Việc xây dựng hoàn toàn do nhân viên và chuyển viên Trung Cộng đãm nhiệm, cũng như bề ngang của đường xe lữa dựa theo tiêu chuẩn Trung Cộng; do đó, xe lửa Việt Nam không thể sử dụng được.
Hiện tại, chúng ta chỉ thấy các toa xe lửa hoàn toàn mang bản hiệu chữ Tàu mà thôi. Phải chăng, thiết lộ nầy ngoài nhu cầu phục vụ các dịch vụ giao thương kinh tế giữa hai nước hay còn một ẩn dụ nào khác ? Đó là con đường tháo chạy an toàn cho bọn đầu lãnh CSVN hiện tại, mỗi khi có biến động lớn ở Việt Nam ?
Việc miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận Mũi Cà Mau: Mãi cho đấn tháng 11-2008người Trung hoa được tự do đi lại, không cần hộ chiếu chỉ ở các tỉnh miền Bắc. Sau ngày trên, người Trung hoa có thể đi lại vào tận cao nguyên thậm chí đến tận Cà Mau không cần xin hộ chiếu.
Quyết định nầy là một lợi khí lớn cho Trung Cộng để chuyển vận hàng hoá và thực phẩm chính thức hay không chính thức xâm nhập vào tận miền Nam bằng đường bộ. Hiện tại, tại Sài Gòn, hoá chất bảo vệ thực vật không nhản hiệu được bày bán tự do, đủ loại thực phẩm, cây trái được bày bán ở thị trường miền Nam.
Thử hỏi, thời gian thu hoạch trong nội địa Trung Cộng, chuyển vận bằng xe từ biên giới Bắc Việt (không có máy điều hoà không khí) xuôi Nam, làm sao các thực phẩm cây trái trên vẫn còn tươi rói, thậm chí cả cuống và lá vẫn xanh tươi như vừa mới hái? Một trong những nguồn lợi chính của Đà Lạt là rau cũ, nhưng thị trường đã bị ối động vì không địch lại với hàng Trung Cộng vì giá rẻ hơn, trong khi phí tổn chuyên chở rất cao.
Sau cùng, dự án khai thác quặng bauxite do chính tên Nguyễn Tấn Dũng ra lịnh tiến hành ngay, mặc dù có biết bao góp ý từ những nhà chuyên môn trong nước và hải ngoại, thậm chí có những góp ý hoàn toàn trái ngược của Võ Nguyên Giáp, cùng kinh nghiệm của các quốc gia đã khai thác như Nga Sô, Nam Mỹ, Phi Châu, Trung Cộng và Úc Châu.
Tất cả đểu khuyến cáo là không hiệu quả kinh tế và mức độ ô nhiễm môi trường rất cao. Chính Trung Quôc phải đóng cửa một nhà máy mới vừa khánh thành tiêu tốn trên 1 tỷ Nhân dân tệ vì không giải quyết được áp lực của ngưòi dân và sức ép của luật môi trường. Chính vì vậy mà CSVN “phải vâng lịnh” tiến hành ngay việc xây dựng hai nhà máy khai thác ở Đắk Nông dưới sự quản lý của nhân công, kỹ sư và thiết bị hoàn toàn do phía Trung Cộng cung cấp.
Hiện tại (tháng 2, 2009), theo tướng Giáp, đã có trên 100 nhân viên TC hiện diện ở hai công trường nầy Theo dự tính sẽ có trên 2000 công nhân và kỹ sự TC cho công trình trên. Họ đã xây dựng lều trại, chuyển chở thiết bị và dụng cụ để khai thác quặng mõ (hay thiết bị quân sự để thăm dò vùng tài nguyên dồi dào của cao nguyên Trung phần nầy?). Ngoài ra, hiện tại còn có theo ước tính trên 100 ngàn di dân Trung Cộng đang hiện diện nơi đây.
Cùng với dự án khai thác bauxite còn hai dự án phụ góp phần vào là dự án xây dựng tuyến đường sắt nối liền Tây Nguyen và Bình Thuận và dự án xây dựng bến cảng Bình Thuận để chuyển tải alumin (giai đoạn đầu trước khi tinh luyện ra nhôm kim loại) bằng đường hoả xa và đường biển.
Do đó, dự án khai thác bauxite đòi hỏi một lượng điện năng khổng lồ và nguồn nước thật dồi dào, chưa kể đến nguy cơ môi trường trước mắt là không khí bị ô nhiễm, môi trường nước cũng bị ô nhiễm do bùn “đỏ” trôi theo đường nước đi vào sông Đồng Nai, nguồn nước chính dự trù cho việc khai thác nầy.
Nguy hiểm nhất là bùn đỏ sẽ chiếm lĩnh một diện tích vô cùng to lớn và hệ sinh thái chung quanh hoàn toàn bị hủy diệt, cùng vùng đất khai thác và vùng đất chứa bùn đỏ bị hoang hoá hoàn toàn.
Theo ước tính, muốn sản xuất 1,2 triệu tấn alumin hàng năm, phải cần đền một lượng điện gấp đôi lượng điện Việt Nam đang có hiện nay. Vì vậy, để kết luận, tính cách khả thi của dự án không cao, nếu không nói là bất khả thi.
Như vậy, quyết định trên có phải là một quyết định đánh trống bõ dùi hay không? Hay là còn có một “ý đồ” nào khác hơn là việc khai thác nhôm? Sự hiện diện của công nhân, chuyên viên, kỹ sư Trung Cộng ở vùng Cao nguyên, xương sống của Việt Nam, nguồn nguyên liệu dồi dào còn lại của Đất Nước, có thể là một nhân tố chính trị-quânsự- kinh tế để Trung Cộng có thêm điều kiện để khống chế Việt Nam ?
Nhu cầu nhôm của Việt Nam hàng năm vào khoảng 100 đến 150 ngàn tấn dễ dàng được nhập cảng từ Úc châu. Thử hỏi với lượng sản xuất hàng triệu tấn dùng để xuất cảng sang Trung Cộng mà thôi, do đó, càng thêm bị lệ thuộc vào quốc gia nầy, và dễ dàng bị khuynh đão cũng như áp lực của Trung Cộng.
Nếu tổng hợp bảy mắc xích trên lại với nhau, chúng ta có thể hình dung được một sự phối hợp chiến lược nhuần nhuyễn về quân sự-kinh tế-chính trị. Nhưng sự phối hợp đó có thể chỉ để phục vụ cho nhu cầu của đàn anh nước lớn để:
Chuyển vận hàng hóa xuất cảng từ lục địa Tây Nam Trung Cộng sang Thái, Lào, Việt Nam và quốc tế. Sản phẩm nhập cảng chiến lược của Trung Quốc là dầu khí, và Dung Quất sẽ là nguồn cung cấp quan trọng cho vùng nầy. Và biết bao lợi ích khác nữa cho Trung Cộng cả về kinh tế lẫn quân sự và chính trị.
Nếu dự kiến cảnh tượng trên đây là một sự thật thì đây sẽ không thể hiện tinh thần hội nhập và phát triển bền vững theo tinh thần của Liên Hiệp Quốc đề ra mà chỉ tô đậm thêm lý tính thần phục, nếu không nói là nô lệ của cường quyền để phục vụ cho nhu cầu kinh tế, chính trị, và quân sự của Trung Quốc hơn là tạo thêm phúc lợi cho người dân Việt.
Xuyên qua bảy cản ngại đã phân tích ở phần trên để lý giải cho việc phát triển không đồng bộ đưa đến tình trạng bế tắc hiện tại của Việt Nam trong vấn đề hội nhập vào tiến trình tòan cầu hóa trên thế giới, CSVN đang tiếp tục đi theo chiều hướng kinh tế chỉ huy, do đó không còn đủ sức quán tính mạnh để vượt ra khỏi rào cản thần phục và xin-cho, để rồi cuối cùng giải pháp thần phục vẫn là giải pháp dễ nhất và an toàn nhất cho công cuộc bảo vệ quyền lực.
Từ những lý do đó, làm sao CSVN có thể đem lại niềm tin cho người dân được. Biết đến bao giờ thái độ thần phục của CSVN được chấm dứt để cho người dân Việt có khả năng đứng vững trên hai chân của mình. Lịch sử Việt Nam trong tương lai chắc chắn sẽ không quên ghi lại những trang sử đen tối của dân tộc trong giai đoạn nầy.
Thay lời kết
Qua những nhận định và phân tích vừa kể trên, quả thật chúng ta đã thấy thật rõ âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Cộng và lý tính thuần phục của CSVN hiện tại.
Đất Nước là Đất Nước của chung, của cả dân tộc. Từ người lãnh đạo quản lý Đất Nước cho đến người dân cùng đinh trong xã hội cần phải được dự phần và chia xẻ trách nhiệm đối với Đất Nước.
Ở các quốc gia tiến bộ và phát triển, người có quyền hạn càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Một tai nạn xe lữa hay máy bay có thể khiến cho ông/bà Bộ trưởng Giao thông phải nhận lãnh trách nhiệm và từ chức. Huống chi trong việc quản lý một Đất Nước.
Ðảng CSVN từ bao năm nay, đưa ra biết bao chính sách, kế hoạch... bị phá sản mà nhân sự đề ra chính sách vẫn ung dung tự tại trên cương vị cũ, có khi càng cao hơn để có điều kiện đề ra những chính sách phá sản khác! Đó là một trong nhiều nghịch lý làm trì trệ sự tiến hóa và phát triển của Dân tộc.
Tóm lại, cho đến ngày hôm nay, có thể nói qua những phân tích trên đây, mọi hành xử của cộng sản Việt Nam đều do cộng sản TC điều khiển từ xa; CSVN hoàn toàn không còn khả năng quyết định vận mệnh của đất nước nếu không có sự “góp ý” của Trung Quốc. Qua việc đàn áp người dân trong nước trong khi biểu tình chống TQ lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như qua việc Việt Nam để công an TQ đàn áp người dân trong khi biểu tình chống việc rước đuốc thế vận vừa qua đủ để nói lên tính nô lệ TQ của nhà cầm quyền cộng sản Viêt Nam hiện tại.
Hiện tại, nội bộ đảng cộng sản Việt Nam đang có nhiều rạn nứt trầm trọng, và rạn nứt nầy có thể làm cho đảng cộng sản tan rã trong tương lai. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải chờ đợi trong thụ động mà cả người Việt trong nước hay tại hải ngoại cần phải thúc đẩy càng mạnh thêm để tiến trình dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam diễn ra càng nhanh hơn nữa.
“Quan hệ” hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam gần đây được ca ngợi bằng 16 chữ vàng: Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” đã được người dân Hà Nội đổi lại một cách mỉa mai là:”Láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, lấn biển lâu dài, thôn tín tương lai”.
Sách Lịch sử Việt Nam của Cụ Trần Trọng Kim có ghi là Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử trải qua bốn lần bị Bắc thuộc. Ngày hôm nay, có thể được ghi thêm là Bắc thuộc lần thứ năm kể từ ngày 3 tháng 2 năm 1930 và kết thúc vào ngày … Ngày đó sẽ do tất cả người Việt trong và ngoài nước quyết định.
Mai Thanh Truyết
Chính sách đối với Việt Nam
Trung Cộng từ hơn 30 năm qua (không kể trong thời kỳ chiến tranh trước năm 1975), đã và đang chuyển mình tiến về Đông Nam Á. Và Việt Nam là một trong những thí điểm lớn để cho tư bản TC định cư cùng với những ảnh hưởng chính trị và quân sự để thực hiện mộng bá quyền nước lớn và thôn tính vùng Đông Nam Á cùng biển Đông.
Trước sự cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt, việc hạ giá thành phẩm là việc làm ưu tiên để có thể chiếm lĩnh thị trường thế giới. Đó là chính sách chung của mọi quốc gia. Do đó, Việt Nam là một mãnh đất béo bở cho tài phiệt TC đầu tư vì:
- Nhân công còn quá rẻ, ngay cả đối với nhân công TC vốn dĩ đã quá rẻ mạt;
- Chi phí cho việc bảo vệ môi trường không bị đòi hỏi gắt gao như ở TC hiện tại;
- Và quan trọng nhất là mọi thủ tục hành chánh và dịch vụ xuất nhập cảng đều được dễ dàng vì cung cách quản lý địa phương ở Việt Nam dễ bị mua chuộc.
Từ 3 yếu tố trên, CSVN đối với TC có thể được ví như là Mễ Tây Cơ với Hoa Kỳ
trong lãnh vực đầu tư và sản xuất.
Thêm một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho các nhà đầu tư TC di chuyển xuống Việt Nam là TC tìm thấy nơi đây một xứ sở giống như đất nước của họ, một đất nước đang chuyển mình từ từ và đang từ bỏ chủ thuyết cộng sản không tưởng để tiến tới một nền kinh tế thị trường tự do đầy hấp dẫn. Còn về tâm lý chung của hai dân tộc, có nhiều điểm tương đồng chính nhất là việc quan hệ kinh doanh dựa theo cách tiếp cận có tính cách cá nhân và thường sử dụng quyền lực áp đặt để lấn át pháp luật hầu mang lại mọi dễ dãi trong thủ tục hành chánh.
Hãy nghe Zou Qinghai, chủ tịch phòng Thương mãi Triết Giang tuyên bố:” Chúng tôi hiểu thông suốt rằng phải đưa tiền hối lộ mới xong công việc. Cách thức phát triển của Việt Nam chỉ đơn giản là một bản sao của Trung Quốc”.
Hiện tại, tính đến cuối năm 2005, đầu tư của TC chính thức vào Việt Nam tương đối còn khiêm nhường so với các quốc gia trong vùng như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn là 734 triệu Mỹ kim so với hơn 50 tỷ của ba nước vừa kể trên. Nhưng qua những con số không chính thức có liên quan đến những đối tác Hồng Kông thì mức thẩm thấu vào Việt Nam có thể lên đến 3,7 tỷ. Và thương mãi hai chiều dự kiến trong năm 2008 là trên 10 tỷ Mỹ kim.
Các công ty TQ chú trọng đầu tư vào năng lượng và tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. TC đã ký thoả thuận trong việc thăm dò dầu khí ở vịnh Bắc Việt trong khi Hồ Cẩm Đào viếng thăm tại Hà Nội vào tháng 10, 2005. Việt Nam vẫn là một lợi điểm cho TQ vì hai quốc gia đã ký hiệp ước tự do mậu dịch với nhau. Từ đó, TC có thể chuyển ngành dệt sang VN để tránh vấn đề hạng ngạch (quota) trong việc xuất cảng các sản phẩm nầy qua Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu.
Ảnh hưởng lên môi sinh Việt Nam
Gần 20 năm qua, TQ đã bắt đầu chuyển dịch các cơ sở sản xuất qua VN vì áp lực của luật ô nhiễm môi trường ở bản địa là chính. Các đầu tư di chuyển về VN cũng vì luật lệ ở TC nghiêm ngặt hơn qua việc bảo vệ môi trường ở một số khu vực tại TQ, đặc biệt ở các tỉnh ở miền duyên hải như Thượng Hải, Hong Kong, Triết Giang.
Những tỉnh nầy khuyến khích đầu tư ở Việt Nam đối với các công nghệ gây ô nhiễm môi trường nhiều nhất như công nghệ thép, plastic, điện tử, hoá chất v.v... Cơ quan bảo vệ môi trường ở các tỉnh trên đã bắt đầu ngăn cấm và tước quyền sử dụng đất, nước, và điện của những cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Đó cũng là một trong những lý do chính để các nhà đầu tư TC xuôi Nam, một nơi có chi phí dùng trong an toàn lao động rẻ mạt.
Từ những nhận định và phân tích trên đây, quả thật Việt Nam đang phải hứng chịu nhiều hệ quả của việc bành trướng và phát triển kinh tế và kỹ nghệ của TC. Tư thế của một đàn em CSVN trước một đàn anh nước lớn TC cho đến nay vẫn là một sự thuần phục hoàn toàn. Thuần phục trong tư thế chính trị, quân sự lẫn kinh tế. TC đã tạo được một sức ép quá mạnh trong ba lãnh vực trên, khiến cho Việt Nam luôn luôn đang ở thế bị động và không thể nào thoát khỏi tầm ảnh hưởng của ba gọng kền trên.
Chiến lược xâm chiếm Việt Nam của Trung Cộng, chúng ta thử hình dung các mắc xích có thể kết nối bảy sự kiện đang được khai triển ở Việt Nam và các quốc gia lân cận, đó là:
1 - Công trình xây dựng xa lộ Trường sơn,
2 - Mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua thị xã Đồng Hới,
3 – Xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất,
4 - Dự án quốc tế giữa Trung Quốc, Lào, và Thái Lan trong việc khai thông lòng sông Cửu Long để tàu vận tài nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy,
5 - Thiết lập xa lộ nối liền thành phố Nam Ninh và Hà Nội,
6 - Miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận mũi Cà Mau,
7 - Dự án khai thác quặng bauxite ở vùng Tây nguyên (Cao nguyên).
Công trình xây dựng xa lộ Trường Sơn:
Từ năm 2001, tên Võ Văn Kiệt đã ra lịnh bằng mọi giá phải xây dựng xa lộ Trường Sơn nối liền Bắc Nam dọc theo biện giiới Việt Miên Lào, huy động hàng trăm ngàn thanh niên xung phong thời bấy giờ.
Theo quan điểm chiến lược quân sự mới, xa lộ Trường Sơn sẽ không còn là con đường chiến lược một khi có chiến tranh như bọn đầu lãnh CSVN biện minh cho việc xây dựng nầy, vì với vũ khí tối tân hiện tại, sẽ không có việc di chuyển vũ khí và quân đội bằng đường bộ qua kinh nghiệm hai trận chiến ở Iraq và Afganistan.
Thiết nghĩ đây là con đường chiến lựơc dành cho mục đích kinh tế-chính trị, nhưng không hẳn để áp dụng cho Việt Nam vì trong suốt chiều dài của xa lộ là vùng thưa dân cư nếu không nói là hoang dã.
Như vậy mục tiêu chính phải chăng là nhắm tới một mục tiêu bí mật nhằm giải quyết huyết lộ vận chuyển hàng hoá hai chiều ở miền Tây Trung Cộng ra hải ngoại. Thử hỏi, Quốc lộ I, con đường huyết mạch của Việt Nam, cần phải được nâng cấp vì nhu cầu giao thông và phát triển cho Việt Nam, nhất là từ Quảng Trị trở ra Bắc nhưng tại sao không được lưu tâm đến ?
Đường số 9 được nới rộng thành một xa lộ để khai thông một huyết mạch mới đông tây từ Thái Lan ra biển Đông nối liền Quảng Trị và thành phố Tchepone va Sawannakhet của Lào. Có được con đường nầy, hàng hoá hai chiều của TC có thể được chuyển vận bằng đường sông và đường bộ để tiếp cận với các quốc gia khác qua biển Đông.
Về nhà máy lọc dầu Dung Quất: Tuy vùng nầy không có hạ tầng cơ sở như giao thông, điện nuớc, và dân cư thưa thớt, và rất xa trung tâm sản xuất dầu thô hàng ngàn dậm. Địa điểm nầy phải chăng được chọn lựa để đáp ứng mục tiêu chuyển vận dầu khí vào vùng đất phía Tây Nam của Trung Cộng, thay vì phải chuyển vận bằng xe từ Thượng Hải, Hong Kong bằng đường bộ rất tốn kém? Có phải, chính vì các lý do trên mà Việt Nam chấp nhận mọi tốn kém để xây dựng nhà máy Dung Quất dù cho tư bản Pháp và Liên bang Nga đã rút ra khỏi dự án từ ban đầu.
Và công trình quốc tế thứ tư là trục vớt đá ngầm cùng nới sâu lòng sông Cửu Long không ngoài mục đích vận chuyển của các tàu vận tải hàng hóa có trọng tải trên 20 ngàn tấn nối liền Vân Nam (Tây Nam Trung Cộng), Thái, Lào, và Việt Nam, và giao thương với thế giới. Vân Nam là một tỉnh sản xuất hoá chất hàng đầu của Trung Cộng; do đó, nhu cầu vận chuyển nguyên liệu nhập cảng và xuất cảng thành phảm ra ngoại quốc là một nhu cầu chính yếu.
Thiết lập xa lộ nối liền Nam Ninh và Hà Nội: Song song với việc trên, một thiết lộ cũng đã được khai thác và nối liền hai thành phố. Việc xây dựng hoàn toàn do nhân viên và chuyển viên Trung Cộng đãm nhiệm, cũng như bề ngang của đường xe lữa dựa theo tiêu chuẩn Trung Cộng; do đó, xe lửa Việt Nam không thể sử dụng được.
Hiện tại, chúng ta chỉ thấy các toa xe lửa hoàn toàn mang bản hiệu chữ Tàu mà thôi. Phải chăng, thiết lộ nầy ngoài nhu cầu phục vụ các dịch vụ giao thương kinh tế giữa hai nước hay còn một ẩn dụ nào khác ? Đó là con đường tháo chạy an toàn cho bọn đầu lãnh CSVN hiện tại, mỗi khi có biến động lớn ở Việt Nam ?
Việc miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận Mũi Cà Mau: Mãi cho đấn tháng 11-2008người Trung hoa được tự do đi lại, không cần hộ chiếu chỉ ở các tỉnh miền Bắc. Sau ngày trên, người Trung hoa có thể đi lại vào tận cao nguyên thậm chí đến tận Cà Mau không cần xin hộ chiếu.
Quyết định nầy là một lợi khí lớn cho Trung Cộng để chuyển vận hàng hoá và thực phẩm chính thức hay không chính thức xâm nhập vào tận miền Nam bằng đường bộ. Hiện tại, tại Sài Gòn, hoá chất bảo vệ thực vật không nhản hiệu được bày bán tự do, đủ loại thực phẩm, cây trái được bày bán ở thị trường miền Nam.
Thử hỏi, thời gian thu hoạch trong nội địa Trung Cộng, chuyển vận bằng xe từ biên giới Bắc Việt (không có máy điều hoà không khí) xuôi Nam, làm sao các thực phẩm cây trái trên vẫn còn tươi rói, thậm chí cả cuống và lá vẫn xanh tươi như vừa mới hái? Một trong những nguồn lợi chính của Đà Lạt là rau cũ, nhưng thị trường đã bị ối động vì không địch lại với hàng Trung Cộng vì giá rẻ hơn, trong khi phí tổn chuyên chở rất cao.
Sau cùng, dự án khai thác quặng bauxite do chính tên Nguyễn Tấn Dũng ra lịnh tiến hành ngay, mặc dù có biết bao góp ý từ những nhà chuyên môn trong nước và hải ngoại, thậm chí có những góp ý hoàn toàn trái ngược của Võ Nguyên Giáp, cùng kinh nghiệm của các quốc gia đã khai thác như Nga Sô, Nam Mỹ, Phi Châu, Trung Cộng và Úc Châu.
Tất cả đểu khuyến cáo là không hiệu quả kinh tế và mức độ ô nhiễm môi trường rất cao. Chính Trung Quôc phải đóng cửa một nhà máy mới vừa khánh thành tiêu tốn trên 1 tỷ Nhân dân tệ vì không giải quyết được áp lực của ngưòi dân và sức ép của luật môi trường. Chính vì vậy mà CSVN “phải vâng lịnh” tiến hành ngay việc xây dựng hai nhà máy khai thác ở Đắk Nông dưới sự quản lý của nhân công, kỹ sư và thiết bị hoàn toàn do phía Trung Cộng cung cấp.
Hiện tại (tháng 2, 2009), theo tướng Giáp, đã có trên 100 nhân viên TC hiện diện ở hai công trường nầy Theo dự tính sẽ có trên 2000 công nhân và kỹ sự TC cho công trình trên. Họ đã xây dựng lều trại, chuyển chở thiết bị và dụng cụ để khai thác quặng mõ (hay thiết bị quân sự để thăm dò vùng tài nguyên dồi dào của cao nguyên Trung phần nầy?). Ngoài ra, hiện tại còn có theo ước tính trên 100 ngàn di dân Trung Cộng đang hiện diện nơi đây.
Cùng với dự án khai thác bauxite còn hai dự án phụ góp phần vào là dự án xây dựng tuyến đường sắt nối liền Tây Nguyen và Bình Thuận và dự án xây dựng bến cảng Bình Thuận để chuyển tải alumin (giai đoạn đầu trước khi tinh luyện ra nhôm kim loại) bằng đường hoả xa và đường biển.
Do đó, dự án khai thác bauxite đòi hỏi một lượng điện năng khổng lồ và nguồn nước thật dồi dào, chưa kể đến nguy cơ môi trường trước mắt là không khí bị ô nhiễm, môi trường nước cũng bị ô nhiễm do bùn “đỏ” trôi theo đường nước đi vào sông Đồng Nai, nguồn nước chính dự trù cho việc khai thác nầy.
Nguy hiểm nhất là bùn đỏ sẽ chiếm lĩnh một diện tích vô cùng to lớn và hệ sinh thái chung quanh hoàn toàn bị hủy diệt, cùng vùng đất khai thác và vùng đất chứa bùn đỏ bị hoang hoá hoàn toàn.
Theo ước tính, muốn sản xuất 1,2 triệu tấn alumin hàng năm, phải cần đền một lượng điện gấp đôi lượng điện Việt Nam đang có hiện nay. Vì vậy, để kết luận, tính cách khả thi của dự án không cao, nếu không nói là bất khả thi.
Như vậy, quyết định trên có phải là một quyết định đánh trống bõ dùi hay không? Hay là còn có một “ý đồ” nào khác hơn là việc khai thác nhôm? Sự hiện diện của công nhân, chuyên viên, kỹ sư Trung Cộng ở vùng Cao nguyên, xương sống của Việt Nam, nguồn nguyên liệu dồi dào còn lại của Đất Nước, có thể là một nhân tố chính trị-quânsự- kinh tế để Trung Cộng có thêm điều kiện để khống chế Việt Nam ?
Nhu cầu nhôm của Việt Nam hàng năm vào khoảng 100 đến 150 ngàn tấn dễ dàng được nhập cảng từ Úc châu. Thử hỏi với lượng sản xuất hàng triệu tấn dùng để xuất cảng sang Trung Cộng mà thôi, do đó, càng thêm bị lệ thuộc vào quốc gia nầy, và dễ dàng bị khuynh đão cũng như áp lực của Trung Cộng.
Nếu tổng hợp bảy mắc xích trên lại với nhau, chúng ta có thể hình dung được một sự phối hợp chiến lược nhuần nhuyễn về quân sự-kinh tế-chính trị. Nhưng sự phối hợp đó có thể chỉ để phục vụ cho nhu cầu của đàn anh nước lớn để:
Chuyển vận hàng hóa xuất cảng từ lục địa Tây Nam Trung Cộng sang Thái, Lào, Việt Nam và quốc tế. Sản phẩm nhập cảng chiến lược của Trung Quốc là dầu khí, và Dung Quất sẽ là nguồn cung cấp quan trọng cho vùng nầy. Và biết bao lợi ích khác nữa cho Trung Cộng cả về kinh tế lẫn quân sự và chính trị.
Nếu dự kiến cảnh tượng trên đây là một sự thật thì đây sẽ không thể hiện tinh thần hội nhập và phát triển bền vững theo tinh thần của Liên Hiệp Quốc đề ra mà chỉ tô đậm thêm lý tính thần phục, nếu không nói là nô lệ của cường quyền để phục vụ cho nhu cầu kinh tế, chính trị, và quân sự của Trung Quốc hơn là tạo thêm phúc lợi cho người dân Việt.
Xuyên qua bảy cản ngại đã phân tích ở phần trên để lý giải cho việc phát triển không đồng bộ đưa đến tình trạng bế tắc hiện tại của Việt Nam trong vấn đề hội nhập vào tiến trình tòan cầu hóa trên thế giới, CSVN đang tiếp tục đi theo chiều hướng kinh tế chỉ huy, do đó không còn đủ sức quán tính mạnh để vượt ra khỏi rào cản thần phục và xin-cho, để rồi cuối cùng giải pháp thần phục vẫn là giải pháp dễ nhất và an toàn nhất cho công cuộc bảo vệ quyền lực.
Từ những lý do đó, làm sao CSVN có thể đem lại niềm tin cho người dân được. Biết đến bao giờ thái độ thần phục của CSVN được chấm dứt để cho người dân Việt có khả năng đứng vững trên hai chân của mình. Lịch sử Việt Nam trong tương lai chắc chắn sẽ không quên ghi lại những trang sử đen tối của dân tộc trong giai đoạn nầy.
Thay lời kết
Qua những nhận định và phân tích vừa kể trên, quả thật chúng ta đã thấy thật rõ âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Cộng và lý tính thuần phục của CSVN hiện tại.
Đất Nước là Đất Nước của chung, của cả dân tộc. Từ người lãnh đạo quản lý Đất Nước cho đến người dân cùng đinh trong xã hội cần phải được dự phần và chia xẻ trách nhiệm đối với Đất Nước.
Ở các quốc gia tiến bộ và phát triển, người có quyền hạn càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Một tai nạn xe lữa hay máy bay có thể khiến cho ông/bà Bộ trưởng Giao thông phải nhận lãnh trách nhiệm và từ chức. Huống chi trong việc quản lý một Đất Nước.
Ðảng CSVN từ bao năm nay, đưa ra biết bao chính sách, kế hoạch... bị phá sản mà nhân sự đề ra chính sách vẫn ung dung tự tại trên cương vị cũ, có khi càng cao hơn để có điều kiện đề ra những chính sách phá sản khác! Đó là một trong nhiều nghịch lý làm trì trệ sự tiến hóa và phát triển của Dân tộc.
Tóm lại, cho đến ngày hôm nay, có thể nói qua những phân tích trên đây, mọi hành xử của cộng sản Việt Nam đều do cộng sản TC điều khiển từ xa; CSVN hoàn toàn không còn khả năng quyết định vận mệnh của đất nước nếu không có sự “góp ý” của Trung Quốc. Qua việc đàn áp người dân trong nước trong khi biểu tình chống TQ lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như qua việc Việt Nam để công an TQ đàn áp người dân trong khi biểu tình chống việc rước đuốc thế vận vừa qua đủ để nói lên tính nô lệ TQ của nhà cầm quyền cộng sản Viêt Nam hiện tại.
Hiện tại, nội bộ đảng cộng sản Việt Nam đang có nhiều rạn nứt trầm trọng, và rạn nứt nầy có thể làm cho đảng cộng sản tan rã trong tương lai. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải chờ đợi trong thụ động mà cả người Việt trong nước hay tại hải ngoại cần phải thúc đẩy càng mạnh thêm để tiến trình dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam diễn ra càng nhanh hơn nữa.
“Quan hệ” hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam gần đây được ca ngợi bằng 16 chữ vàng: Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” đã được người dân Hà Nội đổi lại một cách mỉa mai là:”Láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, lấn biển lâu dài, thôn tín tương lai”.
Sách Lịch sử Việt Nam của Cụ Trần Trọng Kim có ghi là Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử trải qua bốn lần bị Bắc thuộc. Ngày hôm nay, có thể được ghi thêm là Bắc thuộc lần thứ năm kể từ ngày 3 tháng 2 năm 1930 và kết thúc vào ngày … Ngày đó sẽ do tất cả người Việt trong và ngoài nước quyết định.
Mai Thanh Truyết
Bá Vương Cổ Ðiển Của Bắc Kinh
Bá Vương Cổ Ðiển Của Bắc Kinh.
Trung Cộng đã thử nghiệm gân cốt CS Hà Nội trong các cuộc chiến năm 1984, rồi 1988, rồi hàng loạt những vụ đụng độ đầy khiêu khích ở ngoài khơi trong các năm 1992, thậm chí 1999, 2001, 2003, 2005...
Theo đúng thuật bá vương cổ điển của văn hoá Trung Hoa, Bắc Kinh tiếp tục xây dựng vùng trái độn ở các khu vực phiên trấn phía Tây, phía Bắc, trong khi lùa đàn con trẻ ở cõi Ba Đình Hà Nội vào thế chư hầu tại phía Nam. Nhìn lại địa dư và lịch sử Trung Cộng, nơi duy nhất mà các đấng con trời có thể đưa quân tấn công không phải là Mãn Châu, Ngoại Mông, Tân Cương hay Hy Mã Lạp Sơn qua ngả Tây Tạng. Nơi duy nhất là Bắc Việt!
Nay cũng là nơi mềm nhất của phép "mềm nắn rắn buông"!
Mềm vì lãnh đạo hèn, chứ không vì người dân muốn cúi đầu chịu thua.
Xưa nay, trong lịch sử giao tranh giữa hai nước, Lạng Sơn vẫn là mồ chôn giặc, Chi Lăng là nơi quân ta chém tướng. Và sau mỗi đợt xâm lăng thì các tỉnh Bắc phương không còn nghe tiếng gà gáy vì địch quân bị ta rượt theo đánh cho tan tác trên mấy trăm cấy số ở bên kia biên giới. Trong trận chiến 1979 thì khác. Khi Trung Cộng bị tổn thất nặng và ra lệnh rút quân thì CS Hà Nội vội ra lệnh đình chiến tại chỗ. Nhờ vậy mà "Giải phóng quân" của Trung Cộng dù ở thế rút chạy, vẫn chiếm được nhiều khu vực, kể cả Nam Quan, Bản Giốc.
Trong một đợt giao tranh về sau, Trung đoàn 982 của Sư đoàn 313 đã hy sinh mấy ngàn binh sĩ để chiếm lại đỉnh 1509 (núi Đất) thuộc xã Thanh Thủy, huyện Yên Minh của tỉnh Hà Giang. Ngay sau đó, CS Hà Nội đã ra lệnh rút, để nhường lại cho giặc!
Chỗ mềm nhất của CSVN chính là cái đầu và bao hy sinh xương máu của dân và quân đều bị chính lãnh đạo phản bội.
Sau khi bị xuất huyết nội tại Cambốt trong 10 năm chiếm đóng, từ năm 1989 CS Hà Nội bắt đầu cải thiện bang giao với Bắc Kinh, nhưng trong thế yếu. Và ngày càng yếu nếu so sánh với Bắc Kinh vì đàn anh Liên Xô đã phá sản, bức tường Bá Linh đã sụp đổ - hai chục năm rồi đấy! - rồi khối Xô Viết tan thành mảnh vụn.
Để tồn tại, đảng Cộng sản Việt Nam bèn học theo truyền thống Bắc thuộc cũ, là làm gì thì cũng nghe ngóng và hỏi han Bắc Kinh. Rồi từng bước nhượng dần những biểu tượng của danh dự tổ quốc, từ mục Nam Quan tới thác Bản Giốc hay bãi Tục Lãm. Họ sẵn sàng hy sinh danh dự, nhưng quyền lợi ngàn đời của quốc gia, là các quần đảo Hoàng Sa rồi Trường Sa và luồng vận chuyển tự do qua eo biển Malacca của Đông Nam Á, họ cũng hy sinh luôn!
Trong vụ Trung Cộng tấn công các tỉnh miền Bắc vào năm 1979, bộ Chính trị CSVN đã lật đật trốn vào Đà Nẵng để trú ẩn và còn huy động dân chúng miền Nam vét bùn xây đài phỏng thủ ở các tỉnh trong Nam. Bây giờ, khi dân chúng biểu tình chống lại sự xâm lược của Bá quyền Trung Cộng thì Bắc Kinh chưa nhúc nhích đã thấy CS Hà Nội ra tay trấn áp.
Sau khi trốn vào Đà Nẵng, lần này CS Hà Nội lại tấn công thẳng vào Đà Nẵng với việc "đình chỉ hoạt động" của Nhà Xuất Bản Đà Nẵng vì một cuốn truyện viết về cuộc chiến Hoa-Việt vào năm 1979!
Ngẫu nhiên sao, Đà Nẵng cũng là nơi đã quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng Nhân dân sau khi CS Hà Nội đã ra lệnh hủy bỏ chuyện bầu cử địa phương như vậy!.... Nơi xuất huyết của CS Hà Nội. Người dân ở đây có ý thức rất cao về sự an toàn của tổ quốc và lãnh thổ...
Kết cuộc, 30 năm sau, chúng ta đang thấy gì?
Dân muốn đánh mà đảng CSVN muốn hàng, thành thử, cuộc chiến ba mươi năm chưa kết thúc và CS Hà Nội cứ lui dần, chuyển bại thành liệt. Muốn bảo vệ Tổ quốc, người Việt Nam trước hết phải chấm dứt sự cai trị của bọn bán đứng Tổ quốc, phản bội dân tộc.
Nhắc lại chuyện ba mươi năm trước vì vậy không thừa. Trong Nam ngoài Bắc, trong nước và hải ngoại, nơi nào cũng có người Việt hẳn chưa quên được chuyện bán nước cầu vinh của CSVN.
Thành Chung
Trung Cộng đã thử nghiệm gân cốt CS Hà Nội trong các cuộc chiến năm 1984, rồi 1988, rồi hàng loạt những vụ đụng độ đầy khiêu khích ở ngoài khơi trong các năm 1992, thậm chí 1999, 2001, 2003, 2005...
Theo đúng thuật bá vương cổ điển của văn hoá Trung Hoa, Bắc Kinh tiếp tục xây dựng vùng trái độn ở các khu vực phiên trấn phía Tây, phía Bắc, trong khi lùa đàn con trẻ ở cõi Ba Đình Hà Nội vào thế chư hầu tại phía Nam. Nhìn lại địa dư và lịch sử Trung Cộng, nơi duy nhất mà các đấng con trời có thể đưa quân tấn công không phải là Mãn Châu, Ngoại Mông, Tân Cương hay Hy Mã Lạp Sơn qua ngả Tây Tạng. Nơi duy nhất là Bắc Việt!
Nay cũng là nơi mềm nhất của phép "mềm nắn rắn buông"!
Mềm vì lãnh đạo hèn, chứ không vì người dân muốn cúi đầu chịu thua.
Xưa nay, trong lịch sử giao tranh giữa hai nước, Lạng Sơn vẫn là mồ chôn giặc, Chi Lăng là nơi quân ta chém tướng. Và sau mỗi đợt xâm lăng thì các tỉnh Bắc phương không còn nghe tiếng gà gáy vì địch quân bị ta rượt theo đánh cho tan tác trên mấy trăm cấy số ở bên kia biên giới. Trong trận chiến 1979 thì khác. Khi Trung Cộng bị tổn thất nặng và ra lệnh rút quân thì CS Hà Nội vội ra lệnh đình chiến tại chỗ. Nhờ vậy mà "Giải phóng quân" của Trung Cộng dù ở thế rút chạy, vẫn chiếm được nhiều khu vực, kể cả Nam Quan, Bản Giốc.
Trong một đợt giao tranh về sau, Trung đoàn 982 của Sư đoàn 313 đã hy sinh mấy ngàn binh sĩ để chiếm lại đỉnh 1509 (núi Đất) thuộc xã Thanh Thủy, huyện Yên Minh của tỉnh Hà Giang. Ngay sau đó, CS Hà Nội đã ra lệnh rút, để nhường lại cho giặc!
Chỗ mềm nhất của CSVN chính là cái đầu và bao hy sinh xương máu của dân và quân đều bị chính lãnh đạo phản bội.
Sau khi bị xuất huyết nội tại Cambốt trong 10 năm chiếm đóng, từ năm 1989 CS Hà Nội bắt đầu cải thiện bang giao với Bắc Kinh, nhưng trong thế yếu. Và ngày càng yếu nếu so sánh với Bắc Kinh vì đàn anh Liên Xô đã phá sản, bức tường Bá Linh đã sụp đổ - hai chục năm rồi đấy! - rồi khối Xô Viết tan thành mảnh vụn.
Để tồn tại, đảng Cộng sản Việt Nam bèn học theo truyền thống Bắc thuộc cũ, là làm gì thì cũng nghe ngóng và hỏi han Bắc Kinh. Rồi từng bước nhượng dần những biểu tượng của danh dự tổ quốc, từ mục Nam Quan tới thác Bản Giốc hay bãi Tục Lãm. Họ sẵn sàng hy sinh danh dự, nhưng quyền lợi ngàn đời của quốc gia, là các quần đảo Hoàng Sa rồi Trường Sa và luồng vận chuyển tự do qua eo biển Malacca của Đông Nam Á, họ cũng hy sinh luôn!
Trong vụ Trung Cộng tấn công các tỉnh miền Bắc vào năm 1979, bộ Chính trị CSVN đã lật đật trốn vào Đà Nẵng để trú ẩn và còn huy động dân chúng miền Nam vét bùn xây đài phỏng thủ ở các tỉnh trong Nam. Bây giờ, khi dân chúng biểu tình chống lại sự xâm lược của Bá quyền Trung Cộng thì Bắc Kinh chưa nhúc nhích đã thấy CS Hà Nội ra tay trấn áp.
Sau khi trốn vào Đà Nẵng, lần này CS Hà Nội lại tấn công thẳng vào Đà Nẵng với việc "đình chỉ hoạt động" của Nhà Xuất Bản Đà Nẵng vì một cuốn truyện viết về cuộc chiến Hoa-Việt vào năm 1979!
Ngẫu nhiên sao, Đà Nẵng cũng là nơi đã quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng Nhân dân sau khi CS Hà Nội đã ra lệnh hủy bỏ chuyện bầu cử địa phương như vậy!.... Nơi xuất huyết của CS Hà Nội. Người dân ở đây có ý thức rất cao về sự an toàn của tổ quốc và lãnh thổ...
Kết cuộc, 30 năm sau, chúng ta đang thấy gì?
Dân muốn đánh mà đảng CSVN muốn hàng, thành thử, cuộc chiến ba mươi năm chưa kết thúc và CS Hà Nội cứ lui dần, chuyển bại thành liệt. Muốn bảo vệ Tổ quốc, người Việt Nam trước hết phải chấm dứt sự cai trị của bọn bán đứng Tổ quốc, phản bội dân tộc.
Nhắc lại chuyện ba mươi năm trước vì vậy không thừa. Trong Nam ngoài Bắc, trong nước và hải ngoại, nơi nào cũng có người Việt hẳn chưa quên được chuyện bán nước cầu vinh của CSVN.
Thành Chung
Thơ Nam Ý Bắc
Bắc bảo Kỳ , Nam kêu Cọ (gọi là Kỳ Cọ)
Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi
Ôi! Bắc quở Gầy, Nam than Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh
Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
Nam mần Sơ Sơ, Bắc nàm Nấy Nệ
Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc Vạc tre, Bắc kê Lều chõng
Bắc nói trổng Thế Thôi, Nam bâng quơ Vậy Đó
Bắc đan cái Rọ, Nam làm giỏ Tre
Nam không nghe Nói Dai, Bắc chẳng mê Lải Nhải
Nam Cãi bai bãi, Bắc Lý Sự ào ào
Bắc vào Ô tô, Nam vô Xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng
Khi nắng Nam mở Dù, Bắc lại xoè Ô
Điên rồ Nam Đi trốn, nguy khốn Bắc Lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc Từ từ, Bắc khuyên Gượm lại
Bắc là Quá dại, Nam thì Ngu ghê
Nam Sợ Ghê, Bắc Hãi Quá
Nam thưa Tía Má, Bắc bẩm Thầy U
Nam nhủ Ưng Ghê, Bắc mê Hài Lòng
Nam chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh
Nhanh nhanh Nam bẻ Bắp, hấp tấp Bắc vặt Ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi! Bắc hô: cút xéo!
Bắc bảo: cứ véo! Nam : ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn!
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác
Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó
Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam : ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi!
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội
Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy
Bắc quậy Sướng Phê, Nam rên Đã Quá!
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng
Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa
Bắc vua Bia Bọt, Nam chúa La-De
Bắc khoe Bùi Bùi lạc rang, Nam: Thơm Thơm đậu phọng
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn
Nam toe toét “hổng chịu đèn”, Bắc vặn mình “em chả”
Bắc giấm chua “cái ả”, Nam bặm trợn “con kia”
Nam mỉa “tên cà chua”, Bắc rủa “đồ phải gió”
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ
Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan
Bắc xuýt xoa “Cái Lan xinh cực!”,
Nam trầm trồ “Con Lan đẹp hết chê!”
Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền mới lâu…
Tấu Hài
Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi
Ôi! Bắc quở Gầy, Nam than Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh
Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
Nam mần Sơ Sơ, Bắc nàm Nấy Nệ
Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc Vạc tre, Bắc kê Lều chõng
Bắc nói trổng Thế Thôi, Nam bâng quơ Vậy Đó
Bắc đan cái Rọ, Nam làm giỏ Tre
Nam không nghe Nói Dai, Bắc chẳng mê Lải Nhải
Nam Cãi bai bãi, Bắc Lý Sự ào ào
Bắc vào Ô tô, Nam vô Xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng
Khi nắng Nam mở Dù, Bắc lại xoè Ô
Điên rồ Nam Đi trốn, nguy khốn Bắc Lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc Từ từ, Bắc khuyên Gượm lại
Bắc là Quá dại, Nam thì Ngu ghê
Nam Sợ Ghê, Bắc Hãi Quá
Nam thưa Tía Má, Bắc bẩm Thầy U
Nam nhủ Ưng Ghê, Bắc mê Hài Lòng
Nam chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh
Nhanh nhanh Nam bẻ Bắp, hấp tấp Bắc vặt Ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi! Bắc hô: cút xéo!
Bắc bảo: cứ véo! Nam : ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn!
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác
Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó
Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam : ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi!
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội
Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy
Bắc quậy Sướng Phê, Nam rên Đã Quá!
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng
Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa
Bắc vua Bia Bọt, Nam chúa La-De
Bắc khoe Bùi Bùi lạc rang, Nam: Thơm Thơm đậu phọng
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn
Nam toe toét “hổng chịu đèn”, Bắc vặn mình “em chả”
Bắc giấm chua “cái ả”, Nam bặm trợn “con kia”
Nam mỉa “tên cà chua”, Bắc rủa “đồ phải gió”
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ
Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan
Bắc xuýt xoa “Cái Lan xinh cực!”,
Nam trầm trồ “Con Lan đẹp hết chê!”
Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền mới lâu…
Tấu Hài
Nghĩa Vụ Cứu Nước
Nghĩa Vụ Cứu Nước.
Cứu nước, con đường đi phải tiếp tục, không thể nản chí, thoái lui.
Cứu nước quả là công trình gian khổ, lênh đênh, ngắn dài theo vận nước. Nhưng khi đối phương cũng đã thật nhiều phen lên thác xuống ghềnh, thất điên bát đảo và phía ta trầy trật, loay hoay chẳng có khả năng lật ngược thế cờ thì trong cuộc đấu, suy cho thấu, ta chẳng thể nhận là cao cường, kẻ đấu tranh chính trị chẳng thể tự cho là cao thủ. Có nhiều điều phải xem xét và tính toán lại. Tình trạng kéo dài đã quá lâu bắt tìm một lối thoát, đòi hỏi một cách giải quyết.
Truyện xưa kể rằng khi Đức Trần Hưng Đạo bệnh nặng, nhà vua trẻ Trần Anh Tôn đến thăm rồi hỏi Ngài về phương lược giữ nước. Sau ba lần quân Nguyên xâm lăng, vua và dân đời Trần luôn luôn bị ám ảnh về hiểm họa từ phương Bắc. Hưng Đạo Vương trình bày một số trường hợp dụng binh rồi ngỏ lời khuyên nhủ : “Ta nhiều lần bị vây bốn mặt nhưng chúng ta, vua tôi đồng tâm, một nhà hòa thuận, cả nước hợp lực, ta đã thắng. Kẻ địch cậy có trường trận, ta có đoản binh, ta đều cả thắng. Quân địch đến ầm ầm như lửa, như bão, thế ấy dễ trị. Nếu như nó thủng thẳng như tằm ăn lá, không cần thắng mau, không hà hiếp dân thì ta khó chống hơn. Cần binh hùng, cần lương tướng và biết quyền biến như đánh cờ vậy. Cốt binh và tướng như con với cha, nên phải biết “nới lỏng sức dân” và thực hành kế sách “rễ sâu, gốc vững”.
“Nới lỏng sức dân “là nuôi dân, dưỡng dân, thu phục nhân tâm. Thực hiện được thì có “rễ sâu, gốc vững”. Đó là lý do triều Trần trị vì được 188 năm trong khi nhà Hồ chỉ đứng có 7 năm, Trần Thủ Độ và Hồ Quí Ly đều làm chuyện thoán nghịch và đã giết hại hàng trăm nội ngoại tôn thất triều trước. Các vua Trần đều là bậc đạo hạnh, tu học cao thâm trong khi Hồ Quí Ly tuy có tài cải cách nhưng làm nhiều điều tàn ác, thất nhân tâm.
Nhìn vào thời nay, các tổ chức quân chính như Hezbollah, Hamas nhỏ bé, yếu ớt mà đứng vững được trước sức mạnh của Do Thái đều là nhờ vào thế dân, sức dân, núp trong dân mà sống, ẩn trong dân mà chống giữ.
Chúng ta có nhận định thứ nhất : “VẤN ĐỀ NỀN TẢNG LÀ LÒNG NGƯỜI. PHẢI BIẾT GÂY THẾ DÂN VÀ DÙNG SỨC DÂN ”.
Phương Đông chúng ta có lời dạy cho các quân vương : “ý dân là ý trời”. Trong các vận động xã hội quan trọng như chiến tranh và cách mạng, động lực chính yếu là “ý dân” mà ta còn gọi là “lòng người”. Hiểu rõ, nắm vững, vận dụng được ý dân là yếu tố tạo ra sức mạnh.
Có bí kíp đó, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã đè bẹp các đảng phái quốc gia, đánh thắng đoàn quân Viễn Chinh Pháp, chiếm được nửa nước năm 1954. Đà thắng lợi của CSVN lên tới cao điểm vào ngày 30-4-1975, làm chủ cả nước. Đó là đỉnh cao chót vót !
Thế rồi, không tránh được biến thiên là một qui luật của vạn vật, đảng CSVN với lòng kiêu ngạo toàn thắng lấn át lý trí, đánh mất khôn ngoan, xa rời quần chúng. Chính nghĩa dân tộc mà Đảng huênh hoang đại diện đã vượt biển đi theo dân Tị Nạn và các Thuyền Nhân (từ cả Nam rồi đến Bắc). Những khuyết tật của tổ chức, những lầm lẫn về chính sách cộng với sự hư hỏng của cán bộ phối hợp với ảnh hưởng của Quốc tế CS sụp đổ đã khiến cho con đường xuống giốc của Đảng thành một định mệnh không thể cưỡng lại.
Nếu 30 tháng tư 1975 là một ngày bi thảm cho Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thì đó cũng là một thời điểm chuyển hướng của “mong đợi ngày mai không cộng sản trên Quê Hương ”. Thực hiện “chủ nghĩa xã hội” đưa “cả nước xuống hố” với khoai, sắn, bo bo và biết bao hành động thất nhân tâm, tàn độc khác khiến “lòng người” chuyển đổi, đi tìm hướng “quốc gia” và “dân chủ”.
Nhưng nếu nói là lòng người đã chuyển hướng không có nghĩa là hoàn cảnh sẵn sàng để tự nhiên đưa tới một sự thay đổi trật tự đất nước. Tình trạng có thể ví như sự mong mỏi tạo được một vài nguồn năng lượng thay thế cho dầu lửa. Nguyên liệu cơ bản thì đầy rẫy trong thiên nhiên, nhưng sự sản xuất năng lượng mới đòi hỏi nhiều điều kiện về hiểu biết và trình độ kỹ thuật chưa sẵn sàng. “Lòng người VN ngày nay” đã có biến đổi thuận lợi nhưng chưa có nghĩa là toàn khối nhân dân đã sẵn sàng cho thay đổi và vẫn còn cần nhiều nỗ lực tôi luyện để có thể thật sự thành khả dụng.
Chúng ta có thể nhận định: “NGƯỜI VIỆT NAM NGÀY NAY, NÓI CHUNG, NGÓNG TRÔNG VỀ HƯỚNG “TỰ DO – DÂN CHỦ”, NHƯNG THỰC TẾ CÒN ĐÒI HỎI NHIỀU SỬA SOẠN, ĐÀO LUYỆN, TỔ CHỨC VÀ LỰC, ĐỂ CÓ THỂ GÂY THÀNH SỨC MẠNH ĐƯA ĐẾN ĐỔI THAY.”
Qui luật là: “đối lại mỗi áp lực đều có một phản lực”. Áp dụng vào đời sống xã hội thì luật ấy đổi thành luật đấu tranh : “ở đâu có đàn áp thì có đấu tranh”.
Ðảng CSVN với chủ trương độc tài, toàn trị, khống chế mọi mặt đời sống nhân dân trên sáu chục năm nay đã gây ra biết bao điều tàn ác, xấu xa. Nó không còn là chính đáng để trị dân, nó phản dân chủ, áp bức, bất công và đã phản lại quyền lợi quốc gia. Nó ung thối, bịp bợm. Luật pháp của chúng là để bảo vệ chế độ, che trở tập đoàn cán bộ lạm quyền, hư hỏng, làm giầu trên đầu, trên cổ người dân. Tình trạng đã tạo ra một xã hội băng hoại về cả vật chất và tinh thần, đầy rẫy nghèo khổ, đàn áp, bất công.
Ở đâu có áp bức thì có chống đối. Sự chống chọi cường quyền nảy mầm và diễn ra thật tự nhiên. Dân mất đất thì dân phản kháng, tự động, vô thức. Chống đối không có kết quả lại bị bắt bớ, đàn áp trở thành quyết liệt, có ý thức, từ sợ hãi, ngần ngại tiến đến liều lĩnh, hết sợ. Phản kháng lẻ loi biến thành tập hợp lớn hơn, từ địa phương đến thành từng tỉnh, từng miền.
Dân khiếu kiện, chống đối gồm mọi thành phần: Dân thành phố mất nhà, nông dân mất đất, mất ruộng, thợ thuyền không đủ sống, đồng bào tôn giáo bị cấm cản, hành hung, sắc tộc bị đàn áp. Bất mãn âm ỉ trong lòng dân nghèo thành phố, dân quê túng đói, ý tưởng cách mạng tự nảy sinh và phát triển, tất cả diễn biến tự nhiên như là theo một qui luật xã hội.
Vài năm gần đây, chúng ta thấy sự tham gia đấu tranh của nhiều luật sư, bác sĩ, giáo sư, văn sĩ, ký giả dủ hạng tuổi, nam và nữ và cả cựu tướng lãnh, cựu sĩ quan cùng nhiều bậc tu hành cao trọng. Người thức giả thường cẩn trọng, tính toán nay như đã cảm được niềm đau của đồng bào, xã hội và của chính mình, đã can đảm dấn thân. Tới giai đoạn này thì sóng ngầm cách mạng có cơ khai triển nhiều hơn vì người chiến sĩ ở tầng lớp hiểu biết cao hơn mang đến cho đấu tranh một số lợi khí mà quần chúng không có: óc tổ chức, sự lãnh đạo, tư tưởng hướng dẫn, phương lược tiến hành và nhất là cán bộ. Nhưng đồng thời, bạo quyền CS phản động gia tăng đàn áp, bắt bớ, giam cầm, bưng bít.
Từ khoảng Giáng sinh 2007, đồng bào Giáo dân VN đã bất ngờ gia nhập đấu tranh chống ngụy quyền CS bằng các cuộc “xuống đường cầu nguyện” đòi nhà và đất, khởi đầu từ Tổng Giáo phận Hà Nội rồi lan rộng tới nhiều nơi khác trong toàn quốc.
Cầu nguyện đấu tranh nhiều lúc đã thật căng thẳng. Nhưng một năm sau, sự quỉ quyệt của CSVN đã khiến cho tình hình Giáo dân có vẻ tạm êm đi. Các tôn giáo khác và đồng bào các giới không cùng đồng loạt đứng lên hưởng ứng. Cuộc tranh đấu chung chưa tiến lên cao hơn nữa. CSVN có vẻ đã tạm thời lập lại được ổn định bằng mưu mô và đàn áp và sự sợ hãi mà chúng đã gây ra nhờ bàn tay mạnh của công an, cảnh sát, tòa án cùng với sự bưng bít thông tin.
Bên cạnh đó: “PHONG TRÀO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH CHƯA TIẾN LÊN CAO ĐỘ ĐƯỢC VÌ HAI YẾU TỐ : SỰ HIỆN DIỆN CỦA MỘT BẬC THỀM SỢ HÃI VÀ SỰ THIẾU VẮNG HỢP ĐỒNG ĐẤU TRANH ”.
Một nguyên tắc: “Thi hành nhiệm vụ dân chủ hóa đất nước, đóng vai trò chính là người trong nước, người hải ngoại chỉ có thể yểm trợ”. Các tổ chức đấu tranh nơi quốc nội chắc hẳn tự biết tìm cách thỏa mãn cho đòi hỏi nhu cầu của mình. Trước hết, ta cần xác định mục tiêu : phải làm gì ? Nói theo binh gia thì là tấn công mục tiêu nào, bằng cách gì, nặng nhẹ ra sao ?
Trước đây trên cả hai thiên kỷ, chính Tôn Tử cũng đã đề cập đến chiến lược gián tiếp khi nhà quân sư bậc thày của phương Đông này dạy rằng thắng lợi đẹp đẽ nhất là thắng mà không phải đánh. Không dụng lực thì chắc là ít thiệt hại, đó là khuyến dụ dùng mưu lược, dùng ngoại giao, dùng tâm lý chiến vậy.
Phối hợp lời khuyên trên đây, chúng ta chọn mục tiêu “trọng tâm sức mạnh của địch”. Trọng tâm này có vẻ như khá phức tạp. Trước hết nó phải là quân đội CSVN, nó cũng có thể là đảng CSVN, hai đích này dường như khó cho ta đụng tới một cách trực tiếp, nhưng nó có thể là lòng người Việt Nam là điều mà hướng đánh đó là thuận, hợp với khả năng của Hải Ngoại.
Đánh vào nhân tâm VN là trận đánh tâm lý chiến. CSVN sẽ khó bịt miệng Hải Ngoại. Chúng ta nhằm chuyển đổi tâm trạng và ý thức toàn bộ nhân dân VN kể cả những thành phần chưa cùng hướng với ta và cả các đảng viên CS với thân nhân của họ. Phổ biến hiểu biết về Dân Chủ, đưa từ ý thức tới hành động, tới quyết tâm vượt qua bậc thềm sợ hãi.
Người Việt phải tự lo lấy số phận mình, không thể nhờ người, không thể chờ người. Đó là mục đích của TRẬN ĐÁNH TRUYỀN THÔNG TÂM LÝ CHIẾN.
Có người sẽ bảo là Chống Cộng kiểu này, ta vẫn làm rồi. Đúng ! Ta có làm và làm cả 34 năm nay rồi, nhưng có lẽ cố gắng vẫn là rời rạc, nỗ lực còn loãng, chưa tập trung, dầu có ý thức nhưng kết quả là đánh chưa tới và đi chưa thấu.
Thứ nhất, đặt mục tiêu ở tầm quan trọng cao nhất, ưu tiên trên hết và phải được chú ý một cách đặc biệt, kiên trì, liên tục với cường độ không sút giảm, dồn dập, không ngưng nghỉ cho tới đạt mục đích.
Thứ nhì, tập trung mọi phương thức hoạt động, mọi lãnh vực và khả năng truyền thông; trong giai đoạn đầu, có thể chú trọng nhiều vào xử dụng mạng lưới vì nhiều điều thuận tiện.
Thứ ba, phải được nghiên cứu và kế hoạch cho kỹ càng, khai thác những thế yếu của VC.
Thứ tư, cần phối hợp hoạt động các mặt trong và ngoài, nhất là truyền bá về Dân Chủ, thông tin về sinh hoạt và đấu tranh dân chủ trên thế giới kể cả nhiệm vụ vạch mặt chế độ CSVN.
Thứ năm, nhu cầu cho mục tiêu quốc nội vì mong sau này sẽ được sự hưởng ứng, tham gia của thêm nhiều nhân vật có khả năng đa diện và cả sự tẩy độc quốc tế.
Đây là trận đánh ở tầm chiến lược, chúng ta chủ động và đánh vào các khuyết tật, các khe hở, yếu kém mà chúng sẽ không làm sao che giấu hay sửa chữa được nữa.
Mọi sự kêu gọi, tham dự, thiết kế kể cả sinh hoạt của ta đều có thể thi hành trên mạng lưới, không gây tốn kém. Người tham dự chỉ cần xử dụng (đóng góp) một cách có ích lợi thì giờ dư rảnh của mình, tại nhà mình như vẫn thường chơi internet,sự tốn kém sẽ chẳng là bao.
Từ nhiều chục năm nay, chúng ta toàn bắn chệch, chưa trúng vào tâm, vào não của con dã thú CSVN để hạ gục nó.
Thấm thoắt đã 34 năm rồi và giờ đây rõ ràng hiểm họa đã kề bên, nhượng đất và biển cho Tầu. Chúng đã cam tâm, nhắm mắt bán nước để giữ đảng. Con đường này sẽ biến Việt Nam thành một tỉnh nhỏ của kẻ thù phương Bắc trong vài thế hệ nữa một cách thật êm đềm. Không hạ mau con thú dữ kia, chúng ta sẽ mất nước !
Cộng Sản Việt Nam đã ngự trị quá lâu và ngày nay chúng đã hiện nguyên hình là một đảng cướp cầm quyền. Tội phản quốc của chúng đã quá rõ ràng và lòng người đã chán ghét, nguyền rủa chúng. Tình thế thích hợp cho một sự chuyển hướng và thay đổi.
Tạo được nhân tâm thuận lợi thì các tổ chức chính trị, các đoàn thể đấu tranh sẽ có cơ hội đi lên dễ dàng. Đó là phần mà ai còn để tâm tới QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM nên đóng góp. Chúng ta mong chờ một ngày mai TOÀN DÂN VIỆT VÙNG DẬY !
Nguyễn Duy Hinh
Cứu nước, con đường đi phải tiếp tục, không thể nản chí, thoái lui.
Cứu nước quả là công trình gian khổ, lênh đênh, ngắn dài theo vận nước. Nhưng khi đối phương cũng đã thật nhiều phen lên thác xuống ghềnh, thất điên bát đảo và phía ta trầy trật, loay hoay chẳng có khả năng lật ngược thế cờ thì trong cuộc đấu, suy cho thấu, ta chẳng thể nhận là cao cường, kẻ đấu tranh chính trị chẳng thể tự cho là cao thủ. Có nhiều điều phải xem xét và tính toán lại. Tình trạng kéo dài đã quá lâu bắt tìm một lối thoát, đòi hỏi một cách giải quyết.
Truyện xưa kể rằng khi Đức Trần Hưng Đạo bệnh nặng, nhà vua trẻ Trần Anh Tôn đến thăm rồi hỏi Ngài về phương lược giữ nước. Sau ba lần quân Nguyên xâm lăng, vua và dân đời Trần luôn luôn bị ám ảnh về hiểm họa từ phương Bắc. Hưng Đạo Vương trình bày một số trường hợp dụng binh rồi ngỏ lời khuyên nhủ : “Ta nhiều lần bị vây bốn mặt nhưng chúng ta, vua tôi đồng tâm, một nhà hòa thuận, cả nước hợp lực, ta đã thắng. Kẻ địch cậy có trường trận, ta có đoản binh, ta đều cả thắng. Quân địch đến ầm ầm như lửa, như bão, thế ấy dễ trị. Nếu như nó thủng thẳng như tằm ăn lá, không cần thắng mau, không hà hiếp dân thì ta khó chống hơn. Cần binh hùng, cần lương tướng và biết quyền biến như đánh cờ vậy. Cốt binh và tướng như con với cha, nên phải biết “nới lỏng sức dân” và thực hành kế sách “rễ sâu, gốc vững”.
“Nới lỏng sức dân “là nuôi dân, dưỡng dân, thu phục nhân tâm. Thực hiện được thì có “rễ sâu, gốc vững”. Đó là lý do triều Trần trị vì được 188 năm trong khi nhà Hồ chỉ đứng có 7 năm, Trần Thủ Độ và Hồ Quí Ly đều làm chuyện thoán nghịch và đã giết hại hàng trăm nội ngoại tôn thất triều trước. Các vua Trần đều là bậc đạo hạnh, tu học cao thâm trong khi Hồ Quí Ly tuy có tài cải cách nhưng làm nhiều điều tàn ác, thất nhân tâm.
Nhìn vào thời nay, các tổ chức quân chính như Hezbollah, Hamas nhỏ bé, yếu ớt mà đứng vững được trước sức mạnh của Do Thái đều là nhờ vào thế dân, sức dân, núp trong dân mà sống, ẩn trong dân mà chống giữ.
Chúng ta có nhận định thứ nhất : “VẤN ĐỀ NỀN TẢNG LÀ LÒNG NGƯỜI. PHẢI BIẾT GÂY THẾ DÂN VÀ DÙNG SỨC DÂN ”.
Phương Đông chúng ta có lời dạy cho các quân vương : “ý dân là ý trời”. Trong các vận động xã hội quan trọng như chiến tranh và cách mạng, động lực chính yếu là “ý dân” mà ta còn gọi là “lòng người”. Hiểu rõ, nắm vững, vận dụng được ý dân là yếu tố tạo ra sức mạnh.
Có bí kíp đó, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã đè bẹp các đảng phái quốc gia, đánh thắng đoàn quân Viễn Chinh Pháp, chiếm được nửa nước năm 1954. Đà thắng lợi của CSVN lên tới cao điểm vào ngày 30-4-1975, làm chủ cả nước. Đó là đỉnh cao chót vót !
Thế rồi, không tránh được biến thiên là một qui luật của vạn vật, đảng CSVN với lòng kiêu ngạo toàn thắng lấn át lý trí, đánh mất khôn ngoan, xa rời quần chúng. Chính nghĩa dân tộc mà Đảng huênh hoang đại diện đã vượt biển đi theo dân Tị Nạn và các Thuyền Nhân (từ cả Nam rồi đến Bắc). Những khuyết tật của tổ chức, những lầm lẫn về chính sách cộng với sự hư hỏng của cán bộ phối hợp với ảnh hưởng của Quốc tế CS sụp đổ đã khiến cho con đường xuống giốc của Đảng thành một định mệnh không thể cưỡng lại.
Nếu 30 tháng tư 1975 là một ngày bi thảm cho Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thì đó cũng là một thời điểm chuyển hướng của “mong đợi ngày mai không cộng sản trên Quê Hương ”. Thực hiện “chủ nghĩa xã hội” đưa “cả nước xuống hố” với khoai, sắn, bo bo và biết bao hành động thất nhân tâm, tàn độc khác khiến “lòng người” chuyển đổi, đi tìm hướng “quốc gia” và “dân chủ”.
Nhưng nếu nói là lòng người đã chuyển hướng không có nghĩa là hoàn cảnh sẵn sàng để tự nhiên đưa tới một sự thay đổi trật tự đất nước. Tình trạng có thể ví như sự mong mỏi tạo được một vài nguồn năng lượng thay thế cho dầu lửa. Nguyên liệu cơ bản thì đầy rẫy trong thiên nhiên, nhưng sự sản xuất năng lượng mới đòi hỏi nhiều điều kiện về hiểu biết và trình độ kỹ thuật chưa sẵn sàng. “Lòng người VN ngày nay” đã có biến đổi thuận lợi nhưng chưa có nghĩa là toàn khối nhân dân đã sẵn sàng cho thay đổi và vẫn còn cần nhiều nỗ lực tôi luyện để có thể thật sự thành khả dụng.
Chúng ta có thể nhận định: “NGƯỜI VIỆT NAM NGÀY NAY, NÓI CHUNG, NGÓNG TRÔNG VỀ HƯỚNG “TỰ DO – DÂN CHỦ”, NHƯNG THỰC TẾ CÒN ĐÒI HỎI NHIỀU SỬA SOẠN, ĐÀO LUYỆN, TỔ CHỨC VÀ LỰC, ĐỂ CÓ THỂ GÂY THÀNH SỨC MẠNH ĐƯA ĐẾN ĐỔI THAY.”
Qui luật là: “đối lại mỗi áp lực đều có một phản lực”. Áp dụng vào đời sống xã hội thì luật ấy đổi thành luật đấu tranh : “ở đâu có đàn áp thì có đấu tranh”.
Ðảng CSVN với chủ trương độc tài, toàn trị, khống chế mọi mặt đời sống nhân dân trên sáu chục năm nay đã gây ra biết bao điều tàn ác, xấu xa. Nó không còn là chính đáng để trị dân, nó phản dân chủ, áp bức, bất công và đã phản lại quyền lợi quốc gia. Nó ung thối, bịp bợm. Luật pháp của chúng là để bảo vệ chế độ, che trở tập đoàn cán bộ lạm quyền, hư hỏng, làm giầu trên đầu, trên cổ người dân. Tình trạng đã tạo ra một xã hội băng hoại về cả vật chất và tinh thần, đầy rẫy nghèo khổ, đàn áp, bất công.
Ở đâu có áp bức thì có chống đối. Sự chống chọi cường quyền nảy mầm và diễn ra thật tự nhiên. Dân mất đất thì dân phản kháng, tự động, vô thức. Chống đối không có kết quả lại bị bắt bớ, đàn áp trở thành quyết liệt, có ý thức, từ sợ hãi, ngần ngại tiến đến liều lĩnh, hết sợ. Phản kháng lẻ loi biến thành tập hợp lớn hơn, từ địa phương đến thành từng tỉnh, từng miền.
Dân khiếu kiện, chống đối gồm mọi thành phần: Dân thành phố mất nhà, nông dân mất đất, mất ruộng, thợ thuyền không đủ sống, đồng bào tôn giáo bị cấm cản, hành hung, sắc tộc bị đàn áp. Bất mãn âm ỉ trong lòng dân nghèo thành phố, dân quê túng đói, ý tưởng cách mạng tự nảy sinh và phát triển, tất cả diễn biến tự nhiên như là theo một qui luật xã hội.
Vài năm gần đây, chúng ta thấy sự tham gia đấu tranh của nhiều luật sư, bác sĩ, giáo sư, văn sĩ, ký giả dủ hạng tuổi, nam và nữ và cả cựu tướng lãnh, cựu sĩ quan cùng nhiều bậc tu hành cao trọng. Người thức giả thường cẩn trọng, tính toán nay như đã cảm được niềm đau của đồng bào, xã hội và của chính mình, đã can đảm dấn thân. Tới giai đoạn này thì sóng ngầm cách mạng có cơ khai triển nhiều hơn vì người chiến sĩ ở tầng lớp hiểu biết cao hơn mang đến cho đấu tranh một số lợi khí mà quần chúng không có: óc tổ chức, sự lãnh đạo, tư tưởng hướng dẫn, phương lược tiến hành và nhất là cán bộ. Nhưng đồng thời, bạo quyền CS phản động gia tăng đàn áp, bắt bớ, giam cầm, bưng bít.
Từ khoảng Giáng sinh 2007, đồng bào Giáo dân VN đã bất ngờ gia nhập đấu tranh chống ngụy quyền CS bằng các cuộc “xuống đường cầu nguyện” đòi nhà và đất, khởi đầu từ Tổng Giáo phận Hà Nội rồi lan rộng tới nhiều nơi khác trong toàn quốc.
Cầu nguyện đấu tranh nhiều lúc đã thật căng thẳng. Nhưng một năm sau, sự quỉ quyệt của CSVN đã khiến cho tình hình Giáo dân có vẻ tạm êm đi. Các tôn giáo khác và đồng bào các giới không cùng đồng loạt đứng lên hưởng ứng. Cuộc tranh đấu chung chưa tiến lên cao hơn nữa. CSVN có vẻ đã tạm thời lập lại được ổn định bằng mưu mô và đàn áp và sự sợ hãi mà chúng đã gây ra nhờ bàn tay mạnh của công an, cảnh sát, tòa án cùng với sự bưng bít thông tin.
Bên cạnh đó: “PHONG TRÀO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH CHƯA TIẾN LÊN CAO ĐỘ ĐƯỢC VÌ HAI YẾU TỐ : SỰ HIỆN DIỆN CỦA MỘT BẬC THỀM SỢ HÃI VÀ SỰ THIẾU VẮNG HỢP ĐỒNG ĐẤU TRANH ”.
Một nguyên tắc: “Thi hành nhiệm vụ dân chủ hóa đất nước, đóng vai trò chính là người trong nước, người hải ngoại chỉ có thể yểm trợ”. Các tổ chức đấu tranh nơi quốc nội chắc hẳn tự biết tìm cách thỏa mãn cho đòi hỏi nhu cầu của mình. Trước hết, ta cần xác định mục tiêu : phải làm gì ? Nói theo binh gia thì là tấn công mục tiêu nào, bằng cách gì, nặng nhẹ ra sao ?
Trước đây trên cả hai thiên kỷ, chính Tôn Tử cũng đã đề cập đến chiến lược gián tiếp khi nhà quân sư bậc thày của phương Đông này dạy rằng thắng lợi đẹp đẽ nhất là thắng mà không phải đánh. Không dụng lực thì chắc là ít thiệt hại, đó là khuyến dụ dùng mưu lược, dùng ngoại giao, dùng tâm lý chiến vậy.
Phối hợp lời khuyên trên đây, chúng ta chọn mục tiêu “trọng tâm sức mạnh của địch”. Trọng tâm này có vẻ như khá phức tạp. Trước hết nó phải là quân đội CSVN, nó cũng có thể là đảng CSVN, hai đích này dường như khó cho ta đụng tới một cách trực tiếp, nhưng nó có thể là lòng người Việt Nam là điều mà hướng đánh đó là thuận, hợp với khả năng của Hải Ngoại.
Đánh vào nhân tâm VN là trận đánh tâm lý chiến. CSVN sẽ khó bịt miệng Hải Ngoại. Chúng ta nhằm chuyển đổi tâm trạng và ý thức toàn bộ nhân dân VN kể cả những thành phần chưa cùng hướng với ta và cả các đảng viên CS với thân nhân của họ. Phổ biến hiểu biết về Dân Chủ, đưa từ ý thức tới hành động, tới quyết tâm vượt qua bậc thềm sợ hãi.
Người Việt phải tự lo lấy số phận mình, không thể nhờ người, không thể chờ người. Đó là mục đích của TRẬN ĐÁNH TRUYỀN THÔNG TÂM LÝ CHIẾN.
Có người sẽ bảo là Chống Cộng kiểu này, ta vẫn làm rồi. Đúng ! Ta có làm và làm cả 34 năm nay rồi, nhưng có lẽ cố gắng vẫn là rời rạc, nỗ lực còn loãng, chưa tập trung, dầu có ý thức nhưng kết quả là đánh chưa tới và đi chưa thấu.
Thứ nhất, đặt mục tiêu ở tầm quan trọng cao nhất, ưu tiên trên hết và phải được chú ý một cách đặc biệt, kiên trì, liên tục với cường độ không sút giảm, dồn dập, không ngưng nghỉ cho tới đạt mục đích.
Thứ nhì, tập trung mọi phương thức hoạt động, mọi lãnh vực và khả năng truyền thông; trong giai đoạn đầu, có thể chú trọng nhiều vào xử dụng mạng lưới vì nhiều điều thuận tiện.
Thứ ba, phải được nghiên cứu và kế hoạch cho kỹ càng, khai thác những thế yếu của VC.
Thứ tư, cần phối hợp hoạt động các mặt trong và ngoài, nhất là truyền bá về Dân Chủ, thông tin về sinh hoạt và đấu tranh dân chủ trên thế giới kể cả nhiệm vụ vạch mặt chế độ CSVN.
Thứ năm, nhu cầu cho mục tiêu quốc nội vì mong sau này sẽ được sự hưởng ứng, tham gia của thêm nhiều nhân vật có khả năng đa diện và cả sự tẩy độc quốc tế.
Đây là trận đánh ở tầm chiến lược, chúng ta chủ động và đánh vào các khuyết tật, các khe hở, yếu kém mà chúng sẽ không làm sao che giấu hay sửa chữa được nữa.
Mọi sự kêu gọi, tham dự, thiết kế kể cả sinh hoạt của ta đều có thể thi hành trên mạng lưới, không gây tốn kém. Người tham dự chỉ cần xử dụng (đóng góp) một cách có ích lợi thì giờ dư rảnh của mình, tại nhà mình như vẫn thường chơi internet,sự tốn kém sẽ chẳng là bao.
Từ nhiều chục năm nay, chúng ta toàn bắn chệch, chưa trúng vào tâm, vào não của con dã thú CSVN để hạ gục nó.
Thấm thoắt đã 34 năm rồi và giờ đây rõ ràng hiểm họa đã kề bên, nhượng đất và biển cho Tầu. Chúng đã cam tâm, nhắm mắt bán nước để giữ đảng. Con đường này sẽ biến Việt Nam thành một tỉnh nhỏ của kẻ thù phương Bắc trong vài thế hệ nữa một cách thật êm đềm. Không hạ mau con thú dữ kia, chúng ta sẽ mất nước !
Cộng Sản Việt Nam đã ngự trị quá lâu và ngày nay chúng đã hiện nguyên hình là một đảng cướp cầm quyền. Tội phản quốc của chúng đã quá rõ ràng và lòng người đã chán ghét, nguyền rủa chúng. Tình thế thích hợp cho một sự chuyển hướng và thay đổi.
Tạo được nhân tâm thuận lợi thì các tổ chức chính trị, các đoàn thể đấu tranh sẽ có cơ hội đi lên dễ dàng. Đó là phần mà ai còn để tâm tới QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM nên đóng góp. Chúng ta mong chờ một ngày mai TOÀN DÂN VIỆT VÙNG DẬY !
Nguyễn Duy Hinh
Ðảng CSVN Còn Sống Ðược Bao Lâu ?
Ðảng CSVN Còn Sống Ðược Bao Lâu ?
Đảng CSVN được thành lập ngày 3/2/1930 tại Hong Kong bởi Hồ Chí Minh. Sau khi về nước, tháng 8/1945 đảng này đã "cướp chính quyền" từ người tay người Pháp, Nhật để dựng nên nước VNĐCCH.
Sau đó mặc dù chính tay họ ký kết hòa ước Genève (1954) chấp nhận phân chia hai miền Bắc Nam, nhưng bằng nhiều thủ đoạn chính trị quân sự, CSVN chẳng những phản bội hòa ước này mà còn vi phạm luôn cả hiệp định Paris (1973), "cướp" nốt miền bằng Nam bằng biến cố 30/4/1975 để lập ra nước CH-XHCN-VN từ ngày 2/7/1976. Tuy nhiên, 34 năm qua quốc khánh hằng năm của VC vẫn giữ là ngày 2/9.
Lẽ ra sau gần nửa thế kỷ chiến tranh huynh đệ tương tàn, hòa bình thống nhất sẽ phải là quãng thời gian hạnh phúc với dân tộc. Nhưng tiếc thay, như chính lời Võ văn Kiệt thừa nhận, đó lại là cảnh "...có hàng triệu người buồn!" Gọi là "được giải phóng" nhưng hóa ra là mất hết tất cả !
Chẳng bao lâu sau những ngày đầu, mọi người đã sớm thất vọng khi thấy có quá nhiều "sâu bọ leo lên làm người" mà không phải những "đỉnh cao trí tuệ" như họ thường rêu raọ Tuy nhiên trước những hứa hẹn dối trá của nhà nước "học tập chỉ có 3 ngày, lo đi sớm mà về" mà hàng vạn người đi mãi không thấy quay về, vì sợ hãi mà mọi người đành phải im lặng.
Cho mãi đến những năm gần đây nhờ thời thế đã thay đổi trước quốc nạn tham nhũng hoành hành ngày một trắng trợn, bên những tách cà phê thiên hạ khắp nơi đã chẳng còn ngần ngại thăm hỏi nhau "chế độ này còn sống được bao lâu" ? tuy nhiên, ngày tàn ấy là ngày nào thì cũng chẳng ai biết nổi!
Trước quá nhiều ẩn số dẫn đến "bí" số, lời khuyên "ôn cổ tri tân" học điều mới từ cái cũ của người xưa dường như đã bị nhiều người bỏ quên. Chế độ phong kiến và cộng sản cùng giống nhau về sự độc đoán: Cha truyền con nối Đảng cử dân bầu, "bên tám lạng, phía nửa cân" rất xứng đôi vừa lứa, cả hai cùng sản sinh ra những triều đại kéo dài lê thê khó ai biết trước ngày kết thúc, phải chăng giữa họ cũng có sự tương đồng vế tuổi tác ?
Trong bảng niên đại, gần một ngàn năm VN bị giặc Tàu phương Bắc đô hộ, lấy 1188 năm độc lập còn lại chia cho 13 triều đại, kết quả "tuổi thọ" trung bình của mỗi triều đại được vào khoảng 90 năm.
Đối với những quốc gia có số tuổi thấp một hai tuổi chục trên thế giới hiện nay, hầu hết đều là những nước có chuyện "rắc rối" nội bộ về sắc tộc hoặc từng "mắc nợ" chủ nghĩa cộng sản như Bosnia và Herzegovina của Tiệp Khắc, Kosovo của Nam Tư cùng khoảng hơn chục quốc gia tách ra khỏi khối Xô Viết. Tuy nhiên nước "CH-XHCN lầm than" chúng ta lại là trường hợp cá biệt, cũng chỉ mới 33 tuổi, còn rất "sữa" , nhưng thay vì bị tách ra lại được trộn vào từ "VN Dân chủ Cộng hòa" và "Mặt trận Giải phóng Miền Nam" . Và vì cả 2 tên tuổi này đều là những "con rối" do "phù thủy" CSVN dựng nên. Do vậy tuổi thật của chế độ hiện nay phải là tuổi của đảng CSVN và so với mức tuổi thọ trung bình 90 trên, với số tuổi 79 họ đang sắp gần đất xa trời !!!
Vấn đề là con số "90" trên khả tín tới đâu, có phải là con số định mệnh đang đợi chờ CSVN hay không ? Việc này chỉ có Trời mới biết được. Tuy nhiên khi đem đối chiếu với qua khứ, nó lại tỏ ra là có cơ sở.
Nhìn lại quãng đường CSVN đảng này đã đi qua, chiến thắng 30/4/1975 chính là đỉnh vinh quang nhất mà họ đã đạt đến ở tuổi 45. Và như những gì chúng ta được chứng kiến trong cuộc sống, thời kỳ thăng hoa nhất của vạn vật luôn xảy ra vào khoảng giữa của chu kỳ tồn tạị Ở người, đó là lứa tuổi trung niên với những thành đạt nhất mà mỗi người có thể vươn tớị Sau cái "đỉnh đời người" này, tất cả đều phải đi xuống, nếu ai chưa hài lòng về mình cũng đành phải ngậm ngùi mà nhường chỗ cho thế hệ nối tiếp vì cơ hội chẳng còn nhiềụ Chu kỳ này nếu diễn tả bằng toán học nó sẽ có dạng một nửa hình, với xuất phát điểm 0 độ - đỉnh điểm 90 và kết thúc là 180 độ, tương ứng với các giá trị 0, +1 và 0 như hình bên. Lấy nửa mảnh đời đã qua của đảng CSVN (1930-1975) ráp vào biểu đồ hình sine này, chúng ta thấy nó diễn tả khá chính xác những gì đã xảy ra với họ cho đến naỵ
Từ đỉnh cao sự nghiệp 1975 nhưng vì quá tham tàn háo thắng mà chẳng bao lâu sau ngày đăng quang, CSVN đã nhanh chóng phạm phải những sai lầm nghiêm trọng:
1. Cứ tạm cho là do vào đầu thế kỷ 20 Hồ Chí Minh phải chọn chủ nghĩa cộng sản vì đó là con đường nhanh nhất thời ấy để giải phóng dân tộc khỏi thực dân Pháp. Nhưng khi nước nhà đã thống nhất và giới lãnh đạo Hà Nội cũng tận mắt chứng kiến một miền Nam phồn vinh, lẽ ra họ phải nhận ra "ưu điểm" duy nhất của CNXH là chỉ giỏi "đánh đấm" và chém giết lẫn nhaụ Trước đây họ chỉ vì muốn qua sông mà phải lụy đò. Cái giá nghèo đói cùng cực của xã hội miền Bắc cộng thêm hàng triệu sinh mạng phải trả trên chiến trường, như thế đã quá đủ để gọi là "trả ơn" chủ nghĩa CS, để từ nay chớ bao giờ rập khuôn lại những tai họa ấy vào miền Nam. Không tập thể hóa nông nghiệp miền Nam, không để xảy ra việc đánh tư sản, không ngăn sông cấm chợ và gây khó dễ tư thương v.v...
Những gì đã xảy ra là hoàn toàn ngược lạị Hà Nội đã đặt phương tiện cộng sản chủ nghĩa lên trên cứu cánh dân tộc!
2. Chẳng những mắc sai lầm với dân chúng trong nước, chiến thắng 30/4 còn khiến CS Hà Nội dưới thời Lê Duẩn lãnh đạo trở nên cao ngạo muốn làm bá chủ cả bán đảo đông dương làm "đàn anh" Cambốt và Làọ Chính vì cái tham vọng điên rồ này mà Hà Nội phải liên minh quân sự với Moscou, hậu quả là đã đẩy VN vào thế đối đầu với TQ bị sa lầy trong những cánh đồng chết của Polpot ở xứ Chùa Tháp. Sai lầm nối tiếp sai lầm, vì "hằn học" TQ đứng sau Khmer Đỏ PolPot, Hà Nội lại quay sang "cắn xé" người Hoa ở Chợ Lớn với chiến dịch đánh tư sản lần 2, khiến tình hình năm 1978 cực kỳ căng thẳng. Chuyện gì phải đến cũng đã đến, họ đã bị chính đàn anh Trung Quốc "dạy cho bài học" để đời tháng 1/1979 và là nguyên nhân trực tiếp khiến VN bị mất Ải Nam Quan cùng thác Bản Giốc vào tay TQ.
Sau bao năm chiến tranh nồi da xáo thịt chưa đủ khổ đau hay sao mà bỗng dưng Hà Nội lại đem ách giữa đàng quàng vào cổ, hay vì vận của kẻ ác luôn dun dủi họ phải làm những chuyện quấy quả đi "tự thắt cổ" mình như vậy ?
Để đánh bại được đội quân VNCH đã từng khiến bộ đội phải phơi xác khắp các mặt trận "mùa hè đỏ lửa" mới ba năm trước (1972) lẽ nào lại là nhờ những lỡ làng "vì không nhận được lệnh trên nên cứ âm thầm chuẩn bị ... nên đành để vậy" ? Biến cố 30/4 là việc quốc gia đại sự nhưng theo lời Võ Nguyên Giáp lại nghe có vẻ giống như chuyện lứa đôi "vì lỡ có con với nhau nên đành phải cưới" !?
Dẫu sao sự thất thủ quá sức nhanh của Sàigòn, nhanh tới mức chỉ trong khoảng 100 ngày cả miền Nam đều rơi vào tay CS đều nằm ngoài khả năng dự đoán của con người ở mọi phía, từ các chuyên gia quân sự hàng đầu ở Ngũ Giác Đài (nếu có thì đã chẳng xảy ra cảnh người Mỹ hốt hoảng trên nóc sứ quán tại Sàigòn ngày 29/4.
Mọi triều đại luôn trải qua 4 giai đoạn: Đấu tranh - Thành lập - Duy trì và Suy thoái, cũng giống như nơi người là "Sinh, Lão, Bệnh, Tử" . Dựa vào cả thực tế cũng như các số liệu lịch sử nêu trên thì đảng CSVN đã đi qua hết 3 giai đoạn hiện đang ở giai đoạn chỉ còn chờ "tử thần".
Ba Lan, quốc gia không chịu ảnh hưởng bởi quan niệm "tôi trung của Nho giáo như VN, ấy vậy mà Công đoàn Đoàn kết từ lúc chính thức công khai cho đến khi lên nắm quyền thay đảng Công nhân Thống nhất (tức đảng CS Ba-Lan) đã phải mất gần chục năm, trong khi nhìn lại lực lượng phong trào đấu tranh dân chủ trong nước mình, Khối 8406 được xem là danh chính ngôn thuận nhất nhưng cho đến nay trong nước có mấy người biết ?
Về phía CSVN, mặc dù nhìn bề ngoài, đảng CSVN luôn tỏ ra tự tin nhưng thật ra thâm tâm họ cũng thừa biết kiểu cai trị độc tài "lề phải" như hiện nay "đất sống" đang bị thu hẹp dần. Chẳng có sự dối trá khéo tô vẽ nào lại có thể tồn tại lâu bằng sự trần trụi của sự thật. Chẳng có loại súng đạn nào có thể bảo vệ sự an toàn cho chế độ cho bằng lòng tin cậy của dân chúng và thực lực kinh tế quốc gia. Sự ra đi của thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra gần đây là minh chứng hùng hồn cho điều nàỵ
Tuy nhiên nếu ai vẫn cố chấp với luận điệu "VN khác Thái, ưu điểm của nước CH-XHCN này là luôn ổn định về chính trị" xin hãy quan sát kỹ những gì Bắc Kinh đã chèn ép Hà Nội trong vụ ký kết hiệp định biên giới vừa qua mà suy nghĩ lại.
Quá trình đàm phán biên giới Việt Trung chúng ta biết đã kéo dài lê thê hơn ba mươi năm qua nhưng vì lẽ gì Bắc Kinh bỗng tỏ ra "sốt ruột" một cách khác thường mấy năm gần đây. Những ngày cuối năm 2008 vừa qua, họ đã cử nguyên một ê-kíp cao cấp sang để "thúc đít" Hà Nội hoàn thành cắm mốc trước 31/12/2008 và những lần ký kết hiệp định trước đây cũng đều diễn ra vào những ngày cùng tháng tận giống như vậỵ
Thật khó tìm được lời giải thích nào thỏa đáng hơn lý do đảng CSTQ cũng không thể biết trước các đồng chí của họ ở Hà Nội còn có thể trụ vững được bao lâu. Trong lúc Hà Nội còn lệ thuộc vào mình lại không tận dụng thời cơ thì còn có cơ hội nào tốt hơn ?
Ngày 3/2/2009 CSVN kỷ niệm sinh nhật lần thứ 79 trong sự lặng lẽ khác thường và theo các tờ báo nhận định thì "Năm nay, việc kỷ niệm 79 năm "ngày thành lập Đảng CSVN" trên các đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí không ồn ào, rầm rộ như mọi năm. Các đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí không có chương trình hoặc đợt tuyên truyền dài ngày nàọ Thông tin về những hoạt động kỷ niệm "79 năm ngày thành lập Đảng CSVN" chỉ được đưa ngắn, gọn cùng với vô số vấn nạn về kinh tế, xã hội đang càng ngày càng trầm trọng."
Đảng CSVN đã bắt đầu cảm thấy " thấm mệt" vì tuổi cao sức yếu rồi chăng ? Chúng ta thật khó mà biết nội tình họ nhưng so với Liên Xô, họ vượt qua được con số 74 còn sống đến nay cũng đã là " có phước" lắm rồi. Thoát chết chẳng phải do đảng này tài cán mà nhờ may mắn. Hai mươi năm trước, dân tộc mới có được "Thiên Thời - Nhân Hòa" nhưng còn thiếu "Địa Lợi" vì VN nằm quá xa Đông Âu, vì vậy mà Hà Nội mới tránh khỏi cơn bão "phản cách mạng" của vùng này hồi ấỵ
Đã thế, VN còn là một trong nhiều quốc gia Châu Á sự tồn vong của chế độ, ngoài các yếu tố chi phối theo sách vở như chính trị, kinh tế v.v... còn bị chi phối nặng bởi quan niệm "Thiên tử" và đặc biệt là thuyết "Thiên mệnh" của Khổng Tử suốt hàng ngàn năm qua.
Mặc dù gần như trái ngược nhau, trong khi " Thiên tử" xem vua là ông "Con Trời" dân chúng chỉ là cỏ rác, "Thiên mệnh" đã tỏ ra "biết điều" hơn, Vua chỉ là người được Trời giao cho Mệnh phục vụ dân. Tuy nhiên vì được Mạnh tử, Khổng Tử khoác lên mình những chiếc áo tôn giáo (đạo đất trời) để truyền bá bằng con đường Nho giáo, "Thiên mệnh" nay bỗng như thành "quới nhân" phù trợ giúp cho các chính thể độc tài trụ được vững vàng thêm. Khi bị bạo quyền chèn ép, dân chúng thay vì dấn thân xuống đường biểu tình đấu tranh giống các nước phương Tây, họ lại đêm đêm thắp nhang cầu trời khấn vái tứ phương, cầu xin Trời Phật ban cho ông tổng bí thư mới "đức" bớt "nông", tài bớt can !?
Chuyện tâm linh với nhà cầm quyền còn "ly kỳ, rùng rợn" hơn. "Cóc chết ba năm quay đầu về núi" vô khối đảng viên đang âm thầm tìm về với đạo giáo hầu mong chờ sự cứu rỗi sau những tháng ngày "đi hoang" . Búc hình chụp nhà Lê Khả Phiêu bị tung lên mạng hôm Tết là minh chúng cho chuyện này, tượng HCM chỉ còn rất khiêm tốn bên bức tượng Phật to lớn. Ngoài ra còn phải kể đến hai ngôi chùa kỳ vĩ bặc nhất Đông Nam Á hiện naỵ Đó là chùa Đại Nam ở Bình Dương và Bái Đính ở Ninh Bình mỗi cái tiêu tốn hàng ngàn tỷ đồng do các thế lực dựa hơi đảng tài trơ.. Họ đua nhau lập ra những kỷ lục mới về "hoành tráng nhất và đắt tiền nhất" với hy vọng giúp đảng trường thọ ? Thói hoang phí tiền bạc của bọn chúng trong lúc hàng triệu dân nghèo khắp nơi thiếu cơm ăn áo mặc, càng khiến chúng ta nhớ đến lời khuyên dạy của nhà Phật "dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người" . CSVN tưởng rằng đang tích đức mà hóa ra càng làm bệ rạc thêm cái đức vốn đã quá mỏng của họ.
Cách sám hối hiệu quả nhất và ít tốn kém nhất mà đảng CSVN có thể "làm phước" cho dân tộc lúc này là hãy tự giải tán mình giống như Đảng Cộng sản Liên Xô từng làm trước kia. Sớm muộn gì cũng chết, nên chọn cho mình cái chết trong danh dự
Thiên Chúa đã tạo dựng được vũ trụ bao la này, trong đó có trái đất, có nước VN, mọi chuyện xảy ra chắc chắn không ai có thể biết rõ hơn Ngài. Một khi đã tin vào Ngài, chúng ta xin phó thác tất cả tương lai, vận mệnh của hơn 84 triệu dân Việt trong tay Ngài. Biến cố Thái Hà và Tòa Khâm Sứ trong năm qua, bằng con mắt đức tin, đó chính là những dấu chỉ của Chúa. Chỉ có những chính thể vận mạng sắp đến hồi tàn, mà nói như ông bà xưa thì họ "hết khôn dồn đến dại" mới lấy tôn giáo ra làm kẻ thù đối đầu thay vì phải quyết liệt và "cạn tàu ráo máng" với những khoảng tối do tham nhũng gây nên mới phải.
Từ nhiều năm trước dư luận trong ngoài nước cũng đã từng biết đến hai câu thơ đoán định mệnh CSVN trong bản trường ca có tên "Bài thơ về gia đình cụ Bá" của tác giả Bạch Tâm-Phạm Hồng Đức trên mạng Đối Thoạị Bài thơ này ngay từ khi mới xuất hiện nó đã gây sự chú ý cho rất nhiều người, lời tiên đoán CSVN sẽ bị tan rã vào đúng năm nay 2009, như sau:
Đảng tan năm sửu cung đoài
Rõ là tuổi Bác, đảng thời bằng nhau
Năm nay là năm Sửu, HCM mất lúc 79 tuổi và năm nay Csvn cũng được đúng 79 tuổi !!!
Dẫu sao, đã gọi là suy đoán mọi người đều có thể đúng hoặc sai và đều là chuyện bình thường. Điều quan trọng hơn cả là qua những suy đoán như vậy, chúng ta mới thấy được rằng trước bao tệ trạng của đất nước do cung cách lãnh đạo độc quyền của đảng CSVN gây nên, chuyện sống còn của đảng này bây giờ chẳng thể xem là việc riêng của họ nữa, mà đang trở thành mối ưu tư chung của rất nhiều người.
Hoàng Gia Bảo
Đảng CSVN được thành lập ngày 3/2/1930 tại Hong Kong bởi Hồ Chí Minh. Sau khi về nước, tháng 8/1945 đảng này đã "cướp chính quyền" từ người tay người Pháp, Nhật để dựng nên nước VNĐCCH.
Sau đó mặc dù chính tay họ ký kết hòa ước Genève (1954) chấp nhận phân chia hai miền Bắc Nam, nhưng bằng nhiều thủ đoạn chính trị quân sự, CSVN chẳng những phản bội hòa ước này mà còn vi phạm luôn cả hiệp định Paris (1973), "cướp" nốt miền bằng Nam bằng biến cố 30/4/1975 để lập ra nước CH-XHCN-VN từ ngày 2/7/1976. Tuy nhiên, 34 năm qua quốc khánh hằng năm của VC vẫn giữ là ngày 2/9.
Lẽ ra sau gần nửa thế kỷ chiến tranh huynh đệ tương tàn, hòa bình thống nhất sẽ phải là quãng thời gian hạnh phúc với dân tộc. Nhưng tiếc thay, như chính lời Võ văn Kiệt thừa nhận, đó lại là cảnh "...có hàng triệu người buồn!" Gọi là "được giải phóng" nhưng hóa ra là mất hết tất cả !
Chẳng bao lâu sau những ngày đầu, mọi người đã sớm thất vọng khi thấy có quá nhiều "sâu bọ leo lên làm người" mà không phải những "đỉnh cao trí tuệ" như họ thường rêu raọ Tuy nhiên trước những hứa hẹn dối trá của nhà nước "học tập chỉ có 3 ngày, lo đi sớm mà về" mà hàng vạn người đi mãi không thấy quay về, vì sợ hãi mà mọi người đành phải im lặng.
Cho mãi đến những năm gần đây nhờ thời thế đã thay đổi trước quốc nạn tham nhũng hoành hành ngày một trắng trợn, bên những tách cà phê thiên hạ khắp nơi đã chẳng còn ngần ngại thăm hỏi nhau "chế độ này còn sống được bao lâu" ? tuy nhiên, ngày tàn ấy là ngày nào thì cũng chẳng ai biết nổi!
Trước quá nhiều ẩn số dẫn đến "bí" số, lời khuyên "ôn cổ tri tân" học điều mới từ cái cũ của người xưa dường như đã bị nhiều người bỏ quên. Chế độ phong kiến và cộng sản cùng giống nhau về sự độc đoán: Cha truyền con nối Đảng cử dân bầu, "bên tám lạng, phía nửa cân" rất xứng đôi vừa lứa, cả hai cùng sản sinh ra những triều đại kéo dài lê thê khó ai biết trước ngày kết thúc, phải chăng giữa họ cũng có sự tương đồng vế tuổi tác ?
Trong bảng niên đại, gần một ngàn năm VN bị giặc Tàu phương Bắc đô hộ, lấy 1188 năm độc lập còn lại chia cho 13 triều đại, kết quả "tuổi thọ" trung bình của mỗi triều đại được vào khoảng 90 năm.
Đối với những quốc gia có số tuổi thấp một hai tuổi chục trên thế giới hiện nay, hầu hết đều là những nước có chuyện "rắc rối" nội bộ về sắc tộc hoặc từng "mắc nợ" chủ nghĩa cộng sản như Bosnia và Herzegovina của Tiệp Khắc, Kosovo của Nam Tư cùng khoảng hơn chục quốc gia tách ra khỏi khối Xô Viết. Tuy nhiên nước "CH-XHCN lầm than" chúng ta lại là trường hợp cá biệt, cũng chỉ mới 33 tuổi, còn rất "sữa" , nhưng thay vì bị tách ra lại được trộn vào từ "VN Dân chủ Cộng hòa" và "Mặt trận Giải phóng Miền Nam" . Và vì cả 2 tên tuổi này đều là những "con rối" do "phù thủy" CSVN dựng nên. Do vậy tuổi thật của chế độ hiện nay phải là tuổi của đảng CSVN và so với mức tuổi thọ trung bình 90 trên, với số tuổi 79 họ đang sắp gần đất xa trời !!!
Vấn đề là con số "90" trên khả tín tới đâu, có phải là con số định mệnh đang đợi chờ CSVN hay không ? Việc này chỉ có Trời mới biết được. Tuy nhiên khi đem đối chiếu với qua khứ, nó lại tỏ ra là có cơ sở.
Nhìn lại quãng đường CSVN đảng này đã đi qua, chiến thắng 30/4/1975 chính là đỉnh vinh quang nhất mà họ đã đạt đến ở tuổi 45. Và như những gì chúng ta được chứng kiến trong cuộc sống, thời kỳ thăng hoa nhất của vạn vật luôn xảy ra vào khoảng giữa của chu kỳ tồn tạị Ở người, đó là lứa tuổi trung niên với những thành đạt nhất mà mỗi người có thể vươn tớị Sau cái "đỉnh đời người" này, tất cả đều phải đi xuống, nếu ai chưa hài lòng về mình cũng đành phải ngậm ngùi mà nhường chỗ cho thế hệ nối tiếp vì cơ hội chẳng còn nhiềụ Chu kỳ này nếu diễn tả bằng toán học nó sẽ có dạng một nửa hình, với xuất phát điểm 0 độ - đỉnh điểm 90 và kết thúc là 180 độ, tương ứng với các giá trị 0, +1 và 0 như hình bên. Lấy nửa mảnh đời đã qua của đảng CSVN (1930-1975) ráp vào biểu đồ hình sine này, chúng ta thấy nó diễn tả khá chính xác những gì đã xảy ra với họ cho đến naỵ
Từ đỉnh cao sự nghiệp 1975 nhưng vì quá tham tàn háo thắng mà chẳng bao lâu sau ngày đăng quang, CSVN đã nhanh chóng phạm phải những sai lầm nghiêm trọng:
1. Cứ tạm cho là do vào đầu thế kỷ 20 Hồ Chí Minh phải chọn chủ nghĩa cộng sản vì đó là con đường nhanh nhất thời ấy để giải phóng dân tộc khỏi thực dân Pháp. Nhưng khi nước nhà đã thống nhất và giới lãnh đạo Hà Nội cũng tận mắt chứng kiến một miền Nam phồn vinh, lẽ ra họ phải nhận ra "ưu điểm" duy nhất của CNXH là chỉ giỏi "đánh đấm" và chém giết lẫn nhaụ Trước đây họ chỉ vì muốn qua sông mà phải lụy đò. Cái giá nghèo đói cùng cực của xã hội miền Bắc cộng thêm hàng triệu sinh mạng phải trả trên chiến trường, như thế đã quá đủ để gọi là "trả ơn" chủ nghĩa CS, để từ nay chớ bao giờ rập khuôn lại những tai họa ấy vào miền Nam. Không tập thể hóa nông nghiệp miền Nam, không để xảy ra việc đánh tư sản, không ngăn sông cấm chợ và gây khó dễ tư thương v.v...
Những gì đã xảy ra là hoàn toàn ngược lạị Hà Nội đã đặt phương tiện cộng sản chủ nghĩa lên trên cứu cánh dân tộc!
2. Chẳng những mắc sai lầm với dân chúng trong nước, chiến thắng 30/4 còn khiến CS Hà Nội dưới thời Lê Duẩn lãnh đạo trở nên cao ngạo muốn làm bá chủ cả bán đảo đông dương làm "đàn anh" Cambốt và Làọ Chính vì cái tham vọng điên rồ này mà Hà Nội phải liên minh quân sự với Moscou, hậu quả là đã đẩy VN vào thế đối đầu với TQ bị sa lầy trong những cánh đồng chết của Polpot ở xứ Chùa Tháp. Sai lầm nối tiếp sai lầm, vì "hằn học" TQ đứng sau Khmer Đỏ PolPot, Hà Nội lại quay sang "cắn xé" người Hoa ở Chợ Lớn với chiến dịch đánh tư sản lần 2, khiến tình hình năm 1978 cực kỳ căng thẳng. Chuyện gì phải đến cũng đã đến, họ đã bị chính đàn anh Trung Quốc "dạy cho bài học" để đời tháng 1/1979 và là nguyên nhân trực tiếp khiến VN bị mất Ải Nam Quan cùng thác Bản Giốc vào tay TQ.
Sau bao năm chiến tranh nồi da xáo thịt chưa đủ khổ đau hay sao mà bỗng dưng Hà Nội lại đem ách giữa đàng quàng vào cổ, hay vì vận của kẻ ác luôn dun dủi họ phải làm những chuyện quấy quả đi "tự thắt cổ" mình như vậy ?
Để đánh bại được đội quân VNCH đã từng khiến bộ đội phải phơi xác khắp các mặt trận "mùa hè đỏ lửa" mới ba năm trước (1972) lẽ nào lại là nhờ những lỡ làng "vì không nhận được lệnh trên nên cứ âm thầm chuẩn bị ... nên đành để vậy" ? Biến cố 30/4 là việc quốc gia đại sự nhưng theo lời Võ Nguyên Giáp lại nghe có vẻ giống như chuyện lứa đôi "vì lỡ có con với nhau nên đành phải cưới" !?
Dẫu sao sự thất thủ quá sức nhanh của Sàigòn, nhanh tới mức chỉ trong khoảng 100 ngày cả miền Nam đều rơi vào tay CS đều nằm ngoài khả năng dự đoán của con người ở mọi phía, từ các chuyên gia quân sự hàng đầu ở Ngũ Giác Đài (nếu có thì đã chẳng xảy ra cảnh người Mỹ hốt hoảng trên nóc sứ quán tại Sàigòn ngày 29/4.
Mọi triều đại luôn trải qua 4 giai đoạn: Đấu tranh - Thành lập - Duy trì và Suy thoái, cũng giống như nơi người là "Sinh, Lão, Bệnh, Tử" . Dựa vào cả thực tế cũng như các số liệu lịch sử nêu trên thì đảng CSVN đã đi qua hết 3 giai đoạn hiện đang ở giai đoạn chỉ còn chờ "tử thần".
Ba Lan, quốc gia không chịu ảnh hưởng bởi quan niệm "tôi trung của Nho giáo như VN, ấy vậy mà Công đoàn Đoàn kết từ lúc chính thức công khai cho đến khi lên nắm quyền thay đảng Công nhân Thống nhất (tức đảng CS Ba-Lan) đã phải mất gần chục năm, trong khi nhìn lại lực lượng phong trào đấu tranh dân chủ trong nước mình, Khối 8406 được xem là danh chính ngôn thuận nhất nhưng cho đến nay trong nước có mấy người biết ?
Về phía CSVN, mặc dù nhìn bề ngoài, đảng CSVN luôn tỏ ra tự tin nhưng thật ra thâm tâm họ cũng thừa biết kiểu cai trị độc tài "lề phải" như hiện nay "đất sống" đang bị thu hẹp dần. Chẳng có sự dối trá khéo tô vẽ nào lại có thể tồn tại lâu bằng sự trần trụi của sự thật. Chẳng có loại súng đạn nào có thể bảo vệ sự an toàn cho chế độ cho bằng lòng tin cậy của dân chúng và thực lực kinh tế quốc gia. Sự ra đi của thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra gần đây là minh chứng hùng hồn cho điều nàỵ
Tuy nhiên nếu ai vẫn cố chấp với luận điệu "VN khác Thái, ưu điểm của nước CH-XHCN này là luôn ổn định về chính trị" xin hãy quan sát kỹ những gì Bắc Kinh đã chèn ép Hà Nội trong vụ ký kết hiệp định biên giới vừa qua mà suy nghĩ lại.
Quá trình đàm phán biên giới Việt Trung chúng ta biết đã kéo dài lê thê hơn ba mươi năm qua nhưng vì lẽ gì Bắc Kinh bỗng tỏ ra "sốt ruột" một cách khác thường mấy năm gần đây. Những ngày cuối năm 2008 vừa qua, họ đã cử nguyên một ê-kíp cao cấp sang để "thúc đít" Hà Nội hoàn thành cắm mốc trước 31/12/2008 và những lần ký kết hiệp định trước đây cũng đều diễn ra vào những ngày cùng tháng tận giống như vậỵ
Thật khó tìm được lời giải thích nào thỏa đáng hơn lý do đảng CSTQ cũng không thể biết trước các đồng chí của họ ở Hà Nội còn có thể trụ vững được bao lâu. Trong lúc Hà Nội còn lệ thuộc vào mình lại không tận dụng thời cơ thì còn có cơ hội nào tốt hơn ?
Ngày 3/2/2009 CSVN kỷ niệm sinh nhật lần thứ 79 trong sự lặng lẽ khác thường và theo các tờ báo nhận định thì "Năm nay, việc kỷ niệm 79 năm "ngày thành lập Đảng CSVN" trên các đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí không ồn ào, rầm rộ như mọi năm. Các đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí không có chương trình hoặc đợt tuyên truyền dài ngày nàọ Thông tin về những hoạt động kỷ niệm "79 năm ngày thành lập Đảng CSVN" chỉ được đưa ngắn, gọn cùng với vô số vấn nạn về kinh tế, xã hội đang càng ngày càng trầm trọng."
Đảng CSVN đã bắt đầu cảm thấy " thấm mệt" vì tuổi cao sức yếu rồi chăng ? Chúng ta thật khó mà biết nội tình họ nhưng so với Liên Xô, họ vượt qua được con số 74 còn sống đến nay cũng đã là " có phước" lắm rồi. Thoát chết chẳng phải do đảng này tài cán mà nhờ may mắn. Hai mươi năm trước, dân tộc mới có được "Thiên Thời - Nhân Hòa" nhưng còn thiếu "Địa Lợi" vì VN nằm quá xa Đông Âu, vì vậy mà Hà Nội mới tránh khỏi cơn bão "phản cách mạng" của vùng này hồi ấỵ
Đã thế, VN còn là một trong nhiều quốc gia Châu Á sự tồn vong của chế độ, ngoài các yếu tố chi phối theo sách vở như chính trị, kinh tế v.v... còn bị chi phối nặng bởi quan niệm "Thiên tử" và đặc biệt là thuyết "Thiên mệnh" của Khổng Tử suốt hàng ngàn năm qua.
Mặc dù gần như trái ngược nhau, trong khi " Thiên tử" xem vua là ông "Con Trời" dân chúng chỉ là cỏ rác, "Thiên mệnh" đã tỏ ra "biết điều" hơn, Vua chỉ là người được Trời giao cho Mệnh phục vụ dân. Tuy nhiên vì được Mạnh tử, Khổng Tử khoác lên mình những chiếc áo tôn giáo (đạo đất trời) để truyền bá bằng con đường Nho giáo, "Thiên mệnh" nay bỗng như thành "quới nhân" phù trợ giúp cho các chính thể độc tài trụ được vững vàng thêm. Khi bị bạo quyền chèn ép, dân chúng thay vì dấn thân xuống đường biểu tình đấu tranh giống các nước phương Tây, họ lại đêm đêm thắp nhang cầu trời khấn vái tứ phương, cầu xin Trời Phật ban cho ông tổng bí thư mới "đức" bớt "nông", tài bớt can !?
Chuyện tâm linh với nhà cầm quyền còn "ly kỳ, rùng rợn" hơn. "Cóc chết ba năm quay đầu về núi" vô khối đảng viên đang âm thầm tìm về với đạo giáo hầu mong chờ sự cứu rỗi sau những tháng ngày "đi hoang" . Búc hình chụp nhà Lê Khả Phiêu bị tung lên mạng hôm Tết là minh chúng cho chuyện này, tượng HCM chỉ còn rất khiêm tốn bên bức tượng Phật to lớn. Ngoài ra còn phải kể đến hai ngôi chùa kỳ vĩ bặc nhất Đông Nam Á hiện naỵ Đó là chùa Đại Nam ở Bình Dương và Bái Đính ở Ninh Bình mỗi cái tiêu tốn hàng ngàn tỷ đồng do các thế lực dựa hơi đảng tài trơ.. Họ đua nhau lập ra những kỷ lục mới về "hoành tráng nhất và đắt tiền nhất" với hy vọng giúp đảng trường thọ ? Thói hoang phí tiền bạc của bọn chúng trong lúc hàng triệu dân nghèo khắp nơi thiếu cơm ăn áo mặc, càng khiến chúng ta nhớ đến lời khuyên dạy của nhà Phật "dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người" . CSVN tưởng rằng đang tích đức mà hóa ra càng làm bệ rạc thêm cái đức vốn đã quá mỏng của họ.
Cách sám hối hiệu quả nhất và ít tốn kém nhất mà đảng CSVN có thể "làm phước" cho dân tộc lúc này là hãy tự giải tán mình giống như Đảng Cộng sản Liên Xô từng làm trước kia. Sớm muộn gì cũng chết, nên chọn cho mình cái chết trong danh dự
Thiên Chúa đã tạo dựng được vũ trụ bao la này, trong đó có trái đất, có nước VN, mọi chuyện xảy ra chắc chắn không ai có thể biết rõ hơn Ngài. Một khi đã tin vào Ngài, chúng ta xin phó thác tất cả tương lai, vận mệnh của hơn 84 triệu dân Việt trong tay Ngài. Biến cố Thái Hà và Tòa Khâm Sứ trong năm qua, bằng con mắt đức tin, đó chính là những dấu chỉ của Chúa. Chỉ có những chính thể vận mạng sắp đến hồi tàn, mà nói như ông bà xưa thì họ "hết khôn dồn đến dại" mới lấy tôn giáo ra làm kẻ thù đối đầu thay vì phải quyết liệt và "cạn tàu ráo máng" với những khoảng tối do tham nhũng gây nên mới phải.
Từ nhiều năm trước dư luận trong ngoài nước cũng đã từng biết đến hai câu thơ đoán định mệnh CSVN trong bản trường ca có tên "Bài thơ về gia đình cụ Bá" của tác giả Bạch Tâm-Phạm Hồng Đức trên mạng Đối Thoạị Bài thơ này ngay từ khi mới xuất hiện nó đã gây sự chú ý cho rất nhiều người, lời tiên đoán CSVN sẽ bị tan rã vào đúng năm nay 2009, như sau:
Đảng tan năm sửu cung đoài
Rõ là tuổi Bác, đảng thời bằng nhau
Năm nay là năm Sửu, HCM mất lúc 79 tuổi và năm nay Csvn cũng được đúng 79 tuổi !!!
Dẫu sao, đã gọi là suy đoán mọi người đều có thể đúng hoặc sai và đều là chuyện bình thường. Điều quan trọng hơn cả là qua những suy đoán như vậy, chúng ta mới thấy được rằng trước bao tệ trạng của đất nước do cung cách lãnh đạo độc quyền của đảng CSVN gây nên, chuyện sống còn của đảng này bây giờ chẳng thể xem là việc riêng của họ nữa, mà đang trở thành mối ưu tư chung của rất nhiều người.
Hoàng Gia Bảo
TRÁO TRỞ VÀ NGỤY BIỆN
TRÁO TRỞ VÀ NGỤY BIỆN
Vừa bước vào đầu năm dương lịch 2009, người Việt tại Mỹ đã đồng loạt xuống đường để dạy cho các bạn trẻ một bài học khi nhóm nầy thi hành lệnh quan thầy Hà Nội mang hình ảnh già Hồ và cờ Máu ra công khai thách đố cộng đồng. Nhóm trẻ cứng đầu nầy sống ở Mỹ nhưng xử dụng luật rừng Việt Nam, bất chấp luật lệ của chính quyền, khai trương phòng triển lãm không giấy phép ngay trong lòng thủ đô tỵ nạn và nhân danh nghệ thuật để trắng trợn lồng vào đó một chương trình tuyên truyền hạ cấp bằng cách trưng hình già Hồ cùng cờ máu và đồng thời nhục mạ cờ Vàng Quốc Gia. Cộng đồng người Việt chưa dạy xong bài học thì chính quyền Mỹ đã giải tán vì đây là một cuộc triển lãm lậu tổ chức bởi những người tự xưng là văn minh !
Nếu thành phần tổ chức là bọn nằm vùng hoặc du sinh con ông cháu cha hay thuộc đám có mồi ăn lương tháng thì đối với tôi không gì ngạc nhiên, vì những việc vừa xảy ra đều nằm trong kế hoạch của nghị quyết 36. Phản ứng của nhiều hội đoàn, tổ chức tôn giáo, đảng phái cũng như nhân sĩ, nhà văn, nhà báo đã lên tiếng ngay từ đầu và trong tương lai sẽ còn nhiều biện pháp kế tiếp để hỏi tội thành phần ngoan cố nầy. Sự việc xảy ra từ bên chân trời Mỹ, nhưng khi biết những người cầm đầu tổ chức, nhất là nhiếp ảnh gia Brian Đoàn (con một vị cựu sĩ quan an ninh của QLVNCH) cùng với một số bạn trẻ khác thuộc thành phần con cháu gia đình tỵ nạn, thì dù ở xa nhưng tôi thấy thật xót xa trong lòng. Dù chương trình triển lãm đã bị hủy bỏ nửa chừng nhưng tôi cũng xin mượn cơ hội nầy để nói chuyện với những bạn trẻ trong ban tổ chức, vì các bạn nầy đã họp báo tự bào chữa rằng, họ chính là con cháu thuộc thế hệ một rưỡi, thế hệ hai của những người chạy trốn cộng sản !
Bài viết không cần đề cập đến những phần tử có mặt trong ban tổ chức thuộc bọn nằm vùng, du sinh, cò mồi hoặc vượt biên vì kinh tế. Tôi chỉ muốn nói chuyện với những bạn trẻ đã quên hoặc chối bỏ gốc tỵ nạn của mình, hay những ai vẫn còn xác nhận mình là con cháu của những người đã bỏ xứ ra đi vì cộng sản nhưng lại nhẫn tâm ngậm nọc độc của kẻ thù để phun vào mặt cha ông mình !
Tôi nghĩ rằng những lời sau đây là một hình thức đối thoại giữa một người già đáng tuổi chú bác với những bạn trẻ cứng đầu thuộc tổ chức VAALA. Là một hình thức đối thoại giữa thế hệ trẻ hải ngoại – thành phần chưa biết gì về cộng sản - với một người đã một đời trực diện sống chết cùng kẻ thù. Và cũng là hình thức đối thoại giữa một người đã chiến đấu, cầm chân địch đến giây phút cuối để cho gia đình các bạn trẻ an toàn xuống ghe tàu tìm đường ra biển. Hơn nữa, người viết tuổi đời đã quá 70, đầu óc vẫn sáng suốt, khả năng và kiến thức văn hóa cũng như nghệ thuật vẫn còn hơn xa các bạn trẻ trong ban tổ chức, vậy tôi nghĩ rằng, tôi đủ tư cách để nói chuyện tình cảm hoặc phải quấy (hiểu nghĩa nào cũng được) với bất cứ bạn trẻ nào đã lợi dụng hai chữ nghệ thuật, tráo trở và thách đố bằng vũ khí cộng sản để đâm vào mặt cha mẹ, bạn bè, dòng họ, cộng đồng… là những người thân tình ruột thịt đã một thời thương yêu, chăm sóc, đùm bọc và nuôi dưỡng để các bạn trở thành những nghệ sĩ vô ơn ngày nay !
Các bạn xác nhận thuộc thế hệ một rưỡi (nghĩa là bỏ nước theo cha mẹ khi vừa có trí khôn, có thể tính từ 8 đến 15 tuổi) và thế hệ hai (chưa có trí khôn hoặc chào đời ở hải ngoại), vậy các bạn thuộc thế hệ một rưỡi có hình dung được ngày trốn chui xuống tàu hay chen nhau lên máy bay, các bạn là những đứa trẻ miệng còn hôi sữa, áo quần rách rưới, mặt mày hốc hác như kẻ đói cơm cùng cha mẹ đổi mạng sống đi tìm tự do… Đặt chân lên xứ người, dân địa phương xem các bạn là những người ăn xin, vượt biên vì kinh tế ! Nhưng vinh dự thay cho người Việt và phải cám ơn các bạn trẻ, ngày nay họ đã có một lối nhìn trái ngược hẳn với những gì trước đây, có thể nói là kính phục, vì người tỵ nạn đã sớm hội nhập, thành công và chiếm những địa vị quan trọng ngay trên quê hương của họ, nhất là thành phần trẻ mà trong đó có các bạn. Tôi hoan nghênh và cảm phục ý chí, tính cần cù siêng năng và trí thông minh của các bạn trẻ, nhưng có một điều tôi cần phải nói thật và nói thẳng, các bạn đừng tự mãn và vô ơn ! Nhờ ai đã nuôi dưỡng và tạo môi trường tốt để giúp các bạn thành công ngày nay ?
Phải nhớ rằng, khi bỏ nước ra đi trên người chỉ còn mảnh áo che thân, chính gia đình cha mẹ các bạn phải thắt lưng buộc bụng, chịu đựng tủi nhục, đổ mồ hôi sôi nước mắt, chịu khó cần kiệm… Ngày lượm lon, cắt cỏ, gánh hàng, rửa rau, đổ rác, quét chợ, tối về đơm nút, may áo, sáng sớm chạy bỏ báo cho kịp giờ… để lo cho các bạn trong buổi đầu. Đành rằng các bạn thành công trên đường học vấn là nhờ trí thông minh, siêng năng học hành và ân huệ của chính phủ Mỹ để ngày nay trở thành công chức cao cấp, bác sĩ, kỹ sư, họa sĩ, nhiếp ảnh gia… Nhưng phải nhìn thật gần và thật kỹ để thấy rằng bằng cấp của các bạn đã nhuốm đầy mồ hôi, nước mắt và xương máu của những người khác.
Có lẽ đọc đến đây có bạn đã tỉnh ngộ để nhận ra rằng mồ hôi và nước mắt là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, nhưng còn xương máu ? Tôi xin thưa ngay, đó là xương máu của những người đã nằm xuống trong cuộc chiến, đã xả thân bảo vệ đất nước, đã cầm chân địch cho các bạn an toàn chạy trốn, đã chết trong các trại tù cộng sản hoặc đã bỏ mình giữa lòng đại dương
…Chính những đau thương chết chóc nầy đã đánh động lòng người, đã giúp cho thế giới tự do thấy và hiểu được thế nào là cộng sản để họ mở rộng vòng tay ôm các bạn vào lòng, sẵn sàng nuôi dưỡng, trợ cấp giúp phương tiện để các bạn có cơ hội làm lại cuộc đời… Nếu không có xương máu của những người nằm xuống đánh động lương tâm nhân loại thúc đẩy cả thế giới vớt nạn nhân trên biển, đón người trong các trại tỵ nạn, lập ra chương trình HO, đoàn tụ gia đình, đưa con lai đi tìm cha mẹ… thì giờ đây chắc các bạn còn vướng tại Việt Nam và đã trở thành cặn bã của chế độ cộng sản, những lao động nô lệ chờ gọi tên đi bán mồ hôi, lấy chồng và làm đĩ khắp thế giới và con cháu các bạn là thành phần nồng cốt của cái bang bị gậy hoặc đầu nậu trong các băng đảng móc túi.
Tại sao cha mẹ, người thân các bạn phải trốn chạy ? Vì gia đình các bạn cũng như hàng triệu người miền Nam khác không chấp nhận chế độ cộng sản mà già Hồ và cờ máu là biểu tượng của một tập đoàn khát máu đã đày đọa nhân dân Việt Nam trên 60 năm qua. Như vậy, các bạn vinh danh già Hồ và cờ máu tại thủ đô tỵ nạn không khác gì chính các bạn đang đưa tay tát vào mặt cha mẹ và đồng hương của mình. Thế thì đạo nghĩa ở đâu ? Tình người ở đâu ? Các bạn phải biết rằng một người sinh ra và lớn lên, nếu được giáo dục bởi một nền văn hóa nhân bản thì không thể mất tình người, mất lý trí như một loài thú hoang …Hãy mở mắt ra để xem, hãy mở tai ra để nghe những gì mà chính người Việt hiện nay, trong quốc nội cũng như trên toàn cỏi năm châu, đã đánh giá về thần tượng già Hồ và cờ máu của các bạn :
Theo thiển ý của tôi, hội họa, nhiếp ảnh và tạo hình là một bộ môn nghệ thuật mà người nghệ sĩ đã xử dụng đôi mắt, bàn tay và khối óc sáng tạo của mình để lưu lại hậu thế những hình ảnh trung thực, thẩm mỹ, có giá trị không gian và thời gian, mang tính chất nhân bản, hướng thiện để góp phần phục vụ con người hầu nâng cao vẻ đẹp cao quý của Chân Thiện Mỹ. Nhưng tại sao ban tổ chức VAALA lại đem những hình ảnh tội ác vào nghệ thuật ? Phải chăng đây là âm mưu lợi dụng nghệ thuật để tuyên truyền chính trị một cách bất chính. Vì cá nhân già Hồ và cờ máu chẳng có gì gọi là nghệ thuật mà chính là hình ảnh đau thương, nước mắt và xương máu của dân tộc Việt Nam
Thật vậy, già Hồ là tội đồ của dân tộc, một thanh niên với hàng chục tên giả, chẳng có lý tưởng gì với quốc gia dân tộc. Thời trẻ trốn xuống tàu tha phương cầu thực mong được trở thành công chức của thực dân, nhưng mộng ước không thành nên phải bám vào gấu quần cộng sản quốc tế rồi mang chủ nghĩa Max-Lê về nhuộm đỏ tổ quốc Việt Nam. Chính y đã âm mưu, lừa lọc, hãm hại và bán đứng cho thực dân Tây cũng như phát xít Nhật các nhà cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chống ngoại xâm. Chính y đã ra lệnh Phạm Văn Đồng ký giấy bán đất nhượng biển cho quan thầy Tàu Cộng do đó ngày nay Việt Nam trở thành thuộc địa của bọn Tàu đỏ. Chính y đã vay nợ 'anh em xã hội chủ nghĩa' hàng trăm tỷ vũ khí đạn dược để đưa về giết hại đồng bào ruột thịt. Bọn đàn em dù tận tình cướp của, bóp họng dân chúng và dùng lúa gạo, dầu thô để trả nợ từ mấy chục năm nay nhưng vẫn chưa dứt điểm. Tính đến năm 2008 cộng sản Việt Nam vẫn còn thiếu Tàu đỏ và Nga trên 30 tỷ dollars, do đó Hà nội bắt buộc phải ký hiến thêm đất thêm biển để làm vui lòng quan thầy. Chính y đã giết hại hàng triệu người miền Bắc dưới chiêu bài 'cải cách ruộng đất' (còn gọi là đấu tố) sau khi cướp xong chính quyền năm 1945 và cũng chính y đã ra lệnh đánh chiếm miền Nam năm Mật Thân 1968, chôn sống trên 5000 người tại Huế. Chính y đã gây bao cảnh tang thương chết chóc cho đồng bào vô tội của chính thể Việt Nam Cọng Hòa, cha mẹ mất con, anh mất em, vợ mất chồng, gia đình tan nát. Chính y đã ra lệnh xua quân vào xâm chiếm miền Nam, cướp bóc tài sản rồi đẩy hàng triệu gia đình đi vùng kinh tế mới cũng như lập hàng ngàn trại tù để giam giữ thành phần quân cán chính của chế độ VNCH, trong đó cha mẹ các bạn là nạn nhân !!!
Về phương diện đạo đức, già Hồ là một tên dâm dục tàn bạo vô lương tâm, chính y chẳng những công khai ăn ở với đủ hạng người từ Kinh, Thượng đến Tây, Tàu. Cướp vợ thuộc cấp, sinh con đẻ cái rồi ra lệnh giết vợ, giết người tình để phi tang hầu giữ được tiếng 'trai trinh', 'cha già dân tộc' và 'thần tượng chế độ' ….
Đề cập đến văn hóa thì già Hồ là một tên vô liêm sĩ bằng cách tự tay viết sách ca tụng mình, ăn cắp văn thơ của người khác để biến thành tác phẩm của mình. Ra lệnh cho đám bồi bút đánh bóng, biến ác quỷ Hồ trở thành thần tượng của đất nước ! Như vậy già Hồ chỉ được sắp hạng đứng đầu một băng đảng tội phạm chứ không thể đưa lên làm lãnh tụ đất nước hoặc cha già dân tộc…
Ngày nay, bộ mặt gian dối tội lỗi của già Hồ đã bị lột trần trước ánh sáng. Chính UNESCO đã kịp thời tỉnh ngộ, ngưng ngay chương trình vinh danh già Hồ sau khi phám phá những điều nhơ bẩn nhục nhã chung quanh 'thần tượng' do những tên nằm vùng trong tổ chức lừa bịp dựng lên. Vậy các bạn trẻ còn lý do gì để đem hình già Hồ ra trưng bày và thách đố với cộng đồng người Việt tỵ nạn ?
Cờ đỏ sao vàng là cờ của băng đảng cộng sản, không thể gán ép để trở thành biểu tượng của một quốc gia, của một dân tộc vì * Cờ đỏ sao vàng không mang một ý nghĩa nào liên hệ với nguồn gốc, địa lý, dân tộc, lịch sử hay văn hóa của Việt Nam. Cờ máu là con đẻ từ hai lá cờ đàn anh, Đỏ Búa Liềm của Liên Sô cộng sản và Đỏ Năm Sao Vàng của Tàu cộng. Cờ đỏ do đảng vẽ rập theo các nước đàn anh, gồm màu đỏ tượng trưng cho máu, cho đấu tranh giai cấp và một sao duy nhất chính là đảng cộng sản. Cờ đảng nầy được áp đặt lên đầu dân tộc khi già Hồ và tập đoàn cướp được chính quyền. Vậy có chút gì vinh dự để xưng là cờ của Việt Nam ! Gọi là cờ 'máu' nhưng không phải vì miếng vải đỏ mà là máu của tang thương chết chóc, tanh hôi thoát ra từ hàng triệu người đã tức tưởi nằm xuống ở những nơi nào có bóng dáng quân cộng sản.
Những nơi nào cờ máu xuất hiện thì dân chúng phải bỏ nhà cửa, bồng bế nhau chạy trốn như Bình Long, Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972 và nhất là năm 1975, cả triệu người phải bỏ xứ ra đi khi quân cộng sản vào chiếm miền Nam. Bây giờ cờ máu đem ra trưng bày để thách thức với cộng đồng người Việt tại thủ đô tỵ nạn là một việc làm vô liêm sĩ của những người không có quả tim và bộ não.
Đã từ lâu tôi ao ước một cơ hội để trao đổi trực tiếp với các bạn trẻ tại Mỹ hầu hy vọng giải tỏa cho cá nhân tôi cũng như cho chính bản thân các bạn trẻ những ấm ức về quan niệm chính trị và hành động tranh đấu mà các bạn trẻ thường kiếm dịp tỏ thái độ cao ngạo, khinh thường tập thể người Việt tỵ nạn, kể luôn cha mẹ các bạn, anh em cô chú tỵ nạn và nhất là thành phần HO đến định cư tại Mỹ sau nầy. Một cơ hội đã đến với tôi nhưng rất tiếc chưa thực hiện được điều mong ước qua câu chuyện sau : Trong tháng tư đen năm 2008 tôi và vài người trong cộng đồng tại Pháp có dịp nói chuyện qua điện thoại với anh Nguyễn Lâm, một nghệ sĩ trẻ trong nhóm sản xuất phim Vượt Sóng, để xin phép anh cho cộng đồng được chiếu phim 'vượt sóng' (phim thu lại trên internet) miễn phí để giới thiệu với khoảng trên 100 anh em bạn trẻ tại Paris thì anh cho biết là anh làm phim thương mãi, việc chiếu cho cộng đồng trong dịp 30.4 anh không cần biết và phải trả tiền ! Cộng đồng Pháp đồng ý trả tiền theo yêu cầu và nhân tiện chuyến qua Mỹ vào giữa tháng 6.2008, chính tôi đem tiền giao tận tay anh Nguyễn Lâm. Thời gian trao đổi ý kiến với nhau chưa đến một giờ nhưng qua những lời phát biểu, anh có vẻ hằn học và đánh giá thật thấp cộng đồng cũng như hành động tranh đấu chung của người Việt tỵ nạn cộng sản. Tôi rất ngạc nhiên về thái độ của một nghệ sĩ trẻ, có học và là con cháu của những gia đình đã từ bỏ tất cả, đánh đổi mạng sống để đi tìm tự do ! Tôi đã đề nghị với anh Nguyễn Lâm một cuộc gặp gỡ thật rộng thời giờ để trao đổi quan điểm giữa tôi và nhóm của anh, nghĩa là giữa một người tỵ nạn đã sống trong lao tù cộng sản với thành phần trẻ thuộc thế hệ 1,5 và 2 trưởng thành hoặc chào đời ở hải ngoại. Tôi hy vọng dịp đó là cơ hội để giải tỏa một vài ấm ức của tôi đối với quan niệm của những người chưa biết gì về cộng sản hoặc đã ăn phải bã tuyên truyền của kẻ thù. Nhưng rất tiếc sau đó, anh Nguyễn Lâm thì đi làm phim ở phía Đông nước Mỹ và tôi phải trở về lại Pháp.
Đây là một cơ hội tốt, không biết nhà sản xuất Nguyễn Lâm có mặt trong ban tổ chức hay đóng góp tác phẩm trong chương trình triển lãm của VAALA tại Santa Anna hay không ? Nhưng theo tôi quan niệm về chính trị của anh Nguyễn Lâm cũng không khác gì với những người trong ban tổ chức thì tôi hy vọng sẽ gặp anh trong một lần đối thoại nào đó để tạo thông cảm giữa già với trẻ về chính trị, về tỵ nạn và các tổ chức tranh đấu của cộng đồng.
Để công bằng trong đối thoại và tránh trường hợp các bạn trẻ lên án cho rằng người viết dựa vào tuổi tác để làm thầy đời, tôi xin đưa ra hai đề nghị với các bạn trong ban tổ chức cũng như những nghệ sĩ tham dự triển lãm Vaala tại thành phố Santa Anna, Cali USA :
1.Các bạn về Hà Nội tổ chức một cuộc triển lãm nghệ thuật, trong đó có ba bức tranh hay hình vẽ như sau : Một, cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cạnh bằng kẽm gai (như hình các bạn đã bôi bác cờ Vàng với 3 gạch đỏ bằng kẽm gai). Hai, hình một vị cựu tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa (như tượng hình già Hồ bằng thạch cao trong bức ảnh ). Ba, hình một thiếu nữ mặc áo có in Cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đỏ (như hình cô gái với chiếc áo in cờ đỏ sao vàng). Nếu các bạn được Hà Nội chấp thuận cho triển lãm và để cho dân chúng tự do vào xem, rồi sau đó toàn bộ ban tổ chức cũng như các nghệ sĩ đều an toàn lên máy bay trở về Mỹ thì tôi thua cuộc.
2. Tôi sẵn sàng đối thoại công khai trước công chúng với các bạn trẻ về đề tài do chính các bạn đưa ra : 'Cuộc triển lãm nhằm tạo những cuộc đối thoại tìm hiểu về tương quan giữa nghệ thuật, chính trị và cộng đồng, về những điều bị xem là cấm kỵ hoặc là kiềm chế trong cộng đồng'. Nếu các bạn trẻ thấy không trở ngại thì chúng ta đề nghị với đài truyền hình SBTN dành cho một chương trình đặc biệt.
Trường hợp các bạn trẻ dám xâm mình thực hiện điều thứ nhất thì tôi sẽ công khai xin lỗi. Hoặc các bạn chấp nhận đối thoại thì tôi sẽ đánh giá rằng các bạn là những người còn một chút hiểu biết. Nếu không thực hiện được hai điểm nầy thì tôi xin phép xem các bạn là một nhóm trẻ chỉ biết tráo trở và nguỵ biện không hơn không kém.
Đinh Lâm Thanh
Vừa bước vào đầu năm dương lịch 2009, người Việt tại Mỹ đã đồng loạt xuống đường để dạy cho các bạn trẻ một bài học khi nhóm nầy thi hành lệnh quan thầy Hà Nội mang hình ảnh già Hồ và cờ Máu ra công khai thách đố cộng đồng. Nhóm trẻ cứng đầu nầy sống ở Mỹ nhưng xử dụng luật rừng Việt Nam, bất chấp luật lệ của chính quyền, khai trương phòng triển lãm không giấy phép ngay trong lòng thủ đô tỵ nạn và nhân danh nghệ thuật để trắng trợn lồng vào đó một chương trình tuyên truyền hạ cấp bằng cách trưng hình già Hồ cùng cờ máu và đồng thời nhục mạ cờ Vàng Quốc Gia. Cộng đồng người Việt chưa dạy xong bài học thì chính quyền Mỹ đã giải tán vì đây là một cuộc triển lãm lậu tổ chức bởi những người tự xưng là văn minh !
Nếu thành phần tổ chức là bọn nằm vùng hoặc du sinh con ông cháu cha hay thuộc đám có mồi ăn lương tháng thì đối với tôi không gì ngạc nhiên, vì những việc vừa xảy ra đều nằm trong kế hoạch của nghị quyết 36. Phản ứng của nhiều hội đoàn, tổ chức tôn giáo, đảng phái cũng như nhân sĩ, nhà văn, nhà báo đã lên tiếng ngay từ đầu và trong tương lai sẽ còn nhiều biện pháp kế tiếp để hỏi tội thành phần ngoan cố nầy. Sự việc xảy ra từ bên chân trời Mỹ, nhưng khi biết những người cầm đầu tổ chức, nhất là nhiếp ảnh gia Brian Đoàn (con một vị cựu sĩ quan an ninh của QLVNCH) cùng với một số bạn trẻ khác thuộc thành phần con cháu gia đình tỵ nạn, thì dù ở xa nhưng tôi thấy thật xót xa trong lòng. Dù chương trình triển lãm đã bị hủy bỏ nửa chừng nhưng tôi cũng xin mượn cơ hội nầy để nói chuyện với những bạn trẻ trong ban tổ chức, vì các bạn nầy đã họp báo tự bào chữa rằng, họ chính là con cháu thuộc thế hệ một rưỡi, thế hệ hai của những người chạy trốn cộng sản !
Bài viết không cần đề cập đến những phần tử có mặt trong ban tổ chức thuộc bọn nằm vùng, du sinh, cò mồi hoặc vượt biên vì kinh tế. Tôi chỉ muốn nói chuyện với những bạn trẻ đã quên hoặc chối bỏ gốc tỵ nạn của mình, hay những ai vẫn còn xác nhận mình là con cháu của những người đã bỏ xứ ra đi vì cộng sản nhưng lại nhẫn tâm ngậm nọc độc của kẻ thù để phun vào mặt cha ông mình !
Tôi nghĩ rằng những lời sau đây là một hình thức đối thoại giữa một người già đáng tuổi chú bác với những bạn trẻ cứng đầu thuộc tổ chức VAALA. Là một hình thức đối thoại giữa thế hệ trẻ hải ngoại – thành phần chưa biết gì về cộng sản - với một người đã một đời trực diện sống chết cùng kẻ thù. Và cũng là hình thức đối thoại giữa một người đã chiến đấu, cầm chân địch đến giây phút cuối để cho gia đình các bạn trẻ an toàn xuống ghe tàu tìm đường ra biển. Hơn nữa, người viết tuổi đời đã quá 70, đầu óc vẫn sáng suốt, khả năng và kiến thức văn hóa cũng như nghệ thuật vẫn còn hơn xa các bạn trẻ trong ban tổ chức, vậy tôi nghĩ rằng, tôi đủ tư cách để nói chuyện tình cảm hoặc phải quấy (hiểu nghĩa nào cũng được) với bất cứ bạn trẻ nào đã lợi dụng hai chữ nghệ thuật, tráo trở và thách đố bằng vũ khí cộng sản để đâm vào mặt cha mẹ, bạn bè, dòng họ, cộng đồng… là những người thân tình ruột thịt đã một thời thương yêu, chăm sóc, đùm bọc và nuôi dưỡng để các bạn trở thành những nghệ sĩ vô ơn ngày nay !
Các bạn xác nhận thuộc thế hệ một rưỡi (nghĩa là bỏ nước theo cha mẹ khi vừa có trí khôn, có thể tính từ 8 đến 15 tuổi) và thế hệ hai (chưa có trí khôn hoặc chào đời ở hải ngoại), vậy các bạn thuộc thế hệ một rưỡi có hình dung được ngày trốn chui xuống tàu hay chen nhau lên máy bay, các bạn là những đứa trẻ miệng còn hôi sữa, áo quần rách rưới, mặt mày hốc hác như kẻ đói cơm cùng cha mẹ đổi mạng sống đi tìm tự do… Đặt chân lên xứ người, dân địa phương xem các bạn là những người ăn xin, vượt biên vì kinh tế ! Nhưng vinh dự thay cho người Việt và phải cám ơn các bạn trẻ, ngày nay họ đã có một lối nhìn trái ngược hẳn với những gì trước đây, có thể nói là kính phục, vì người tỵ nạn đã sớm hội nhập, thành công và chiếm những địa vị quan trọng ngay trên quê hương của họ, nhất là thành phần trẻ mà trong đó có các bạn. Tôi hoan nghênh và cảm phục ý chí, tính cần cù siêng năng và trí thông minh của các bạn trẻ, nhưng có một điều tôi cần phải nói thật và nói thẳng, các bạn đừng tự mãn và vô ơn ! Nhờ ai đã nuôi dưỡng và tạo môi trường tốt để giúp các bạn thành công ngày nay ?
Phải nhớ rằng, khi bỏ nước ra đi trên người chỉ còn mảnh áo che thân, chính gia đình cha mẹ các bạn phải thắt lưng buộc bụng, chịu đựng tủi nhục, đổ mồ hôi sôi nước mắt, chịu khó cần kiệm… Ngày lượm lon, cắt cỏ, gánh hàng, rửa rau, đổ rác, quét chợ, tối về đơm nút, may áo, sáng sớm chạy bỏ báo cho kịp giờ… để lo cho các bạn trong buổi đầu. Đành rằng các bạn thành công trên đường học vấn là nhờ trí thông minh, siêng năng học hành và ân huệ của chính phủ Mỹ để ngày nay trở thành công chức cao cấp, bác sĩ, kỹ sư, họa sĩ, nhiếp ảnh gia… Nhưng phải nhìn thật gần và thật kỹ để thấy rằng bằng cấp của các bạn đã nhuốm đầy mồ hôi, nước mắt và xương máu của những người khác.
Có lẽ đọc đến đây có bạn đã tỉnh ngộ để nhận ra rằng mồ hôi và nước mắt là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, nhưng còn xương máu ? Tôi xin thưa ngay, đó là xương máu của những người đã nằm xuống trong cuộc chiến, đã xả thân bảo vệ đất nước, đã cầm chân địch cho các bạn an toàn chạy trốn, đã chết trong các trại tù cộng sản hoặc đã bỏ mình giữa lòng đại dương
…Chính những đau thương chết chóc nầy đã đánh động lòng người, đã giúp cho thế giới tự do thấy và hiểu được thế nào là cộng sản để họ mở rộng vòng tay ôm các bạn vào lòng, sẵn sàng nuôi dưỡng, trợ cấp giúp phương tiện để các bạn có cơ hội làm lại cuộc đời… Nếu không có xương máu của những người nằm xuống đánh động lương tâm nhân loại thúc đẩy cả thế giới vớt nạn nhân trên biển, đón người trong các trại tỵ nạn, lập ra chương trình HO, đoàn tụ gia đình, đưa con lai đi tìm cha mẹ… thì giờ đây chắc các bạn còn vướng tại Việt Nam và đã trở thành cặn bã của chế độ cộng sản, những lao động nô lệ chờ gọi tên đi bán mồ hôi, lấy chồng và làm đĩ khắp thế giới và con cháu các bạn là thành phần nồng cốt của cái bang bị gậy hoặc đầu nậu trong các băng đảng móc túi.
Tại sao cha mẹ, người thân các bạn phải trốn chạy ? Vì gia đình các bạn cũng như hàng triệu người miền Nam khác không chấp nhận chế độ cộng sản mà già Hồ và cờ máu là biểu tượng của một tập đoàn khát máu đã đày đọa nhân dân Việt Nam trên 60 năm qua. Như vậy, các bạn vinh danh già Hồ và cờ máu tại thủ đô tỵ nạn không khác gì chính các bạn đang đưa tay tát vào mặt cha mẹ và đồng hương của mình. Thế thì đạo nghĩa ở đâu ? Tình người ở đâu ? Các bạn phải biết rằng một người sinh ra và lớn lên, nếu được giáo dục bởi một nền văn hóa nhân bản thì không thể mất tình người, mất lý trí như một loài thú hoang …Hãy mở mắt ra để xem, hãy mở tai ra để nghe những gì mà chính người Việt hiện nay, trong quốc nội cũng như trên toàn cỏi năm châu, đã đánh giá về thần tượng già Hồ và cờ máu của các bạn :
Theo thiển ý của tôi, hội họa, nhiếp ảnh và tạo hình là một bộ môn nghệ thuật mà người nghệ sĩ đã xử dụng đôi mắt, bàn tay và khối óc sáng tạo của mình để lưu lại hậu thế những hình ảnh trung thực, thẩm mỹ, có giá trị không gian và thời gian, mang tính chất nhân bản, hướng thiện để góp phần phục vụ con người hầu nâng cao vẻ đẹp cao quý của Chân Thiện Mỹ. Nhưng tại sao ban tổ chức VAALA lại đem những hình ảnh tội ác vào nghệ thuật ? Phải chăng đây là âm mưu lợi dụng nghệ thuật để tuyên truyền chính trị một cách bất chính. Vì cá nhân già Hồ và cờ máu chẳng có gì gọi là nghệ thuật mà chính là hình ảnh đau thương, nước mắt và xương máu của dân tộc Việt Nam
Thật vậy, già Hồ là tội đồ của dân tộc, một thanh niên với hàng chục tên giả, chẳng có lý tưởng gì với quốc gia dân tộc. Thời trẻ trốn xuống tàu tha phương cầu thực mong được trở thành công chức của thực dân, nhưng mộng ước không thành nên phải bám vào gấu quần cộng sản quốc tế rồi mang chủ nghĩa Max-Lê về nhuộm đỏ tổ quốc Việt Nam. Chính y đã âm mưu, lừa lọc, hãm hại và bán đứng cho thực dân Tây cũng như phát xít Nhật các nhà cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chống ngoại xâm. Chính y đã ra lệnh Phạm Văn Đồng ký giấy bán đất nhượng biển cho quan thầy Tàu Cộng do đó ngày nay Việt Nam trở thành thuộc địa của bọn Tàu đỏ. Chính y đã vay nợ 'anh em xã hội chủ nghĩa' hàng trăm tỷ vũ khí đạn dược để đưa về giết hại đồng bào ruột thịt. Bọn đàn em dù tận tình cướp của, bóp họng dân chúng và dùng lúa gạo, dầu thô để trả nợ từ mấy chục năm nay nhưng vẫn chưa dứt điểm. Tính đến năm 2008 cộng sản Việt Nam vẫn còn thiếu Tàu đỏ và Nga trên 30 tỷ dollars, do đó Hà nội bắt buộc phải ký hiến thêm đất thêm biển để làm vui lòng quan thầy. Chính y đã giết hại hàng triệu người miền Bắc dưới chiêu bài 'cải cách ruộng đất' (còn gọi là đấu tố) sau khi cướp xong chính quyền năm 1945 và cũng chính y đã ra lệnh đánh chiếm miền Nam năm Mật Thân 1968, chôn sống trên 5000 người tại Huế. Chính y đã gây bao cảnh tang thương chết chóc cho đồng bào vô tội của chính thể Việt Nam Cọng Hòa, cha mẹ mất con, anh mất em, vợ mất chồng, gia đình tan nát. Chính y đã ra lệnh xua quân vào xâm chiếm miền Nam, cướp bóc tài sản rồi đẩy hàng triệu gia đình đi vùng kinh tế mới cũng như lập hàng ngàn trại tù để giam giữ thành phần quân cán chính của chế độ VNCH, trong đó cha mẹ các bạn là nạn nhân !!!
Về phương diện đạo đức, già Hồ là một tên dâm dục tàn bạo vô lương tâm, chính y chẳng những công khai ăn ở với đủ hạng người từ Kinh, Thượng đến Tây, Tàu. Cướp vợ thuộc cấp, sinh con đẻ cái rồi ra lệnh giết vợ, giết người tình để phi tang hầu giữ được tiếng 'trai trinh', 'cha già dân tộc' và 'thần tượng chế độ' ….
Đề cập đến văn hóa thì già Hồ là một tên vô liêm sĩ bằng cách tự tay viết sách ca tụng mình, ăn cắp văn thơ của người khác để biến thành tác phẩm của mình. Ra lệnh cho đám bồi bút đánh bóng, biến ác quỷ Hồ trở thành thần tượng của đất nước ! Như vậy già Hồ chỉ được sắp hạng đứng đầu một băng đảng tội phạm chứ không thể đưa lên làm lãnh tụ đất nước hoặc cha già dân tộc…
Ngày nay, bộ mặt gian dối tội lỗi của già Hồ đã bị lột trần trước ánh sáng. Chính UNESCO đã kịp thời tỉnh ngộ, ngưng ngay chương trình vinh danh già Hồ sau khi phám phá những điều nhơ bẩn nhục nhã chung quanh 'thần tượng' do những tên nằm vùng trong tổ chức lừa bịp dựng lên. Vậy các bạn trẻ còn lý do gì để đem hình già Hồ ra trưng bày và thách đố với cộng đồng người Việt tỵ nạn ?
Cờ đỏ sao vàng là cờ của băng đảng cộng sản, không thể gán ép để trở thành biểu tượng của một quốc gia, của một dân tộc vì * Cờ đỏ sao vàng không mang một ý nghĩa nào liên hệ với nguồn gốc, địa lý, dân tộc, lịch sử hay văn hóa của Việt Nam. Cờ máu là con đẻ từ hai lá cờ đàn anh, Đỏ Búa Liềm của Liên Sô cộng sản và Đỏ Năm Sao Vàng của Tàu cộng. Cờ đỏ do đảng vẽ rập theo các nước đàn anh, gồm màu đỏ tượng trưng cho máu, cho đấu tranh giai cấp và một sao duy nhất chính là đảng cộng sản. Cờ đảng nầy được áp đặt lên đầu dân tộc khi già Hồ và tập đoàn cướp được chính quyền. Vậy có chút gì vinh dự để xưng là cờ của Việt Nam ! Gọi là cờ 'máu' nhưng không phải vì miếng vải đỏ mà là máu của tang thương chết chóc, tanh hôi thoát ra từ hàng triệu người đã tức tưởi nằm xuống ở những nơi nào có bóng dáng quân cộng sản.
Những nơi nào cờ máu xuất hiện thì dân chúng phải bỏ nhà cửa, bồng bế nhau chạy trốn như Bình Long, Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972 và nhất là năm 1975, cả triệu người phải bỏ xứ ra đi khi quân cộng sản vào chiếm miền Nam. Bây giờ cờ máu đem ra trưng bày để thách thức với cộng đồng người Việt tại thủ đô tỵ nạn là một việc làm vô liêm sĩ của những người không có quả tim và bộ não.
Đã từ lâu tôi ao ước một cơ hội để trao đổi trực tiếp với các bạn trẻ tại Mỹ hầu hy vọng giải tỏa cho cá nhân tôi cũng như cho chính bản thân các bạn trẻ những ấm ức về quan niệm chính trị và hành động tranh đấu mà các bạn trẻ thường kiếm dịp tỏ thái độ cao ngạo, khinh thường tập thể người Việt tỵ nạn, kể luôn cha mẹ các bạn, anh em cô chú tỵ nạn và nhất là thành phần HO đến định cư tại Mỹ sau nầy. Một cơ hội đã đến với tôi nhưng rất tiếc chưa thực hiện được điều mong ước qua câu chuyện sau : Trong tháng tư đen năm 2008 tôi và vài người trong cộng đồng tại Pháp có dịp nói chuyện qua điện thoại với anh Nguyễn Lâm, một nghệ sĩ trẻ trong nhóm sản xuất phim Vượt Sóng, để xin phép anh cho cộng đồng được chiếu phim 'vượt sóng' (phim thu lại trên internet) miễn phí để giới thiệu với khoảng trên 100 anh em bạn trẻ tại Paris thì anh cho biết là anh làm phim thương mãi, việc chiếu cho cộng đồng trong dịp 30.4 anh không cần biết và phải trả tiền ! Cộng đồng Pháp đồng ý trả tiền theo yêu cầu và nhân tiện chuyến qua Mỹ vào giữa tháng 6.2008, chính tôi đem tiền giao tận tay anh Nguyễn Lâm. Thời gian trao đổi ý kiến với nhau chưa đến một giờ nhưng qua những lời phát biểu, anh có vẻ hằn học và đánh giá thật thấp cộng đồng cũng như hành động tranh đấu chung của người Việt tỵ nạn cộng sản. Tôi rất ngạc nhiên về thái độ của một nghệ sĩ trẻ, có học và là con cháu của những gia đình đã từ bỏ tất cả, đánh đổi mạng sống để đi tìm tự do ! Tôi đã đề nghị với anh Nguyễn Lâm một cuộc gặp gỡ thật rộng thời giờ để trao đổi quan điểm giữa tôi và nhóm của anh, nghĩa là giữa một người tỵ nạn đã sống trong lao tù cộng sản với thành phần trẻ thuộc thế hệ 1,5 và 2 trưởng thành hoặc chào đời ở hải ngoại. Tôi hy vọng dịp đó là cơ hội để giải tỏa một vài ấm ức của tôi đối với quan niệm của những người chưa biết gì về cộng sản hoặc đã ăn phải bã tuyên truyền của kẻ thù. Nhưng rất tiếc sau đó, anh Nguyễn Lâm thì đi làm phim ở phía Đông nước Mỹ và tôi phải trở về lại Pháp.
Đây là một cơ hội tốt, không biết nhà sản xuất Nguyễn Lâm có mặt trong ban tổ chức hay đóng góp tác phẩm trong chương trình triển lãm của VAALA tại Santa Anna hay không ? Nhưng theo tôi quan niệm về chính trị của anh Nguyễn Lâm cũng không khác gì với những người trong ban tổ chức thì tôi hy vọng sẽ gặp anh trong một lần đối thoại nào đó để tạo thông cảm giữa già với trẻ về chính trị, về tỵ nạn và các tổ chức tranh đấu của cộng đồng.
Để công bằng trong đối thoại và tránh trường hợp các bạn trẻ lên án cho rằng người viết dựa vào tuổi tác để làm thầy đời, tôi xin đưa ra hai đề nghị với các bạn trong ban tổ chức cũng như những nghệ sĩ tham dự triển lãm Vaala tại thành phố Santa Anna, Cali USA :
1.Các bạn về Hà Nội tổ chức một cuộc triển lãm nghệ thuật, trong đó có ba bức tranh hay hình vẽ như sau : Một, cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cạnh bằng kẽm gai (như hình các bạn đã bôi bác cờ Vàng với 3 gạch đỏ bằng kẽm gai). Hai, hình một vị cựu tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa (như tượng hình già Hồ bằng thạch cao trong bức ảnh ). Ba, hình một thiếu nữ mặc áo có in Cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đỏ (như hình cô gái với chiếc áo in cờ đỏ sao vàng). Nếu các bạn được Hà Nội chấp thuận cho triển lãm và để cho dân chúng tự do vào xem, rồi sau đó toàn bộ ban tổ chức cũng như các nghệ sĩ đều an toàn lên máy bay trở về Mỹ thì tôi thua cuộc.
2. Tôi sẵn sàng đối thoại công khai trước công chúng với các bạn trẻ về đề tài do chính các bạn đưa ra : 'Cuộc triển lãm nhằm tạo những cuộc đối thoại tìm hiểu về tương quan giữa nghệ thuật, chính trị và cộng đồng, về những điều bị xem là cấm kỵ hoặc là kiềm chế trong cộng đồng'. Nếu các bạn trẻ thấy không trở ngại thì chúng ta đề nghị với đài truyền hình SBTN dành cho một chương trình đặc biệt.
Trường hợp các bạn trẻ dám xâm mình thực hiện điều thứ nhất thì tôi sẽ công khai xin lỗi. Hoặc các bạn chấp nhận đối thoại thì tôi sẽ đánh giá rằng các bạn là những người còn một chút hiểu biết. Nếu không thực hiện được hai điểm nầy thì tôi xin phép xem các bạn là một nhóm trẻ chỉ biết tráo trở và nguỵ biện không hơn không kém.
Đinh Lâm Thanh
mandag 16. februar 2009
Tham Nhũng Tiền “Hỗ Trợ Người Nghèo Ăn Tết”
Tham Nhũng Tiền “Hỗ Trợ Người Nghèo Ăn Tết”
Theo một số nguồn thạo tin, hôm 11 tháng 2, Trương Vĩnh Trọng, phó thủ tướng CSVN đã chính thức ra lệnh buộc các tờ báo tại Việt Nam ngưng thông tin về những vụ tham nhũng tiền “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết”.
Hồi trước Tết Âm Lịch, CSVN tuyên bố sẽ chi 3,800 tỉ đồng để “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết”. Lúc đó, nhiều người tin rằng khoản hỗ trợ này khó mà đến tay những người thực sự nghèo và thực tế cho thấy đúng là như vậy.
Ngày 4 tháng 1, Thông Tấn Xã Việt Nam cho biết, người ta vừa phát giác, nhiều gia đình khá giả sống tại thôn Thống Nhất, xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình đã nhận được tiền “hỗ trợ người nghèo đón Tết” vì là... thân nhân của trưởng thôn, phó thôn, hoặc thư ký thôn.
Sau Quảng Bình, báo chí CSVN liên tục đưa tin tiền “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết” đã bị ăn chặn ở khắp nơi. Dựa trên thông tin do báo chí CSVN loan tải, tình trạng tồi tệ này đã xảy ra cả ở: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau,...
Về nguyên tắc, việc phát tiền “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết” phải dựa vào “chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010”, do chính quyền CSVN ban hành. Nếu thực sự nghèo khổ, mỗi người nghèo sẽ được “hỗ trợ đón Tết” với mức 200,000 đồng/người, song không gia đình nào được “hỗ trợ đón Tết” quá mức 1 triệu đồng/gia đình.
Trên thực tế, tất cả những gia đình nghèo chỉ nhận được khoản hỗ trợ từ vài ba chục đến một, hai trăm ngàn. Khoản còn dư được chia cho các gia đình khá giả là thân nhân cán bộ của chính quyền địa phương hoặc sung vào các “quỹ” do chính quyền địa phương lập ra.
Một số nguồn thạo tin cho biết, trong vài ngày qua, những nông dân nghèo của một số tỉnh miền Nam, chưa được nhận tiền “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết” hoặc được phát không đủ mức qui định đã ùn ùn kéo nhau đi khiếu nại. Tình trạng đó khiến CSVN lo ngại.
Những nguồn thạo tin cho biết, đích thân Trương Vĩnh Trọng gọi điện thoại cho một thành viên trong ban biên tập báo Tuổi Trẻ ra lệnh ngưng ngay việc thông tin về các vụ tham nhũng tiền “hỗ trợ người nghèo ăn Tết” cũng như bình luận về sự kiện loại này. Ban Biên tập báo Tuổi Trẻ đã chuyển lệnh đó cho các phóng viên, yêu cầu ngưng thực hiện các cuộc điều tra. Yêu cầu của ông Trương Vĩnh Trọng: “Dù không sai nhưng có những sự thật nếu đưa ra công luận sẽ không có lợi cho Ðảng và Nhà nước” đã được các phóng viên báo Tuổi Trẻ loan báo rộng rãi cho đồng nghiệp ở những tờ báo khác.
Ông Trương Vĩnh Trọng hiện là phó thủ tướng kiêm phó ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng. Trương Vĩnh Trọng vừa tâm sự với báo điện tử VietNamNet: “Làm được việc gì cho dân cho nước tôi củng cố gắng dù bất kỳ ở đâu, trên cương vị nào. Từ khi còn làm cán bộ huyện cho tới bây giờ, tôi vẫn đinh ninh lời hứa đó.
Ðến nay, “dù không sai nhưng có những sự thật không được đưa, nếu đưa ra công luận sẽ không có lợi cho Ðảng và Nhà nước” vẫn là phương thức chỉ đạo chính của Ðảng và chính quyền CSVN đối với hệ thống truyền thông trong nước. Hồi đầu tuần này, tờ Sài Gòn Tiếp Thị đã được lệnh gỡ xuống khỏi website của họ một bài viết về cuộc chiến tranh xảy ra 30 năm trước (1979-2009), do Trung Quốc tấn công Việc Nam. Hôm 10 tháng 2, trong cuộc họp với lãnh đạo các cơ quan truyền thông trong nước, ban tư tưởng văn hóa trung ương của Ðảng CSVN đã chính thức ra lệnh: “Không được đăng các bài viết về cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc” giống như cuộc chiến đó chưa từng xảy ra và làm hàng trăm ngàn người Việt uổng mạng. Báo chí CSVN cũng đã được chỉ đạo không được loan tin về tình trạng hàng loạt người Việt sang Nga lao động bất hợp pháp bị bắt.
Phan Việt Ðăng
Theo một số nguồn thạo tin, hôm 11 tháng 2, Trương Vĩnh Trọng, phó thủ tướng CSVN đã chính thức ra lệnh buộc các tờ báo tại Việt Nam ngưng thông tin về những vụ tham nhũng tiền “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết”.
Hồi trước Tết Âm Lịch, CSVN tuyên bố sẽ chi 3,800 tỉ đồng để “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết”. Lúc đó, nhiều người tin rằng khoản hỗ trợ này khó mà đến tay những người thực sự nghèo và thực tế cho thấy đúng là như vậy.
Ngày 4 tháng 1, Thông Tấn Xã Việt Nam cho biết, người ta vừa phát giác, nhiều gia đình khá giả sống tại thôn Thống Nhất, xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình đã nhận được tiền “hỗ trợ người nghèo đón Tết” vì là... thân nhân của trưởng thôn, phó thôn, hoặc thư ký thôn.
Sau Quảng Bình, báo chí CSVN liên tục đưa tin tiền “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết” đã bị ăn chặn ở khắp nơi. Dựa trên thông tin do báo chí CSVN loan tải, tình trạng tồi tệ này đã xảy ra cả ở: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau,...
Về nguyên tắc, việc phát tiền “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết” phải dựa vào “chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010”, do chính quyền CSVN ban hành. Nếu thực sự nghèo khổ, mỗi người nghèo sẽ được “hỗ trợ đón Tết” với mức 200,000 đồng/người, song không gia đình nào được “hỗ trợ đón Tết” quá mức 1 triệu đồng/gia đình.
Trên thực tế, tất cả những gia đình nghèo chỉ nhận được khoản hỗ trợ từ vài ba chục đến một, hai trăm ngàn. Khoản còn dư được chia cho các gia đình khá giả là thân nhân cán bộ của chính quyền địa phương hoặc sung vào các “quỹ” do chính quyền địa phương lập ra.
Một số nguồn thạo tin cho biết, trong vài ngày qua, những nông dân nghèo của một số tỉnh miền Nam, chưa được nhận tiền “hỗ trợ người nghèo trên cả nước đón Tết” hoặc được phát không đủ mức qui định đã ùn ùn kéo nhau đi khiếu nại. Tình trạng đó khiến CSVN lo ngại.
Những nguồn thạo tin cho biết, đích thân Trương Vĩnh Trọng gọi điện thoại cho một thành viên trong ban biên tập báo Tuổi Trẻ ra lệnh ngưng ngay việc thông tin về các vụ tham nhũng tiền “hỗ trợ người nghèo ăn Tết” cũng như bình luận về sự kiện loại này. Ban Biên tập báo Tuổi Trẻ đã chuyển lệnh đó cho các phóng viên, yêu cầu ngưng thực hiện các cuộc điều tra. Yêu cầu của ông Trương Vĩnh Trọng: “Dù không sai nhưng có những sự thật nếu đưa ra công luận sẽ không có lợi cho Ðảng và Nhà nước” đã được các phóng viên báo Tuổi Trẻ loan báo rộng rãi cho đồng nghiệp ở những tờ báo khác.
Ông Trương Vĩnh Trọng hiện là phó thủ tướng kiêm phó ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng. Trương Vĩnh Trọng vừa tâm sự với báo điện tử VietNamNet: “Làm được việc gì cho dân cho nước tôi củng cố gắng dù bất kỳ ở đâu, trên cương vị nào. Từ khi còn làm cán bộ huyện cho tới bây giờ, tôi vẫn đinh ninh lời hứa đó.
Ðến nay, “dù không sai nhưng có những sự thật không được đưa, nếu đưa ra công luận sẽ không có lợi cho Ðảng và Nhà nước” vẫn là phương thức chỉ đạo chính của Ðảng và chính quyền CSVN đối với hệ thống truyền thông trong nước. Hồi đầu tuần này, tờ Sài Gòn Tiếp Thị đã được lệnh gỡ xuống khỏi website của họ một bài viết về cuộc chiến tranh xảy ra 30 năm trước (1979-2009), do Trung Quốc tấn công Việc Nam. Hôm 10 tháng 2, trong cuộc họp với lãnh đạo các cơ quan truyền thông trong nước, ban tư tưởng văn hóa trung ương của Ðảng CSVN đã chính thức ra lệnh: “Không được đăng các bài viết về cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc” giống như cuộc chiến đó chưa từng xảy ra và làm hàng trăm ngàn người Việt uổng mạng. Báo chí CSVN cũng đã được chỉ đạo không được loan tin về tình trạng hàng loạt người Việt sang Nga lao động bất hợp pháp bị bắt.
Phan Việt Ðăng
BÀI HỌC NẶNG KÝ TỪ VIỆT NAM
BÀI HỌC NẶNG KÝ TỪ VIỆT NAM
Tác giả là một người Việt ở Mỹ từng mang bạc triệu về Việt Nam đầu tư và... chào thua. Xin trân trọng giới thiệu những "bài học nặng ký" của ông:
"Hai vị anh hùng thời còn đi học của tôi có rất nhiều bí mật xấu xa. Hồ Chí Minh không nhìn nhận cha mẹ cũng như không ngó ngàng gì đến ít nhứt là 12 đứa con . Võ Nguyên Giáp thì có ông con rể Trương Quang Bình là người giàu nhất nước... Tất cả mọi con người, mọi con số đều là giả dối."
Saigon những ngày cận Tết mát lạnh và mang chút không khí của những ngày Giáng Sinh nơi Âu Mỹ. Mọi người chuẩn bị mua sắm cho nhà cửa và quà cáp cho người quen. Đường Nguyễn Huệ và quanh khu du lịch của trung tâm thành phố, hoa đang rộn rịp trang điểm cho mùa xuân, luôn luôn là biểu tượng của niềm hy vọng mới và vào một thay đổi nào đó tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn cho năm tới. Nhung nếu du khách rẽ vào ngõ hẻm từ một con đường lớn, những con chuột to bằng con mèo, những con dán biết bay cùng ruồi muỗi, những ổ rác lộ thiên, những vũng nước ao tù… cho thấy một bộ mặt khác của Saigon. Bộ mặt của nghèo khó, bất hạnh và tù túng đã không hề thay đổi suốt 70 năm qua, mặc cho bao nhiêu mùa xuân của hy vọng trong quá khứ.
* CÁI TÔI ĐÁNG GHÉT
Một chút ít về cái "tôi" để người đọc cảm thông thêm về chủ quan của lá thư này. Tôi đến Mỹ năm 1975 cùng làn sóng người tỵ nạn Cộng Sản sau khi miền Nam sụp đổ. Cha tôi là một đại úy của quân đội miề n Nam, và tôi chỉ mới 5 tuổi, chưa hiểu biết chút gì về lịch sử hay chính trị. Cha mẹ tôi làm đủ mọi nghề, vất vả ngư ợc xuôi, từ lao động chân tay đến mua bán tiểu thương, để nuôi gia đình. Sau 30 năm, ông bà đã lo xong cho con cái, đã về hưu với căn nhà nhỏ và cuộc sống ổn định. Tôi lớn lên như một trẻ Mỹ, đi học, chơi đùa và coi xứ Mỹ như một quê hương chính thức, dù vẫn biết nói tiếng Việt theo thói quen của cha mẹ. Tốt nghiệp Thạc Sĩ về điện tử, tôi có công việc tốt, lấy vợ và sống đời trung lưu như trăm ngàn người khác. Cha tôi và các bạn ông thường tụ họp và bàn luận nhiều về tình hình Việt Nam, về những thù ghét của họ với nhà cầm quyền Cộng Sản, nhưng tất cả đều rất xa lạ với tôi.
Cuộc sống bình lặng đó thay đổi hoàn toàn khi vợ tôi qua đời vì tai nạn xe cộ ba năm về trước. Không có con, thừa hưởng một số tiền bảo hiểm hơn 1 triệu đô la, cộng với giá nhà đang tăng cao vụt và một khoản tiền tiết kiệm lớn, tôi không còn thấy nhu cầu phải kéo cầy 11 tiếng mỗi ngày trước máy vi tính. Tôi quyết định trở về lại Việt Nam để làm ăn và tạo dựng một sự nghiệp mới. Tất cả những gì tôi đọc cho thấy một Việt Nam đổi mới với những con số an tượng về đầu tư của nước ngoài, về xuất khẩu, về cơ hội đầy tiềm năng của một "con rồng mới". Cha tôi không phản đối, ông chỉ cho một lời khuyên," Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, mà coi những gì Cộng Sản làm."
* HƯNG PHẤN VÀ THẤT VỌNG
Tôi dọn về lại Saigon vào tháng Mười năm 2007. Chỉ số VNI của chứng khoán Việt khoảng 1,000 và đề tài thời thượng khắp nơi là cơn sốt địa ốc và số thu nhập của các đại gia. Số tiền 2.5 triệu đô la của tôi thật nhỏ bé khiêm tốn khi bàn chuyện đầu tư. Dường như ai cũng đầy tiền mặt và dự án, nhiều gấp mười lần khả năng của tôi. Dù vậy, tôi cũng rất hưng phấn cảm nhận niềm lạc quan vô bờ bến về sự thịnh vượng của nền kinh tế quốc gia.
Trong khi đó, dựa theo truyền thống khoa học từ đại học Mỹ, tôi nghiên cứu kỹ hơn các con số từ các doanh nhân cũng như từ chánh phủ. Có rất nhiều điều sai trái và nghịch lý từ các con số, cũng như sự kiện thực tế về kết quả hoạt động. Sự nghi ngờ của tôi được xác nhận khi so sánh và định chuẩn theo mức sống thực sự của người dân, giàu cũng như nghèo. Chung đụng với mọi thành phần xã hội giúp tôi nhìn rõ hơn về thực trạng của quê hương. Những lời nói hoa mỹ, cũng như những biểu ngữ dăng kín thành phố, là một lớp son phấn rẻ tiền, che dấu một bộ mặt điêu tàn và thê thảm.
Tôi nhận ra rằng cái cơ chế "kinh tế thị trường" mà nhà cầm quyền hứa hẹn khi ký văn bản gia nhập WTO chỉ là hình thức. Tất cả những miếng moi béo bở đều nằm trong tay quan chức và cán bộ Đảng Cộng Sản, cũng như bà con thân thuộc trong gia đình. Bộ Chánh Trị trung ương thì nắm chặt các công ty quốc doanh va bán quốc doanh, quan chức địa phương thì có những đặc lợi về ruộng đất, giấy phép, dịch vụ nhu yếu. Lãnh vực tư nhân chỉ được phép làm trong địa bàn nhỏ, nhiều rủi ro và những ai có lời đều phải chia xẻ lại cho các quan chức bằng nhiều phong bì lớn nhỏ. Tầng lớp quan chức và gia đình họ, qua hệ thống tham nhũng tinh vi, đã thâu tóm phần lớn lợi tức quốc gia và có quyền hành không kém các quan lại của triều đại phong kiến.
Tôi nhận ra rằng cuộc chiến tranh dành độc lập với bao nhiêu xương máu của người dân chỉ là một cái cớ để Đảng Cộng Sản cướp chánh quyền. Những quốc gia láng giềng như Singapore, Mã Lai, Indonesia, đã dành độc lập không cần hy sinh và giờ đây, dân họ (nhờ một nền dân chủ minh bạch) đã trở nên giàu co Họ đang cấu kết với nhà nước Việt để trở thành những chủ nhân lớn của nhiều đơn vị kinh tế bằng cách dùng đồng tiền để mua lao động rẻ và tài nguyên định giá qua gầm bàn.
Tôi nhận ra rằng chế độ to mồm này thực sự sống nhờ phần lớn vào những khoản viện trợ nhân đạo của các nước tư bản (mà họ từng lên án và đánh duổi); vào khoản tiền kiều hối của các cựu thuyền nhân (mà họ đã từng giam giữ tù đày khi kết tội phản quốc); vào mồ hôi nước mắt của những nô lệ mới qua danh từ xuất khẩu lao động hay qua các cuộc hôn nhân mua bán áp đặt; vào những khoản lệ phí va sưu thuế đầy phi nghĩa, cũng như một con số khổng lồ về hối lộ, đối với những người dân còn kẹt lại trong nước.
Tôi nhận ra rằng hai vị anh hùng thời còn đi học của tôi có rất nhiều bí mật xấu xa mà chế độ đã dùng mọi thủ đoạn để biến họ thành thần thánh, giúp cho chúng giữ vững địa vị và quyền hành. Đọc kỹ tiểu sử của Hồ Chí Minh sẽ tìm thấy một chính trị gia quỷ quyệt, nhiều mờ ám, hoàn toàn không có một chút chân thật gì, dù nhìn ở bất cứ góc cạnh nào. Con người của Hồ Chí Minh có rất nhiều tên gọi; tự viết cả tiểu sử để ca tụng mình (Trần Dân Tiên); không nhìn nhận cha mẹ cũng như không ngó ngàng gì đến ít nhứt là 12 đứa con sinh rơi rớt từ các cuộc tình khắp thế giới; viết đơn cầu xin thực dân Pháp với những lời tâng bốc trơ trẽn (lá thư gởi Quan Toàn Quyền Pháp năm 1912); làm mật vụ cho Nga khi Pháp không đáp ứng lời khẩn cầu (chuyện của cựu Giám Đốc KGB Nga Vladimir Kryuchkov ); Hồ Chí Minh bỏ Nga theo Tàu khi có lợi (hồi ký của Li Zhi Sui); khoe là trọn đời độc thân để phục vụ tổ quốc trong khi có ít nhứt ba người vợ và bao nhiêu người tình, kể cả một tình nhân là vợ của một thuộc cấp (bà Nguyễn Thị Minh Khai, vợ của Lê Hồng Phong). Gần đây, nhiều tài liệu lịch sử kết tội vì ra lệnh giết bà Nông thị Xuân và cô em, vì hai người này muốn tạo xì căng đan về mối tình khi chung sống với ông (cuốn sách 'Ho Chi Minh: A Life' bởi William Duiker và cuốn 'Đỉnh Cao Chói Lọi' cua Ba Dương Thu Hương). Chuyện ông thủ tiêu không biết bao nhiêu là đối thủ chánh trị có thể hiểu được vì ông làm chánh trị kiểu Cộng Sản, chỉ biết theo gương bậc thầy như Mao hay Stalin. Nhưng tôi thật khó chịu khi phải đi khắp Việt Nam và nhìn những biểu ngữ ca tụng cái gọi là "tấm gương đạo đức của Bác Hồ".
Còn đại tướng Võ Nguyên Giáp thì tôi không biết nghĩ sao khi đọc cuốn sách 'China and the Vietnam wars' của Qiang Zhai. Cho biết là một tướng Tàu, Wei Gouqing, nguyên cố vấn quân sự của Võ Nguyên Giáp, khẳng định là chiến thắng Điện Biên thực sự là do cố vấn đặt chiến lược và điều khiển; Giáp và Hồ đã định đánh Pháp tại khu vực sông Hồng. Tướng Wei cũng tiết lộ là năm 1953, Hồ Chí Minh muốn thỏa hiệp với Pháp để đình chiến, nhưng Mao Trạch Đông ra lệnh cho Hồ là phải đánh đến cùng. Cuối cùng, Giáp và Hồ được nhận lãnh công lao ve chuyện xảy ra trên đất Việt, tướng Tàu không thể công khai xuất hiện. Một câu hỏi khác gây bàn tán là tài sản của con rể Võ Nguyên Giáp (Trương Quang Bình, người giàu nhứt nước) có bao phần là của Giáp ?
Sau 1 năm ở Việt Nam, tôi hiểu được một sự thât căn bản của xã hội: tất cả mọi con người, mọi con số đều là giả dối. Quan chức nói dối để giữ quyền hành bổng lộc; doanh nhân nói dối vì quan chức đòi hỏi; người dân nói dối vì nói sự thực sẽ làm mình đau khổ rồi còn bị công an bắt. Nói dối trở thành một hiện tượng tự nhiên, như ăn uống; và không ai suy nghĩ thêm về khía cạnh đạo đức của hiện tượng này.
Trong môi trường đó, tôi đã không làm ăn gì được như dự tính. Suot 14 tháng chạy theo các dự án đầu tư, các cơ hội dài và ngắn hạn, tôi đành chịu thua. Thêm vào đó, những thủ tục hành chánh rươm rà, bất cập và luôn thay đổi, tạo cơ hội cho tham nhũng, đã làm tôi nản lòng. Cũng may, tôi chỉ mất hơn 200 ngàn đô la; một giá quá rẻ cho bài học nặng ký. Tôi không tiếc than gì cho cá nhân; chỉ thấy chua xót và thương hại cho những người kẹt lại.
ANDERSON THAI QUANG
Tác giả là một người Việt ở Mỹ từng mang bạc triệu về Việt Nam đầu tư và... chào thua. Xin trân trọng giới thiệu những "bài học nặng ký" của ông:
"Hai vị anh hùng thời còn đi học của tôi có rất nhiều bí mật xấu xa. Hồ Chí Minh không nhìn nhận cha mẹ cũng như không ngó ngàng gì đến ít nhứt là 12 đứa con . Võ Nguyên Giáp thì có ông con rể Trương Quang Bình là người giàu nhất nước... Tất cả mọi con người, mọi con số đều là giả dối."
Saigon những ngày cận Tết mát lạnh và mang chút không khí của những ngày Giáng Sinh nơi Âu Mỹ. Mọi người chuẩn bị mua sắm cho nhà cửa và quà cáp cho người quen. Đường Nguyễn Huệ và quanh khu du lịch của trung tâm thành phố, hoa đang rộn rịp trang điểm cho mùa xuân, luôn luôn là biểu tượng của niềm hy vọng mới và vào một thay đổi nào đó tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn cho năm tới. Nhung nếu du khách rẽ vào ngõ hẻm từ một con đường lớn, những con chuột to bằng con mèo, những con dán biết bay cùng ruồi muỗi, những ổ rác lộ thiên, những vũng nước ao tù… cho thấy một bộ mặt khác của Saigon. Bộ mặt của nghèo khó, bất hạnh và tù túng đã không hề thay đổi suốt 70 năm qua, mặc cho bao nhiêu mùa xuân của hy vọng trong quá khứ.
* CÁI TÔI ĐÁNG GHÉT
Một chút ít về cái "tôi" để người đọc cảm thông thêm về chủ quan của lá thư này. Tôi đến Mỹ năm 1975 cùng làn sóng người tỵ nạn Cộng Sản sau khi miền Nam sụp đổ. Cha tôi là một đại úy của quân đội miề n Nam, và tôi chỉ mới 5 tuổi, chưa hiểu biết chút gì về lịch sử hay chính trị. Cha mẹ tôi làm đủ mọi nghề, vất vả ngư ợc xuôi, từ lao động chân tay đến mua bán tiểu thương, để nuôi gia đình. Sau 30 năm, ông bà đã lo xong cho con cái, đã về hưu với căn nhà nhỏ và cuộc sống ổn định. Tôi lớn lên như một trẻ Mỹ, đi học, chơi đùa và coi xứ Mỹ như một quê hương chính thức, dù vẫn biết nói tiếng Việt theo thói quen của cha mẹ. Tốt nghiệp Thạc Sĩ về điện tử, tôi có công việc tốt, lấy vợ và sống đời trung lưu như trăm ngàn người khác. Cha tôi và các bạn ông thường tụ họp và bàn luận nhiều về tình hình Việt Nam, về những thù ghét của họ với nhà cầm quyền Cộng Sản, nhưng tất cả đều rất xa lạ với tôi.
Cuộc sống bình lặng đó thay đổi hoàn toàn khi vợ tôi qua đời vì tai nạn xe cộ ba năm về trước. Không có con, thừa hưởng một số tiền bảo hiểm hơn 1 triệu đô la, cộng với giá nhà đang tăng cao vụt và một khoản tiền tiết kiệm lớn, tôi không còn thấy nhu cầu phải kéo cầy 11 tiếng mỗi ngày trước máy vi tính. Tôi quyết định trở về lại Việt Nam để làm ăn và tạo dựng một sự nghiệp mới. Tất cả những gì tôi đọc cho thấy một Việt Nam đổi mới với những con số an tượng về đầu tư của nước ngoài, về xuất khẩu, về cơ hội đầy tiềm năng của một "con rồng mới". Cha tôi không phản đối, ông chỉ cho một lời khuyên," Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, mà coi những gì Cộng Sản làm."
* HƯNG PHẤN VÀ THẤT VỌNG
Tôi dọn về lại Saigon vào tháng Mười năm 2007. Chỉ số VNI của chứng khoán Việt khoảng 1,000 và đề tài thời thượng khắp nơi là cơn sốt địa ốc và số thu nhập của các đại gia. Số tiền 2.5 triệu đô la của tôi thật nhỏ bé khiêm tốn khi bàn chuyện đầu tư. Dường như ai cũng đầy tiền mặt và dự án, nhiều gấp mười lần khả năng của tôi. Dù vậy, tôi cũng rất hưng phấn cảm nhận niềm lạc quan vô bờ bến về sự thịnh vượng của nền kinh tế quốc gia.
Trong khi đó, dựa theo truyền thống khoa học từ đại học Mỹ, tôi nghiên cứu kỹ hơn các con số từ các doanh nhân cũng như từ chánh phủ. Có rất nhiều điều sai trái và nghịch lý từ các con số, cũng như sự kiện thực tế về kết quả hoạt động. Sự nghi ngờ của tôi được xác nhận khi so sánh và định chuẩn theo mức sống thực sự của người dân, giàu cũng như nghèo. Chung đụng với mọi thành phần xã hội giúp tôi nhìn rõ hơn về thực trạng của quê hương. Những lời nói hoa mỹ, cũng như những biểu ngữ dăng kín thành phố, là một lớp son phấn rẻ tiền, che dấu một bộ mặt điêu tàn và thê thảm.
Tôi nhận ra rằng cái cơ chế "kinh tế thị trường" mà nhà cầm quyền hứa hẹn khi ký văn bản gia nhập WTO chỉ là hình thức. Tất cả những miếng moi béo bở đều nằm trong tay quan chức và cán bộ Đảng Cộng Sản, cũng như bà con thân thuộc trong gia đình. Bộ Chánh Trị trung ương thì nắm chặt các công ty quốc doanh va bán quốc doanh, quan chức địa phương thì có những đặc lợi về ruộng đất, giấy phép, dịch vụ nhu yếu. Lãnh vực tư nhân chỉ được phép làm trong địa bàn nhỏ, nhiều rủi ro và những ai có lời đều phải chia xẻ lại cho các quan chức bằng nhiều phong bì lớn nhỏ. Tầng lớp quan chức và gia đình họ, qua hệ thống tham nhũng tinh vi, đã thâu tóm phần lớn lợi tức quốc gia và có quyền hành không kém các quan lại của triều đại phong kiến.
Tôi nhận ra rằng cuộc chiến tranh dành độc lập với bao nhiêu xương máu của người dân chỉ là một cái cớ để Đảng Cộng Sản cướp chánh quyền. Những quốc gia láng giềng như Singapore, Mã Lai, Indonesia, đã dành độc lập không cần hy sinh và giờ đây, dân họ (nhờ một nền dân chủ minh bạch) đã trở nên giàu co Họ đang cấu kết với nhà nước Việt để trở thành những chủ nhân lớn của nhiều đơn vị kinh tế bằng cách dùng đồng tiền để mua lao động rẻ và tài nguyên định giá qua gầm bàn.
Tôi nhận ra rằng chế độ to mồm này thực sự sống nhờ phần lớn vào những khoản viện trợ nhân đạo của các nước tư bản (mà họ từng lên án và đánh duổi); vào khoản tiền kiều hối của các cựu thuyền nhân (mà họ đã từng giam giữ tù đày khi kết tội phản quốc); vào mồ hôi nước mắt của những nô lệ mới qua danh từ xuất khẩu lao động hay qua các cuộc hôn nhân mua bán áp đặt; vào những khoản lệ phí va sưu thuế đầy phi nghĩa, cũng như một con số khổng lồ về hối lộ, đối với những người dân còn kẹt lại trong nước.
Tôi nhận ra rằng hai vị anh hùng thời còn đi học của tôi có rất nhiều bí mật xấu xa mà chế độ đã dùng mọi thủ đoạn để biến họ thành thần thánh, giúp cho chúng giữ vững địa vị và quyền hành. Đọc kỹ tiểu sử của Hồ Chí Minh sẽ tìm thấy một chính trị gia quỷ quyệt, nhiều mờ ám, hoàn toàn không có một chút chân thật gì, dù nhìn ở bất cứ góc cạnh nào. Con người của Hồ Chí Minh có rất nhiều tên gọi; tự viết cả tiểu sử để ca tụng mình (Trần Dân Tiên); không nhìn nhận cha mẹ cũng như không ngó ngàng gì đến ít nhứt là 12 đứa con sinh rơi rớt từ các cuộc tình khắp thế giới; viết đơn cầu xin thực dân Pháp với những lời tâng bốc trơ trẽn (lá thư gởi Quan Toàn Quyền Pháp năm 1912); làm mật vụ cho Nga khi Pháp không đáp ứng lời khẩn cầu (chuyện của cựu Giám Đốc KGB Nga Vladimir Kryuchkov ); Hồ Chí Minh bỏ Nga theo Tàu khi có lợi (hồi ký của Li Zhi Sui); khoe là trọn đời độc thân để phục vụ tổ quốc trong khi có ít nhứt ba người vợ và bao nhiêu người tình, kể cả một tình nhân là vợ của một thuộc cấp (bà Nguyễn Thị Minh Khai, vợ của Lê Hồng Phong). Gần đây, nhiều tài liệu lịch sử kết tội vì ra lệnh giết bà Nông thị Xuân và cô em, vì hai người này muốn tạo xì căng đan về mối tình khi chung sống với ông (cuốn sách 'Ho Chi Minh: A Life' bởi William Duiker và cuốn 'Đỉnh Cao Chói Lọi' cua Ba Dương Thu Hương). Chuyện ông thủ tiêu không biết bao nhiêu là đối thủ chánh trị có thể hiểu được vì ông làm chánh trị kiểu Cộng Sản, chỉ biết theo gương bậc thầy như Mao hay Stalin. Nhưng tôi thật khó chịu khi phải đi khắp Việt Nam và nhìn những biểu ngữ ca tụng cái gọi là "tấm gương đạo đức của Bác Hồ".
Còn đại tướng Võ Nguyên Giáp thì tôi không biết nghĩ sao khi đọc cuốn sách 'China and the Vietnam wars' của Qiang Zhai. Cho biết là một tướng Tàu, Wei Gouqing, nguyên cố vấn quân sự của Võ Nguyên Giáp, khẳng định là chiến thắng Điện Biên thực sự là do cố vấn đặt chiến lược và điều khiển; Giáp và Hồ đã định đánh Pháp tại khu vực sông Hồng. Tướng Wei cũng tiết lộ là năm 1953, Hồ Chí Minh muốn thỏa hiệp với Pháp để đình chiến, nhưng Mao Trạch Đông ra lệnh cho Hồ là phải đánh đến cùng. Cuối cùng, Giáp và Hồ được nhận lãnh công lao ve chuyện xảy ra trên đất Việt, tướng Tàu không thể công khai xuất hiện. Một câu hỏi khác gây bàn tán là tài sản của con rể Võ Nguyên Giáp (Trương Quang Bình, người giàu nhứt nước) có bao phần là của Giáp ?
Sau 1 năm ở Việt Nam, tôi hiểu được một sự thât căn bản của xã hội: tất cả mọi con người, mọi con số đều là giả dối. Quan chức nói dối để giữ quyền hành bổng lộc; doanh nhân nói dối vì quan chức đòi hỏi; người dân nói dối vì nói sự thực sẽ làm mình đau khổ rồi còn bị công an bắt. Nói dối trở thành một hiện tượng tự nhiên, như ăn uống; và không ai suy nghĩ thêm về khía cạnh đạo đức của hiện tượng này.
Trong môi trường đó, tôi đã không làm ăn gì được như dự tính. Suot 14 tháng chạy theo các dự án đầu tư, các cơ hội dài và ngắn hạn, tôi đành chịu thua. Thêm vào đó, những thủ tục hành chánh rươm rà, bất cập và luôn thay đổi, tạo cơ hội cho tham nhũng, đã làm tôi nản lòng. Cũng may, tôi chỉ mất hơn 200 ngàn đô la; một giá quá rẻ cho bài học nặng ký. Tôi không tiếc than gì cho cá nhân; chỉ thấy chua xót và thương hại cho những người kẹt lại.
ANDERSON THAI QUANG
MỘT HY VỌNG MỚI
NĂM THÁNH THÁI HÀ: MỘT HY VỌNG MỚI
Quanh năm vào mỗi chiều Thứ Bẩy, người giáo dân Hànội và nhiều tỉnh lân cận có thói quen rủ nhau đi chầu "Đền Đức Mẹ". Đền Đức Mẹ đây là ngôi nhà thờ khang trang do dòng Chúa Cứu Thế Hànội thiết lập năm 1949 tại ấp Thái Hà để dâng kính Đức Trinh Nữ Maria với tước hiệu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Do đó ngôi thánh đường được gọi với cái tên dài dòng là Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thái Hà Ấp. Người Hànội còn gọi ngôi đền này là nhà thờ Nam Đồng. Cũng nên biết rằng khắp nơi tại VN, chỗ nào có các linh mục dòng Chúa Cứu Thế thì ở chỗ đó có nhà thờ tôn kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp to nhỏ tùy hoàn cảnh. Nhà thờ Thái Hà là Đền ĐMHCG kỳ cựu và nổi tiếng nhất tại VN. Là người VN, chúng ta cũng không nên quên rằng bên cạnh nhà thờ Thái Hà còn có di tích lịch sử Gò Đống Đa là nơi chôn xác 20 vạn quân Thanh xâm lược bị giết trong trận đánh vô cùng oanh liệt của Đại Đế Quang Trung vào đúng những ngày tết Kỷ Dậu 1789.
Đầu năm Kỷ Sửu vừa qua, đức Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt đã đến chủ sự thánh lễ hành hương kính Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp và khai mạc năm Thánh đặc biệt cho giáo xứ Thái Hà nhân kỷ niệm 80 năm thiết lập Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội và 60 năm thành lập giáo xứ Thái Hà. Năm Thánh Thái Hà khai mạc vào ngày 31-01-2009 và bế mạc ngày 07-5-2010. Đây là một ân huệ đặc biệt Tòa Thánh dành cho một giáo xứ. Xét về mặt tôn giáo, sự kiện chỉ là thuần túy tôn giáo, không mang một ý nghĩa chính trị nào. Thế nhưng trong tình trạng nhân quyền và mọi thứ quyền tự do của con người tại VN bị tước đoạt, và nhất là tình hình "cấm đạo trá hình" của đảng VGCS hiện nay thể hiện rõ nét nhất tại giáo xứ Thái Hà trong thời gian qua, người ta không thể không nhận thấy những dấu vết mang tính chính trị trong quyết định của Tòa Thánh. Thật vậy, nguyên lý nền tảng của các tôn giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng là diệt trừ cái xấu và tội ác để hướng con người tới toàn chân toàn thiện. Bản chất của cộng sản là xấu xa và mọi hành động của nó đều là tội ác, cho nên tôn giáo và cộng sản luôn luôn là hai thực tại đối nghịch mang sẵn tính loại trừ lẫn nhau. Giáo Hội Công Giáo (GHCG) và nhiều nước CS tuy có thừa nhận nhau về mặt ngoại giao, nhưng bản tính loại trừ lẫn nhau vẫn không hề mất đi. Sự sụp đổ của chế độ CS Ba-Lan và sau đó Liên Sô và các nước CS Đông Âu với sự can dự gián tiếp của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là chứng minh cụ thể cho tính chất loại trừ nhau giữa Công Giáo và CS. Điều đó không ai có thể phủ nhận.
Ở đây vấn đề đặt ra là GHCG có thể tiêu diệt CS bằng cách nào được trong khi GH không có lấy một người lính cầm súng kể cả những vệ binh Thụy Sĩ canh gác tại Tòa Thánh. Câu trả lời khó mà làm vừa lòng những đầu óc thực nghiệm được. Vì là một tôn giáo, GHCG chủ trương tiêu diệt cái xấu và tội ác trong xã hội theo cách thức riêng đặc biệt của mình là lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện của người công giáo trên khắp thế giới đã tiêu diệt chế độ CS tại Nga. Đây không phải là một kết luận võ đoán, cũng không phải là một một sản phẩm tưởng tượng của những đầu óc bệnh hoạn, mà là một thực tế đã được chứng minh. Thật vậy, việc nước Nga từ bỏ chủ nghĩa CS đã xẩy ra đúng như việc Đức Mẹ hiện ra và tiên đoán trước tại Fatima nước Bồ Đào Nha vào năm 1917. Câu chuyện đã được rất nhiều báo chí, sách vở nói đến. Cầu nguyện để xin ơn của Thiên Chúa là giáo lý Chúa Giêsu đã dậy trong Phúc Âm: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho" (Mt 7,7). Năm 1917 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima chỉ bảo cho GH cách thức làm thế nào để tiêu diệt CS Nga. Cách thức đó là cầu nguyện. Chỉ có lời cầu nguyện cùng với việc thống hối bản thân, đọc kinh Mân Côi và GH dâng nước Nga cho Trái Tim Mẹ thì mới hoán cải được nước Nga. Đó là lời Đức Mẹ nói với 3 trẻ mục đồng Lucia, Jacinta và Phancicô tại thung lũng Corva Da Iria, làng Fatima, nước Bồ Đào Nha. Lời dậy bảo của Đức Mẹ được bảo đảm bằng một chứng minh cụ thể mà người ta gọi là "Phép lạ mặt trời nhẩy múa". Phép lạ này được trên 7 chục ngàn người chứng kiến tại chỗ bằng con mắt trần, trước ống kính của các ký giả quay phim chụp hình, và nhất là sự theo dõi vô cùng ngạc nhiên của những người vô thần, các cán bộ CS Bồ Đào Nha hiện diện. Qua một thời gian trên nửa thế kỷ thế giới công giáo liên lỉ cầu nguyện như lời Đức Mẹ dậy, và sau khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và toàn thể các giám mục thế giới dâng nước Nga cho TráiTim Đức Mẹ thì nước Nga CS đã biến đổi. Boris Yeltsin ngày 31-12-l991 lên nắm vận mệnh ngước Nga, giải tán đảng CS Liên Sô, bãi bỏ chế độ chuyên chính vô sản và tổ chức bầu cử dân chủ trên toàn nước Nga. Nên nhớ là khi Đức Mẹ hiện ra ngày 13-10-1917 tiên đoán sự sụp đổ của chế độ cộng sản Nga thì lúc đó chính thể CS chưa được thành lập trên nước Nga. Lenin lên nắm quyền tại Moscow ngày 10-10-1917 nhưng nửa tháng sau, ngày 25-10-1917 ông ta mới thành lập chính quyền Bolschevik đầu tiên tại nước Nga.
Sự sụp đổ các chế độ CS tại Nga và Đông Âu nhìn dưới nhãn quan người phàm thì không phải là một phép lạ mang tính siêu nhiên. Nếu không biết sự kiện Đức Mẹ hiện ra và lời tiên báo tại Fatima thì người ta chỉ coi đó là một diễn biến lịch sử xẩy ra theo đúng những qui luật chính trị và xã hội khách quan bình thường. Nhưng qua sự kiện Fatima , người ta không thể phủ nhận đó là sự can thiệp của bàn tay của Thượng Đế, nghĩa là một phép lạ. Một khối cộng sản hùnh mạnh như thế làm sao có thể sụp đổ nhanh chóng như thế mà không nổ một tiếng súng. Phân tính sâu xa hơn về điều kiện và tính chất của sự việc, người ta cũng đành phải công nhận đó là một phép lạ. Từ đó, người công giáo hiểu sâu xa hơn về mãnh lục của lời cầu nguyện.
Việc Tòa Thánh cho phép mở Năm Thánh tại giáo xứ Thái Hà không thể không phát xuất từ ý thức về mãnh lực của lời cầu nguyện. CSVN là một trong một số ít chế độ CS còn sót lại. Nó gây ra không biết bao nhiêu là tội ác về mọi mặt cho nhân dân VN. Điển hình nhất là trường hợp giáo xứ Thái Hà. Muốn tiêu diệt chế độ tàn bạo này nhưng GH không thể công bố công khai, GHCG tin vào lời Đức Mẹ dậy tại Fatima , chỉ trông cậy vào thứ vũ khí siêu nhiên là lời cầu nguyện. Sáng kiến xin Tòa Thánh cho mở Năm Thánh tại giáo xứ Thái Hà của Đức TGM Ngô Quang Kiệt và của các linh mục dòng CCT Thái Hà là một sáng kiến hết sức độc đáo và hợp thời. Dưới con mắt đức tin, đây là phương thức hữu hiệu nhất để đánh bại chế độ CSVN. Người công giáo VN không nên hiểu một cách chật hẹp Năm Thánh Thái Hà chỉ nên tổ chức tại Thái Hà mà không nên bành trướng ra các nơi khác. Đành rằng có điều giáo luật buộc rằng muốn được hưởng trọn ơn ích của việc tham dự Năm Thánh, người tín hữu phải đích thân đến kính viếng đền thánh Thái Hà. Nhưng đó là phần lợi ích cá nhân. Còn như muốn nói đến lợi ích quốc gia mà ý nghĩa bên trong của Năm Thánh muốn gói ghém thì nếu không thể đích thân đến Thái Hà được, các giáo phận, giáo xứ trên toàn quốc và ngoài hải ngoại cũng rất nên tham gia Năm Thánh bằng cách cách tổ chức các buổi cầu nguyên trong suốt năm Thánh Thái Hà để hiệp thông với Thái Hà không được sao? Nếu làm dấy lên một phong trào Năm Thánh Thái Hà ở khắp nơi trên đất nước và cả ở hải ngoại thì đó là một điều mà chúng tôi tin rằng không những người công giáo mà cả những người không công giáo cũng mong đợi. Lợi ích cho quốc gia đem lại từ lời cầu nguyện mới thật sự quan trọng. Mong sao Hội Đồng Giám Mục VN và tất cả các linh mục ý thức rõ ràng về điểm này. Năm Thánh Thái Hà có thể làm thay đổi được tình hình VN hay không tùy thuộc vào ý thức và sự tham gia tích cực của mỗi người công giáo VN.
Dưới nhãn quan của đức tin công giáo Năm Thánh Thái Hà là một niềm tin, một hy vọng mới cho đất nước và dân tộc VN. Xin thì sẽ được như lời Chúa hứa. Vấn đề là người CGVN trong cũng như ngoài nước có ý thức được mình muốn cầu xin cái gì và có đồng tâm đồng sức, có đủ lòng thành cùng với lòng tin tuyệt đối khi cầu xin hay không mà thôi. Cũng như các dân tộc Nga và Đông Âu trước kia hướng về và trông đợi ở Fatima , ngày nay cả dân tộc VN cũng đang hướng về và trông đợi ở Thái Hà.
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Quanh năm vào mỗi chiều Thứ Bẩy, người giáo dân Hànội và nhiều tỉnh lân cận có thói quen rủ nhau đi chầu "Đền Đức Mẹ". Đền Đức Mẹ đây là ngôi nhà thờ khang trang do dòng Chúa Cứu Thế Hànội thiết lập năm 1949 tại ấp Thái Hà để dâng kính Đức Trinh Nữ Maria với tước hiệu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Do đó ngôi thánh đường được gọi với cái tên dài dòng là Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thái Hà Ấp. Người Hànội còn gọi ngôi đền này là nhà thờ Nam Đồng. Cũng nên biết rằng khắp nơi tại VN, chỗ nào có các linh mục dòng Chúa Cứu Thế thì ở chỗ đó có nhà thờ tôn kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp to nhỏ tùy hoàn cảnh. Nhà thờ Thái Hà là Đền ĐMHCG kỳ cựu và nổi tiếng nhất tại VN. Là người VN, chúng ta cũng không nên quên rằng bên cạnh nhà thờ Thái Hà còn có di tích lịch sử Gò Đống Đa là nơi chôn xác 20 vạn quân Thanh xâm lược bị giết trong trận đánh vô cùng oanh liệt của Đại Đế Quang Trung vào đúng những ngày tết Kỷ Dậu 1789.
Đầu năm Kỷ Sửu vừa qua, đức Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt đã đến chủ sự thánh lễ hành hương kính Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp và khai mạc năm Thánh đặc biệt cho giáo xứ Thái Hà nhân kỷ niệm 80 năm thiết lập Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội và 60 năm thành lập giáo xứ Thái Hà. Năm Thánh Thái Hà khai mạc vào ngày 31-01-2009 và bế mạc ngày 07-5-2010. Đây là một ân huệ đặc biệt Tòa Thánh dành cho một giáo xứ. Xét về mặt tôn giáo, sự kiện chỉ là thuần túy tôn giáo, không mang một ý nghĩa chính trị nào. Thế nhưng trong tình trạng nhân quyền và mọi thứ quyền tự do của con người tại VN bị tước đoạt, và nhất là tình hình "cấm đạo trá hình" của đảng VGCS hiện nay thể hiện rõ nét nhất tại giáo xứ Thái Hà trong thời gian qua, người ta không thể không nhận thấy những dấu vết mang tính chính trị trong quyết định của Tòa Thánh. Thật vậy, nguyên lý nền tảng của các tôn giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng là diệt trừ cái xấu và tội ác để hướng con người tới toàn chân toàn thiện. Bản chất của cộng sản là xấu xa và mọi hành động của nó đều là tội ác, cho nên tôn giáo và cộng sản luôn luôn là hai thực tại đối nghịch mang sẵn tính loại trừ lẫn nhau. Giáo Hội Công Giáo (GHCG) và nhiều nước CS tuy có thừa nhận nhau về mặt ngoại giao, nhưng bản tính loại trừ lẫn nhau vẫn không hề mất đi. Sự sụp đổ của chế độ CS Ba-Lan và sau đó Liên Sô và các nước CS Đông Âu với sự can dự gián tiếp của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là chứng minh cụ thể cho tính chất loại trừ nhau giữa Công Giáo và CS. Điều đó không ai có thể phủ nhận.
Ở đây vấn đề đặt ra là GHCG có thể tiêu diệt CS bằng cách nào được trong khi GH không có lấy một người lính cầm súng kể cả những vệ binh Thụy Sĩ canh gác tại Tòa Thánh. Câu trả lời khó mà làm vừa lòng những đầu óc thực nghiệm được. Vì là một tôn giáo, GHCG chủ trương tiêu diệt cái xấu và tội ác trong xã hội theo cách thức riêng đặc biệt của mình là lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện của người công giáo trên khắp thế giới đã tiêu diệt chế độ CS tại Nga. Đây không phải là một kết luận võ đoán, cũng không phải là một một sản phẩm tưởng tượng của những đầu óc bệnh hoạn, mà là một thực tế đã được chứng minh. Thật vậy, việc nước Nga từ bỏ chủ nghĩa CS đã xẩy ra đúng như việc Đức Mẹ hiện ra và tiên đoán trước tại Fatima nước Bồ Đào Nha vào năm 1917. Câu chuyện đã được rất nhiều báo chí, sách vở nói đến. Cầu nguyện để xin ơn của Thiên Chúa là giáo lý Chúa Giêsu đã dậy trong Phúc Âm: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho" (Mt 7,7). Năm 1917 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima chỉ bảo cho GH cách thức làm thế nào để tiêu diệt CS Nga. Cách thức đó là cầu nguyện. Chỉ có lời cầu nguyện cùng với việc thống hối bản thân, đọc kinh Mân Côi và GH dâng nước Nga cho Trái Tim Mẹ thì mới hoán cải được nước Nga. Đó là lời Đức Mẹ nói với 3 trẻ mục đồng Lucia, Jacinta và Phancicô tại thung lũng Corva Da Iria, làng Fatima, nước Bồ Đào Nha. Lời dậy bảo của Đức Mẹ được bảo đảm bằng một chứng minh cụ thể mà người ta gọi là "Phép lạ mặt trời nhẩy múa". Phép lạ này được trên 7 chục ngàn người chứng kiến tại chỗ bằng con mắt trần, trước ống kính của các ký giả quay phim chụp hình, và nhất là sự theo dõi vô cùng ngạc nhiên của những người vô thần, các cán bộ CS Bồ Đào Nha hiện diện. Qua một thời gian trên nửa thế kỷ thế giới công giáo liên lỉ cầu nguyện như lời Đức Mẹ dậy, và sau khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và toàn thể các giám mục thế giới dâng nước Nga cho TráiTim Đức Mẹ thì nước Nga CS đã biến đổi. Boris Yeltsin ngày 31-12-l991 lên nắm vận mệnh ngước Nga, giải tán đảng CS Liên Sô, bãi bỏ chế độ chuyên chính vô sản và tổ chức bầu cử dân chủ trên toàn nước Nga. Nên nhớ là khi Đức Mẹ hiện ra ngày 13-10-1917 tiên đoán sự sụp đổ của chế độ cộng sản Nga thì lúc đó chính thể CS chưa được thành lập trên nước Nga. Lenin lên nắm quyền tại Moscow ngày 10-10-1917 nhưng nửa tháng sau, ngày 25-10-1917 ông ta mới thành lập chính quyền Bolschevik đầu tiên tại nước Nga.
Sự sụp đổ các chế độ CS tại Nga và Đông Âu nhìn dưới nhãn quan người phàm thì không phải là một phép lạ mang tính siêu nhiên. Nếu không biết sự kiện Đức Mẹ hiện ra và lời tiên báo tại Fatima thì người ta chỉ coi đó là một diễn biến lịch sử xẩy ra theo đúng những qui luật chính trị và xã hội khách quan bình thường. Nhưng qua sự kiện Fatima , người ta không thể phủ nhận đó là sự can thiệp của bàn tay của Thượng Đế, nghĩa là một phép lạ. Một khối cộng sản hùnh mạnh như thế làm sao có thể sụp đổ nhanh chóng như thế mà không nổ một tiếng súng. Phân tính sâu xa hơn về điều kiện và tính chất của sự việc, người ta cũng đành phải công nhận đó là một phép lạ. Từ đó, người công giáo hiểu sâu xa hơn về mãnh lục của lời cầu nguyện.
Việc Tòa Thánh cho phép mở Năm Thánh tại giáo xứ Thái Hà không thể không phát xuất từ ý thức về mãnh lực của lời cầu nguyện. CSVN là một trong một số ít chế độ CS còn sót lại. Nó gây ra không biết bao nhiêu là tội ác về mọi mặt cho nhân dân VN. Điển hình nhất là trường hợp giáo xứ Thái Hà. Muốn tiêu diệt chế độ tàn bạo này nhưng GH không thể công bố công khai, GHCG tin vào lời Đức Mẹ dậy tại Fatima , chỉ trông cậy vào thứ vũ khí siêu nhiên là lời cầu nguyện. Sáng kiến xin Tòa Thánh cho mở Năm Thánh tại giáo xứ Thái Hà của Đức TGM Ngô Quang Kiệt và của các linh mục dòng CCT Thái Hà là một sáng kiến hết sức độc đáo và hợp thời. Dưới con mắt đức tin, đây là phương thức hữu hiệu nhất để đánh bại chế độ CSVN. Người công giáo VN không nên hiểu một cách chật hẹp Năm Thánh Thái Hà chỉ nên tổ chức tại Thái Hà mà không nên bành trướng ra các nơi khác. Đành rằng có điều giáo luật buộc rằng muốn được hưởng trọn ơn ích của việc tham dự Năm Thánh, người tín hữu phải đích thân đến kính viếng đền thánh Thái Hà. Nhưng đó là phần lợi ích cá nhân. Còn như muốn nói đến lợi ích quốc gia mà ý nghĩa bên trong của Năm Thánh muốn gói ghém thì nếu không thể đích thân đến Thái Hà được, các giáo phận, giáo xứ trên toàn quốc và ngoài hải ngoại cũng rất nên tham gia Năm Thánh bằng cách cách tổ chức các buổi cầu nguyên trong suốt năm Thánh Thái Hà để hiệp thông với Thái Hà không được sao? Nếu làm dấy lên một phong trào Năm Thánh Thái Hà ở khắp nơi trên đất nước và cả ở hải ngoại thì đó là một điều mà chúng tôi tin rằng không những người công giáo mà cả những người không công giáo cũng mong đợi. Lợi ích cho quốc gia đem lại từ lời cầu nguyện mới thật sự quan trọng. Mong sao Hội Đồng Giám Mục VN và tất cả các linh mục ý thức rõ ràng về điểm này. Năm Thánh Thái Hà có thể làm thay đổi được tình hình VN hay không tùy thuộc vào ý thức và sự tham gia tích cực của mỗi người công giáo VN.
Dưới nhãn quan của đức tin công giáo Năm Thánh Thái Hà là một niềm tin, một hy vọng mới cho đất nước và dân tộc VN. Xin thì sẽ được như lời Chúa hứa. Vấn đề là người CGVN trong cũng như ngoài nước có ý thức được mình muốn cầu xin cái gì và có đồng tâm đồng sức, có đủ lòng thành cùng với lòng tin tuyệt đối khi cầu xin hay không mà thôi. Cũng như các dân tộc Nga và Đông Âu trước kia hướng về và trông đợi ở Fatima , ngày nay cả dân tộc VN cũng đang hướng về và trông đợi ở Thái Hà.
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Abonner på:
Innlegg (Atom)