søndag 27. januar 2013

Tâm Sự Của Một Người Ðau Khổ

 

Vợ chồng tôi định cư ở Mỹ vừa đúng 30 năm. Chúng tôi rất ít về Việt nam vì bà con chẳng còn mấy người. Nhưng đột nhiên khoảng hơn 2 năm trở lại đây, chồng tôi bỗng thường xuyên đi về VN đầy khó hiểu, lần gần nhất đã ở lại hơn 2 tháng.

Hỏi thì ông ấy bảo, về để tìm cơ hội làm ăn mà chẳng nói làm ăn cái gì, nhưng lần nào đi cũng mang nhiều tiền theo mà khi về thì hết sạch. Thời gian ở nhà, ông thường lên mạng ngồi Chat rất khuya và có nhiều cuộc điện thoại rất lâu, ông thường lén ra vườn ngồi nghe một mình làm tôi hết sức nghi ngờ. Sự nghi ngờ càng tăng khi ông nhạt hẳn chuyện gối chăn cùng vợ, cái nhạt nhẽo này rất khác thường so với trước, vì chúng tôi mới hơn 60 tuổi.

Tôi điện thoại về VN dò hỏi nhiều người quen thì được biết, ông cặp bồ với một phụ nữ không còn trẻ nhưng đẹp.

Tôi vội vã lấy vé bay về VN thì cũng là lúc chồng tôi trên đường về Mỹ.

Tôi ở lại VN gần một tháng lân la dò hỏi thì được biết người phụ nữ kia ở trong “Nhóm câu Sài gòn”, tức là câu người trên mạng. Tôi đã mất rất nhiều công sức và tiền bạc mới biết được nhóm này có khoảng 10 người, chuyên lên mạng sưu tầm các hình ảnh độc đáo, và những thông tin nóng mà nhiều người nước ngoài quan tâm rồi Post lên mạng và các diễn đàn. Từ đó nhóm này có vô số người quen khắp nơi thế giới. Mỗi người trong nhóm luôn có hàng ngàn địa chỉ để giao lưu quan hệ.

Tôi dấu mình không cho biết tôi từ Mỹ về, thật may mắn, tôi được giới thiệu và kết thân với 1 người trong nhóm. Lân la mãi, tôi được cô này cho xem cả xấp hình, trong đó có hình chồng tôi đi câu cá ở Bình Chánh, rồi tắm biển Nha Trang chung với cả nhóm. Nhờ thế, tôi biết rõ mặt người phụ nữ kia khi đang ôm chồng tôi. Cố dằn lòng, tôi vẫn tỉnh bơ như không quen biết ai trong những tấm hình trước mắt.

Khi hết sức thân, cô gái kia mới dốc bầu tâm sự. Đại khái cô cho biết, chúng em là những người tử tế, có ăn học và có nhà cửa đàng hoàng, chỉ tội nghèo.

Cô rất tự hào về chuyện “câu” của mình.
Cao hứng cô bóc trần mọi thứ:
“Chị tưởng ai cũng có thời gian suốt ngày trên Net ư?..”

Chị tưởng ai cũng đủ trình độ để sưu tầm những hình ảnh độc đáo và các tin tức nóng hay sao?...”

Những email em gởi là các mồi câu. Cả ngàn Mail gởi đi, bèo nhất cũng có vài chục phản hồi, bao nhiêu năm như thế chúng em có vô số bạn hữu, từ thân ít đến thân nhiều và rất thân.

Trong đó em sẽ lựa ra, con nào hám của lạ ( nhiều lắm) đủ mọi thành phần. Và em thường dành ưu tiên cho cá nước ngoài ( vì dễ dãi bạc tiền) luôn đặc biệt quan tâm đến loại vợ chết và nhất là loại cá già, cá càng già càng tốt và càng dễ câu. Nhưng thú vị nhất là loại vợ chết.

Đầu tiên là chat, kế tiếp là điện thoại và sau đó là hẹn gặp tại VN, em luôn thòng rằng : “Xin làm hướng dẫn viên miễn phí, mọi nơi mọi lúc”. Ít khi em chủ động gọi điện thoại lắm, vì tốn tiền, chỉ cần nhá máy, “cá” sẽ gọi lại ngay.

Em siêng chat lắm, có lần cùng một lúc phải chat với 4 – 5 cá, nhưng vẫn khỏe re.

Cô hào hứng huỵch toẹt:

“ Em đang là em tinh thần, là em kết nghĩa, là cháu dễ thương...” của rất nhiều cá nước ngoài. Cả là “người thương yêu dấu” hoặc là “cục cưng rất nhớ” của nhiều con cá lờ đờ đó chị ạ. Mỗi kỳ lễ, Tết hoặc Sinh nhật em đều có quà của cá từ các nơi, cá luôn hào phóng và rộng tay với bọn em.

Cá về, em đón. Cá đi em tiễn. Nhưng ngại nhất là vào tháng Tết này, nhiều cá về lắm, em rất lúng túng khi xếp lịch vì sợ cá đụng đầu, do đó, mỗi đứa bọn em luôn có ít nhất là 4 hoặc 5 số điện thoại. Sợ cá ghen khi thấy máy bận.

Bọn em có đứa đã mua được nhà, đã mua được xe xịn, còn đi du lịch đó đây thì là chuyện vặt.

Chợt giọng cô chùng xuống:

Bọn em đứa lớn nhất cũng trên 50 rồi, trong đó mấy đứa đã vướng HIV vì cá nước ngoài chẳng ai chịu dùng bao cao su ( cô chỉ ngay người phụ nữ trong hình đã cặp bồ với chồng tôi 2 năm nay). Mấy đứa này vừa đang uống thuốc vừa đang “trả thù đời”, chúng ngủ với bất cứ ai muốn chúng và nhất định không cho dùng bao.

“Nhóm câu SG” là tên kín đáo bọn em tự gọi cho vui, ít người biết lắm.

Vậy làm sao tránh được? Tôi hỏi.

Cô bảo: Không tránh được đâu, khó biết lắm. Vì bọn em là người đàng hoàng, có ăn học tử tế, có đứa còn là Phật tử thuần thành siêng lễ bái lắm chị ơi.

Tôi tối xầm cả mặt, ù hết cả tai khi nghĩ đến chồng tôi, không còn hơi sức đâu nghe tiếp phải lảo đảo đứng lên ra về.

Tôi trở lại Mỹ mà lòng tan nát. Ba ngày không nói với chồng một câu. Cuối cùng, chẳng thể mãi thinh lặng, tôi kể hết với ông những chuyện tôi biết về “Nhóm câu SG” và yêu cầu ông đi xét nghiệm máu. Mới đầu ông nổi giận ghê gớm và quát nạt kinh khủng. Quá chán nản, tôi chẳng nói lại nửa lời. Sau đó, tôi lẳng lặng thu xếp áo quần về ở với con trai lớn hơn 1 tháng trời. Trong thời gian này, ở nhà ông ấy đi xét nghiệm máu : Kết quả DƯƠNG TÍNH HIV. Dù đã đoán trước nhưng tôi vẫn bàng hoàng đổ sụp và nghĩ đến bản thân mình.

Ba tháng sau mới lấy lại được thăng bằng, tôi đi xét nghiệm, kết quả cũng như chồng tôi DƯƠNG TÍNH HIV.

Tôi có 2 trai và 2 gái đều trưởng thành. Tôi không biết vi tính, không có nickname, phải nhờ con gái viết lại chuyện buồn của mình gởi các diễn đàn, chỉ với mong ước các diễn đàn tiếp tục phổ biến, đến càng nhiều càng tốt, sao cho mọi người cảnh tỉnh, đừng để ai vướng phải bất hạnh như gia đình tôi.

Đó là tâm nguyện của tôi, xin các diễn đàn giúp tôi hoàn thành tâm nguyện cuối đời của mình.

Người phụ nữ bất hạnh.

Điều 4 Hiến Pháp 1992


Điều 4 trong bản “Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – 2005 – Bản sửa đổi), có đoạn viết như sau: “Đảng Cộng Sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Điều 4 này mâu thuẫn và chống lại Điều 2, Điều 3, Điều 8, Điều 15, Điều 16, Điều 21, Điều 83 của chính bản Hiến pháp. Chúng tôi sẽ lần lượt chứng minh.

Điều 2 của bản Hiến pháp có đoạn viết như sau: “Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”. Theo Điều 2 này khẳng định nước CHXHCNVN là một nước dân chủ. Bởi, Điều 2 nhắc lại định nghĩa của Ngài Abraham Lincoln (1809-1865) – vị anh hùng giải phóng nô lệ, vị tổng thống thứ 16 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, thần tượng của Karl Marx, được Marx tôn làm biểu tượng của Tự Do – định nghĩa về một quốc gia dân chủ như sau: “Một quốc gia dân chủ là một quốc gia mà chính quyền của dân, do dân, vì dân!”.

Như vậy, khi Điều 4 khẳng định: “Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, tức là nước CHXHCNVN theo một chế độ Đảng trị = Đảng chủ, hoàn toàn chống lại Điều 2: khẳng định nước CHXHCNVN là một nhà nước Dân trị = Dân chủ! Như vậy, nếu căn cứ vào Điều 2, thì Điều 4 là vi hiến và ngược lại; nhưng Điều 2 có trước Điều 4, nên ta có thể coi Điều 4 là điều vi hiến được chăng?

Điều 83 của Hiến pháp có đoạn viết như sau: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCNVN. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Như vậy, Điều 2 và Điều 83 cùng khẳng định quyền tối thượng của nước CHXHCNVN thuộc về nhân dân chứ không thuộc về Đảng CSVN như Điều 4 đã quy định Đảng CSVN nắm quyền tuyệt đối: “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Xã hội là toàn bộ đời sống văn hoá, chính trị, kinh tế, pháp luật, thể chế, lịch sử, tôn giáo…của con người trong một quốc gia. Tức là Điều 4 quy định Đảng CSVN là chủ nhân ông của đất nước và dân tộc Việt Nam, là ông vua của các vua, chúa của các chúa. Nhưng oái oăm thay, ở Điều 2 và Điều 83, bản Hiến pháp năm 1992 lại khẳng định Nhân Dân là chủ nhân ông của đất nước và dân tộc, nắm quyền tối thượng quốc gia, y hệt các nhà nước dân chủ khác trên thế giới vậy (Thế giới ngày nay có chừng 95% số quốc gia theo chế độ dân chủ đại nghị). Do đó, cứ theo Điều 4, Điều 2, Điều 83, thì nước Việt Nam ta có hai “vua”: “Vua Đảng CSVN” và “Vua Nhân Dân” ư ? Nếu lấy hai chọi một, thì Điều 4 là thiểu số phải bị coi là vi hiến trước Điều 2 và Điều 83 đa số?

Chưa hết, ngay cả ở Điều 3 trong bản Hiến pháp 1992 cũng hàm chứa yếu tố chống lại Điều 4.

Điều 3 có đoạn viết như sau: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”. “Quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân” nghĩa là nhân dân làm chủ tất tần tật mọi sinh hoạt xã hội từ chính trị, văn hoá xã hội, thể chế, luật pháp, lịch sử của nước Việt Nam. Mệnh đề này của Điều 3 trong Hiến pháp phủ nhận Điều 4. Như vậy, Điều 3 đã về hùa với các Điều 2 và Điều 83 cùng xóa bỏ Điều 4 trong bản Hiến pháp.

Mệnh đề thứ 2 của Điều 3 viết như sau: “ Thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”. Chính Điều 3 trong Hiến pháp đã xác định xã hội Việt Nam là một xã hội công bằng, tự do. Tự do và Công bằng xã hội là mọi công dân đều bình đẳng, không ai nhảy ra sai khiến (lãnh đạo) ai mà không được sự đồng ý của người bị sai khiến (bị lãnh đạo). Đảng CSVN chỉ là một nhóm người rất thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (ngót ba triệu đảng viên CS trong khi đó có hơn 90 triệu người dân ngoài đảng). Vậy thiểu số kia muốn cai trị (lãnh đạo) đa số này phải hỏi ý kiến xem 80 triệu dân có đồng ý (cho phép) Đảng CSVN cai trị đại đa số nhân dân Việt Nam hay không?

Nghe câu hỏi này, Đảng CSVN bèn bảo: – Quốc hội nước CHXHCNVN đã bỏ phiếu xác định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng CS thì không phải là toàn dân đồng thuận là gì? Vâng, đấy chỉ là sự đồng thuận hình thức, đồng thuận ảo, đồng thuận giả tạo! Vì trong Quốc hội có đến hơn 95% đại biểu là đảng viên CS, thì Quốc Hội thực chất chỉ là Quốc hội của Đảng CS mà thôi! Với phương châm bầu cử: “Đảng cử, Dân bầu” của Đảng CS, thì người dân (hơn 80 triệu) đã bị tước quyền ứng cử và bầu cử. Khi Nhân Dân mất quyền “cử” thì chữ “ bầu” cũng thành vô nghĩa, thành trò hề! Do đó, mọi cuộc bầu bán do Đảng CS tổ chức để hình thành Quốc hội đều chỉ là hình thức, là trò ảo thuật kiểu Đảng CS vừa đá bóng, vừa thổi còi, vừa lĩnh thưởng mà thôi! Bầu cử Quốc Hội mà Đảng CS toàn cử người của mình ra ứng cử, rồi bắt dân chỉ được quyền “Bầu”, không được quyền “Cử”, Dân không được quyền kiểm phiếu thì cái Quốc Hội kia chỉ là Quốc Hội của Đảng chứ nào đâu còn là Quốc hội của Dân? Do đó, chính Đảng CSVN đã vi phạm Điều 3 của Hiến pháp là không tôn trọng hai chữ: Tự do – Bình đẳng (Công bằng)!

Như vậy, Điều 3 trong Hiến pháp đã phủ nhận chính Điều 4 vậy!

Điều 8 trong bản Hiến pháp 1992 có đoạn viết như sau: “Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Điều 8 không cho phép ai (kể cả Đảng CS) được phép quan liêu, cửa quyền. Nhưng ở Điều 4, Đảng CSVN đã chứng tỏ sự quan liêu, cửa quyền của mình bằng cách tự cho mình quyền lãnh đạo tối thượng nhân dân Việt Nam trái với quy định ở Điều 2, Điều 3 và Điều 83. Do đó, Điều 8 cũng đã phủ nhận chính Điều 4.

Điều 15 trong bản Hiến pháp, có đoạn viết: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Chính sự khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường (khái niệm “định hướng XHCN” hoàn toàn vô nghĩa), chấp nhận nền kinh tế tư nhân tại Việt Nam nơi Điều 15 này đã phủ nhận Điều 4; vì Điều 4 ghi: “Đảng CSVN theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Vì sao vậy? Vì ai đã đọc Mác-Lênin, dù chỉ ở trình độ sơ cấp, cũng biết chủ nghĩa Mác-Lê phủ nhận kinh tế thị trường = tư bản, xóa bỏ sở hữu tư nhân. Có chủ nghĩa Mác- Lê thì không có kinh tế tư bản = kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân và ngược lại! Như vậy, Điều 15 đã xóa bỏ Điều 4 hay ngược lại!?

Điều 17 trong bản Hiến pháp 1992 tiếp tục phủ nhận Điều 4 bằng cách nói rõ hơn sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam như sau: “Phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”. Chính sự khẳng định Đảng CSVN lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Điều 17 này đã giết chết chủ nghĩa Mác-Lênin là tôn giáo và cương lĩnh của Đảng như Điều 4 đã quy định. Vậy, Điều 17 này đã xóa bỏ Điều 4 hay ngược lại?

Điều 21 trong bản Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường, tức kinh tế tư bản chủ nghĩa, như có đoạn viết sau: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động”. Mục đích của chủ nghĩa Mác-Lê Nin là chôn chủ nghĩa tư bản. Sao Đảng CSVN ghi trong Điều 4 Hiến pháp “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin” lại phát triển kinh tế tư bản? Hóa ra, bằng cách đề ra bốn Điều: 15, 16,17, 21 trong Hiến pháp 1992 là xây dựng nền kinh tế tư bản trên đất nước Việt Nam, Đảng CSVN đã làm ngược lại 180 độ chủ nghĩa Mác–Lênin; cũng có nghĩa là chính Đảng CSVN không chôn tư bản như nguyên lý Mác-Lênin đã dạy, mà ngược lại còn đi xây dựng tư bản chủ nghĩa. Như vậy, có phải chính là Đảng CSVN đã ngầm xóa bỏ Điều 4 trong bản Hiến pháp?

Tựu trung, Điều 4 trong Hiến pháp 1992 (bản sửa đổi) đã xóa bỏ các Điều 2, 3, 8,15, 16, 21, 83 của chính bản Hiến pháp, cũng là xóa bỏ nền tảng của bản Hiến pháp vậy! Muốn bản Hiến pháp không bị vô hiệu hoá vì sự thậm vô lý (ngược đời), cần phải xóa bỏ Điều 4. Vả lại, nếu Điều 4 Hiến pháp không bị xóa bỏ, hiển nhiên là các cuộc bầu cử của nhà nước Việt Nam chung quy chỉ là hình thức, là trò đùa mà thôi; vì Hiến pháp đã khẳng định đảng cộng sản Việt Nam với số đảng viên thiểu số ( ba triệu) là lực lượng vĩnh viễn lãnh đạo đất nước, lãnh đạo khối nhân dân đa số ( 90 triệu ) thì còn bầu cử làm gì cho mất công, vô ích. Chính Điều 4 Hiến pháp này đã thông báo một điều hiển nhiên : NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM LÀ NHÀ NƯỚC ĐỘC TÀI, ĐỘC ĐẢNG, TUYỆT ĐỐI KHÔNG PHẢI LÀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ như Hiến pháp đã lừa dối tuyên bố.

Trần Mạnh Hảo.

Người Chiến Binh “Bất Tử”


Biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968 là một đòn giáng vào quân đội Miền Nam Việt Nam khi hằng chục sư đoàn Cộng quân gồm quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt và quân du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đồng loạt mở cuộc “tổng tấn công, tổng nổi dậy” bất ngờ trong thời gian hưu chiến nhân dịp Tết, đánh vào nhiều tỉnh lỵ và thành phố tại Miền Nam Việt Nam, kể cả thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế. Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đứng vững và lần lượt tái chiếm hết những phần đất bị Cộng quân tạm chiếm, kể cả cố đô Huế, và xóa tên nhiều đại đơn vị của Cộng quân.

Quân đội này lại còn hùng mạnh hơn lên khi đồng minh Hoa Kỳ quyết định tăng cường võ trang các chiến cụ tối tân cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để họ có thể tự mình chiến đấu bảo vệ Miền Nam Việt Nam đặng quân Mỹ có thể yên lòng và có thêm chính danh mà rút về nước trong một chiến lược mới được gọi là “kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh” do Tổng Thống Richard Nixon và cố vấn an ninh quốc gia lúc bấy giờ là Tiến Sĩ Henry Kissinger đề xướng.

Rồi cuộc tổng tấn công Mùa Hè năm 1972 của Cộng quân lại diễn ra sau khi Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam tại Hà Nội quyết định rằng Cộng quân phải lấn cho bằng được càng nhiều đất càng tốt, giành cho bằng được càng nhiều dân càng hay để họ có thể chiếm lợi thế trên bàn hội nghị bốn bên lâm chiến đang diễn ra tại Paris, Pháp, nhằm “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình” tại Miền Nam Việt Nam. Dù bị tấn công bất thình lình và bước đầu bị mất đi thành phố Quảng Trị tại Vùng 1 Chiến Thuật và quận (chi khu) An Lộc tại Vùng 3 Chiến Thuật, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một lần nữa, lại cả thắng trong “mùa Hè đỏ lửa” ấy, lấy lại hầu hết những đất đai và dân chúng đã mất vào tay Cộng quân trước đó.

Hội nghị hòa bình tại Paris kết thúc với Hiệp Ðịnh Paris (Ba Lê) 1973, theo đó chính quyền Nixon, vì quá nóng lòng muốn lấy lại các tù binh đang bị Cộng Sản Bắc Việt giam giữ cũng như để thỏa mãn đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh và rút quân đội về nước của các nhóm phản chiến đang lên cao tại Mỹ, đã ép buộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải nhân nhượng nhiều điều hết sức thất lợi cho sự sống còn của Miền Nam Việt Nam sau này qua bản văn chung cuộc của Hiệp Ðịnh Paris 1973.

Cái chết của Miền Nam Việt Nam và cái chết của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là hậu quả tất yếu của một cuộc chiến tranh trong đó cả hai bên lâm chiến đều không ai có đủ điều kiện - quân sự và chính trị - một mình đứng ra đảm đương cuộc chiến mà phải nhờ đến các thế lực bên ngoài. Rồi khi một trong hai bên nào đó thình lình bị đồng minh bỏ rơi - như trường hợp của Việt Nam Cộng Hòa - thì kẻ bị bỏ rơi đương nhiên phải thua trận.

Vì bị Hoa Kỳ bỏ rơi nửa chừng sau khi dân chúng và chính phủ của nước đồng minh này không chịu đựng nổi những tổn thất kéo dài về nhân mạng và tiền bạc trong cuộc chiến, Việt Nam Cộng Hòa - hay Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - đành phải chết đi một cách tức tưởi. (Ở đây, người viết thấy cần phải nói lên cảm nghĩ rằng phần đông những người lính Cộng Hòa cũ, sau nhiều năm suy nghĩ về sự bỏ rơi kia, đã thôi không còn oán hận gì người bạn chiến đấu Mỹ năm xưa. Ðại đa số dân chúng Miền Nam Việt Nam bây giờ đều hiểu rằng một dân tộc giàu có và đáng sống như dân tộc Mỹ mà dám hy sinh cả trên 50,000 mạng người - hầu hết là những thành phần trẻ ưu tú - trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do, dân chủ cho Miền Nam Việt Nam thì ngần ấy những hy sinh là đã quá đủ rồi.)

Những gì sẽ xảy ra nếu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và tiền thân của quân đội này không hiện hữu hay quân đội này phải bị tan rã ngay từ các thời điểm 1954, 1963, 1965, 1968, hoặc ngay cả vào năm 1972? Ðiều kỳ diệu là, ngay cả trong những giờ phút khó khăn nhất của Miền Nam Việt Nam khi cuộc chiến tranh xâm lược và phá hoại của Cộng Sản đang lên tới cao điểm với những cuộc tấn công liên tục ngoài chiến trường và những chiến dịch gây xáo trộn cùng bất ổn triền miên trong quần chúng ở hậu phương, dân chúng Miền Nam, dưới sự bảo vệ vững chắc và nhờ những hy sinh vô bờ bến của người lính Cộng Hòa nơi tuyến đầu khói lửa cũng như trên khắp các mặt trận khác, vẫn có được cái xa xỉ là tiếp tục sinh hoạt bình thường, tiếp tục mua bán, kinh doanh làm giàu, và tiếp tục ăn học thành tài để trở thành những chuyên gia rường cột của đất nước mai sau.

Và điều may mắn lớn lao nhất cho dân tộc là sự thể quân đội này đã thoát hiểm và sống còn đến trên hai thập niên, cũng vừa đủ thời gian cho mầm tự do, dân chủ đâm chồi và bén rễ trên quê hương Việt Nam khiến cho Cộng Sản Việt Nam ngày nay chỉ còn là một cái vỏ trống không, và tất cả những giáo điều cùng lý luận của chủ nghĩa Cộng Sản đều lâm vào ngõ bí khi các vị “thánh tổ” của chủ nghĩa này từ bên trời Âu lần lượt lăn đùng ra chết. Dĩ nhiên là Cộng Sản Việt Nam vẫn còn giữ lại một điều duy nhất, đó là nguyên tắc độc đảng, mà nếu họ lại bỏ đi nữa thì cái câu “trong bụng mỗi người dân An Nam đều có một ông quan” - vốn do một quan chức thực dân Pháp nham hiểm thốt lên từ hồi đầu thế kỷ trước - hóa ra chẳng có ý nghĩa gì hết hay sao?.

Dẫu sao, ba thập niên sau ngày Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, khi nghĩ về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cái chết tuy đầy uất ức nhưng cũng đầy hào hùng của quân đội này vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975, người ta vẫn thấy rằng cái tinh thần mà quân đội đó mang theo vào mỗi trận đánh, mỗi chiến trường trên khắp các nẻo đường đất nước từ Nam chí Bắc - xin đừng quên những Phạm Phú Quốc, Trần Thế Vinh, Nguyễn Văn Ðương, Nguyễn Ðình Bảo, Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn... vẫn còn sống mãi trong lòng dân tộc và sẽ là mầm phục sinh cho một đất nước và một dân tộc đã trải qua gần hết mọi cuộc bể dâu trong đời. Hay, nói như Nhật Trường Trần Thiện Thanh, một người lính Cộng Hòa và cũng là một ca, nhạc sĩ tài hoa của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại qua nhạc phẩm “Anh Không Chết Ðâu Anh”: “Không, anh không chết đâu anh. Chưa, anh chưa chết đâu anh...”

Văn Phan.
 

lørdag 26. januar 2013

Mùi Việt Gian


Một tuần nay, cứ đều đặn buổi sáng đến công ty làm việc, buổi chiều tối bày đồ trẻ em ra bán trước cửa công ty. Từ ngày bán đồ trẻ em, ngoài việc có thể kiếm thêm được một chút tiền để ổn định cuộc sống, tôi còn cảm thấy hạnh phúc hơn khi nhìn thấy những nụ cười hồn nhiên thơ ngây khoác lên mình những chiếc áo, chiếc váy mang xuất xứ không phải từ Trung Quốc. Những bộ đồ trẻ em mà tôi bán đều được tôi lựa chọn kĩ càng, tôi chỉ nhập hàng Việt và hàng Thái để bán cho khách. Với mong muốn "người Việt Dùng hàng Việt, tẩy chay, tránh xa các sản phẩm độc hại từ Trung Quốc", dù có hôm chỉ bán một bộ đồ, tôi vẫn cảm thấy mình đã làm được một việc có ích.

Điều mà tôi đã và đang làm chỉ là một điều vô cùng nhỏ nhoi, có thể nhiều người cho rằng vô ích trong cái "biển rác thải khổng lồ" hàng hóa Trung Quốc nhưng lại khiến tôi hứng thú và pha lẫn chút niềm vui của riêng mình. Trước đây, dù không muốn trả tiền cho nỗi đau sử dụng hàng Tàu nhưng tôi chưa nghĩ ra cách tháo gỡ cho thói quen mua sắm. Từ ngày mở quầy bán đồ trẻ em, tôi lại có thêm một cách riêng để chọn lựa, cách riêng để tẩy chay hàng hóa độc hại Trung Quốc.

Công ty tôi làm có hai mặt tiền, mặt đằng trước hướng ra phía đường, còn mặt tiền thứ 2 là vỉa hè trong hẻm. Mỗi hộ kinh doanh ở những khu vực này được để ra 1m vỉa hè dựng xe. Cứ khoảng 5 chiều mỗi ngày tôi dọn hàng ra bán trên vỉa hè trong hẻm và 11 giờ thì dẹp hàng vào trong.

Có vẻ quầy hàng của tôi rất được nhận rất nhiều sự ủng hộ của mọi người, mỗi ngày mỗi đông, người bán thì niềm nở, khách hàng thì tươi cười vui vẻ, ai cũng rất an tâm vì vừa mua được hàng rẻ, chất lượng mà lại không phải là hàng Trung Quốc. Nhiều khi thấy khách hàng thoải mái và tin tưởng, tôi lại khúc khích cười một mình.

Sau một tuần mở quầy hàng, hai tối nay chúng tôi bị "người ta" kéo đến dẹp và tịch thu đồ. Trong khi đó, ngay cạnh bên, người ta bán quán ốc, bày ra vỉa hè nhậu nhẹt thì lại không vấn đề gì. Điều lạ là ngày hôm trước có hai thanh niên nhìn mặt rất "an ninh" đến quầy hàng của chúng tôi, chọn một bộ đồ trẻ em, xem rất kĩ rồi xin tôi 2 chiếc túi nilon "tẩy chay hàng độc hại Trung Quốc". Hôm sau và liên tiếp hôm nay xe công an phường đến dẹp hàng. Họ còn tiến thẳng đến quầy hàng của tôi giằng co đồ đem lên xe. Thậm chí họ còn xông vào nhà, cướp đồ mang ra xe, hành động không khác gì những tên cướp.

Xung quanh có biết bao nhiêu người kinh doanh vỉa hè nhưng họ không quan tâm tới, chúng tôi ngồi dẹp vào vỉa hè trong hẻm không phải vỉa hè chính nhưng lại nhận được sự quan tâm đặc biệt. Bán hàng thì phải treo biển và tôi cảm thấy chiếc biển của tôi đề "cam kết không bán hàng Trung Quốc" không có gì là sai?

Một người phụ nữ thân hình mập mạp, còn đòi thu máy ảnh của anh Thành – chồng tôi, khi anh chụp lại cảnh họ lao vào giật đồ. Tôi bức xúc hỏi bà ta là ai? Bà ta trả lời bà ta là dân! Là dân mà lại có đặc quyền thu máy ảnh của người khác? Một anh trật tự phường đứng ra bênh vực "cô ấy là trưởng hộ kinh doanh của phường. Cô ấy không có quyền nhưng người khác có quyền ấy". Tôi chỉ tay thẳng mặt anh ta "kể cả anh cũng không có quyền ấy, công dân có quyền giám sát cơ quan chức năng làm nhiệm vụ, nếu các anh làm đúng thì có gì mà phải sợ bị chụp lại". Hình như họ đang cho rằng "luật là tao, tao là luật", muốn làm gì thì làm thì phải? Thậm chí tôi treo quần áo trên tường của công ty, không bày ra vỉa hè mà họ cũng nói là không được.

Họ cố tình nhắm vào quầy hàng của tôi, tôi chắc chắn điều đó. Nhưng vì sao? Vì "cam kết không bán hàng Trung Quốc" ư? Một câu hỏi khiến tôi nhức nhối khi nghĩ đến câu trả lời.

Bọn cầm quyền "buôn dân, bán nước, hãm hại đồng bào", ngày càng để lộ ra bộ mặt thái thú tàn ác. Chúng hết cống nạp đất đai biển cả cho quốc mẫu nay lại còn lo đi bảo vệ từ cây kim sợi chỉ của nước mẹ bằng cách cấm đoán dân Việt buôn bán sản phẩm nội địa, điều này có khác gì chúng giết dân Việt để cho dân Tàu được sống; vậy chúng là người Việt hay người Tàu?

Trịnh Kim Tiến.

Ðau Cả Loài Người


Tôi vừa bóc đi tờ lịch cuối cùng của năm cũ vừa ngồi viết những giòng chữ vô nghĩa này như một cách tự vỗ về mình. Và cũng là để ngăn nỗi ám ảnh không tràn sang năm mới. Nỗi ám ảnh về một người phụ nữ đang mang thai phải sống trong ngục tù. Nỗi ám ảnh về một người phụ nữ khác bị đánh đập, bị lột quần áo để cho những kẻ -tự nhận mình là con người- khám xét khắp cơ thể ngay tại trụ sở phường công an, một nơi được hiểu là "làm nhiệm vụ bảo vệ công dân". Nỗi ám ảnh về một gia đình có đến ba người bị bắt trong vòng chưa đầy ba tháng.

Ấn tượng đầu tiên của tôi về anh- Luật sư Lê Quốc Quân – là hình ảnh anh bị gần chục công an "kéo xềnh xệch" trước trụ sở Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội mà miệng vẫn hô vang: "Trường Sa- Hoàng Sa là của Việt Nam!". Đó là ngày 9/12/2007, ngày mà lần đầu tiên kể từ sau năm 1975, người dân dám xuống đường để bày tỏ lòng yêu nước, phản đối việc xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam. Hồi đó, có lẽ anh còn chưa biết tôi. Sau này khi tiếp xúc với anh , tôi đã rất ngạc nhiên: chưa bao giờ anh nói với tôi về Nhân quyền hay Dân chủ, những giá trị mà cả tôi và anh đều đang theo đuổi. Tôi nhận ra một điều rất thú vị nơi anh, là anh thích truyện cười, truyện tiếu lâm và đã kể rất có duyên những câu chuyện ấy.

Khi tôi vừa mãn hạn tù hơn một tháng thì em trai anh, anh Lê Đình Quản bị bắt. Ít ngày sau, "công an Hà Nôị về tận quê ở xóm Vĩnh Hòa, giáo phận Vinh tìm bắt chị Nguyễn Thị Oanh là em con cậu ruột của anh Quân ngay khi chị Oanh đang về quê để dưỡng thai và chăm sóc bố đang ốm". Bi kịch chưa dừng lại ở đó. Ngày 27/12/2012, đang trên đường chở con đi học thì anh Quân bị hàng chục công an chặn bắt, đồng nghĩa với việc họ cũng cướ luôn tuổi thơ của con anh. Cả ba anh em họ đều bị bắt với tội danh "Trốn thuế" trong khi "chi cục thuế quận Đống Đa đã đưa công ty VietnamCredit ( do anh Lê Đình Quản làm Giám đốc) vào danh sách khen thưởng vì nộp thuế đủ và đúng hạn". Tôi không thể hình dung ra được mình sẽ chịu đựng thế nào nếu phải ở trong hoàn cảnh ấy. Anh sẽ phải sống những ngày tháng trong tù để đau nỗi đau của mẹ, của vợ, của con anh. Sẽ phải đau nỗi đau của người em gái và đứa cháu đang đợi ngày chào đời.

Hồi bị biệt giam, tôi ở cạnh buồng của Quỳnh, một người tù cũng đang chờ ngày được lên chức bố. Quỳnh bị bắt khi về chịu tang bố sau những ngày trốn nã. Quỳnh bảo với tôi: " Có lẽ vợ em sẽ sinh đúng ngày cúng 49 của bố em, chị ạ. Nhưng không biết là con trai hay gái". Đêm nào Quỳnh cũng hát, và hát rất hay những bài hát thật buồn. Tôi hay bị ám ảnh bởi giọng hát ( đúng hơn là tâm trạng) của Quỳnh.Tôi nhớ nhất là những câu:
" Hỡi những bạn bè nằm trong lao lý
Con tôi chào đời là trai hay gái?
Em ơi ở nhà lo cho con em nhé
Anh xin hẹn lại kiếp sau trọn đôi."

Tôi không biết vợ Quỳnh sinh con trai hay gái, có sinh đúng thời gian Quỳnh tính toán hay không và Quỳnh bị kết án bao nhiêu năm vì sau đó ít hôm, cậu ta bị chuyển đi nơi khác. Nhưng ít ra, vợ Quỳnh khi sinh nở dù vắng chồng vẫn sẽ được gia đình nội ngoại, bạn bè chăm sóc, chúc phúc. Quỳnh, sau ít năm trở về sẽ được ôm con vào lòng để tận hưởng hạnh phúc của tình phụ tử. Hoàn cảnh ấy tuy đáng thương nhưng không đáng lo như chị Oanh.Việc bắt giữ và giam một phụ nữ đang mang thai không chỉ vi phạm pháp luật (cụ thể là điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự, vi phạm Luật Bảo vệ và chăm sóc bà mẹ và trẻ em, vi phạm một số điều được quy định trong Bản Tuyên ngôn Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc mà chính Việt Nam đã tham gia ký kết) , mà còn xúc phạm nghiêm trọng đến truyền thống đạo đức và danh dự của người Việt Nam.Thêm nữa, gia đình Luật sư Lê Quốc Quân cho biết họ "nhận được thông tin là thân nhân bị phân biệt đối xử trong trại giam". 

Lấy tư cách là một cựu tù nhân lương tâm, tôi dám khẳng định chuyện bị "phân biệt đối xử" là có cơ sở. Chị Oanh, dẫu không bị bắt với cái tội gọi là "Tuyên truyền chống Nhà nước." như tôi song chỉ với lý do là em họ Luật sư Lê Quốc Quân, một nhà đấu tranh Dân chủ cũng đủ để chị bị đối xử đặc biệt. Người ta sẽ cô lập chị với những người tù khác, sẽ coi chị như một tên phản động đáng ghét. Sẽ đe dọa hoặc cảnh cáo bất cứ ai muốn gần gũi hay giúp đỡ chị. Mà một người phụ nữ đang mang thai rất cần sự giúp đỡ. 

Người ta sẽ dùng luật ( bảo là đã được quy định trong văn bản hẳn hoi ), để gia đình không được gửi chăn , quần áo ấm vào cho chị. Hoặc cho gửi thì phải kèm theo một điều kiện nào đó mà chị không thể hay không muốn thực hiện. Như tôi chẳng hạn. vì không chịu cho họ đóng dấu chữ "PHẠM NHÂN" vào quần áo nên tôi đã phải chống chọi với cái lạnh cắt da cắt thịt suốt mấy năm trời. Chị sẽ không được mua đồ ăn, đồ dùng "quá tiêu chuẩn" và như thế chị sẽ phải chịu đói, chịu rét vì "pháp luật quy định thế". Chưa hết, hàng ngày chị sẽ phải chịu thẩm vấn, có khi ngày hai lần và có thể sẽ kéo dài đến hàng tháng trời. Chỉ mong sao họ không xiềng chân chị như đã làm với tôi. 

Lúc này, tôi không dám nghĩ đến những điều kinh khủng hơn. Tôi không muốn nhớ lại nhưng chuyện về một người bạn tù đã chết trước khi tôi về ít hôm cứ lởn vởn trong óc. Chị Tuyên đã kể về đoạn đời đẫm nước mắt của chị. Chồng mất sớm, chị phải bương chải kiếm sống nơi đất khách quê người. Rồi chị gặp một người đàn ông khác. Ngày bước chân vào tù chị cũng đang mang thai. Chị không hiểu vì sao mà họ- những viên an ninh điều tra- lại đánh chị đến nỗi sảy thai như thế. Trong khi những gì chị biết, chị làm, chị đã khai hết rồi. Lên trại, chị được xếp vào đội làm nông nghiệp, ở chung buồng với tôi. Những ngày chị ốm, quản giáo vẫn bắt chị đi làm. Đến khi bệnh tình quá nặng, không thể gượng được nữa, người ta cho chị đi bệnh viện. Một lần, chị nói với tôi: " chị mà chết chắc chắn sẽ phù hộ cho Nghiên". Tôi nghe lạnh cả người! Mấy bữa sau chị chết thật.

Kể câu chuyện này, tôi biết thật không công bằng với bạn đọc khi năm mới đang về. Tôi càng không có ý gieo vào lòng những người thân của chị Oanh sự lo lắng và hoảng loạn. Nếu chỉ vì chị là em họ anh Quân khiến họ đối xử khắt khe thì tôi hy vọng rằng cùng một lý do như thế, họ sẽ không gây tội ác với chị. Trong thời khắc cuối cùng của năm 2012 này, giữa cái lạnh thấu xương của tiết trời Hà Nội, tôi mong rằng các anh chị được bình an và "cảm nhận được sự tự do ngay cả khi bị giam cầm" như chính lời anh Quân từng viết. Lê Quốc Quân, Lê Đình Quản, Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Hoàng Vi những con người đã sống không chỉ với thân phận của riêng mình. Các anh chị đã biết đặt lên vai mình vận mệnh của đất nước. Và tha thứ cho những kẻ gây tội ác với mình như lời Chúa dạy. 

Con cầu xin Đấng Tối Cao hãy ngăn chặn những bàn tay tội ác và che chở cho con cái của Người. Để sẽ không còn ai phải tù oan, không một sinh linh nào phải chờ đợi để được chào đời trong ngục tối. Để không còn cô gái nào bị đánh đập, bị lột trần ngay trong đồn công an như Hoàng Vi chỉ vì lòng yêu nước. Thượng Đế ơi! con cầu xin Người, lời "cầu xin đau cả loài người".

Hải Phòng ngày 31/12/2012
Phạm Thanh Nghiên.

Cộng Sản Còn Gieo Tội Ác


Trong một lần đi chơi xa, ghé thăm bạn văn nghệ ở Duy Xuyên, Quảng Nam, sau một hồi bù khú, ông gọi thêm ông bạn thân của mình tới nhậu và cho tôi biết trước là ông bạn này sáu mươi tuổi, tương đương với tuổi của tôi, nhưng khác tôi về chính kiến, nói chung là một trời một vực. Đúng như lời giới thiệu, ông bạn mới đến là giảng viên trường đảng thuộc chi bộ đảng Cộng sản huyện Duy Xuyên.

Qua nói chuyện, khách quan mà nói, ông này chịu đọc sách, chịu nhìn ra ngoài, hiểu biết về tình hình thế giới, và ông ta cũng thừa nhận là chủ nghĩa Cộng sản không còn phù hợp với nhân loại. Nhưng gần cuối buổi nói chuyện, ông đưa ra một kết luận làm tôi nín cười không được: "Mấy anh là dân tư bản hay gì đó, mấy anh nói những học thuyết cao siêu, tui thì khác, tui là thầy giáo trường đảng, tui chỉ cần nói cho những nông dân chân lấm tay bùn nghe và tin đảng là được rồi, cái đó mới quan trọng, cái đó mới thiết yếu và con người!".
Tôi thì cố nín cười, còn ông bạn thì nổi quạu, hỏi: "Ông xem tụi tui là hạng người nào mà nói năng vớ va vớ vẩn thế? Ông là thầy giáo, ông được nhân dân đóng thuế để ăn học, để sống, hơn nữa, ông là bạn thân tui, ông ăn nói thế không sợ tui mất mặt sao?".

Ông giảng viên trường đảng chống chế: "Thì tui nói vậy có chi sai, tui mở mang kiến thức cho nông dân, cho họ thêm kiến thức, họ tiếp thu được mới thấy tui nói hay, mới nghe, mới vỗ tay chứ!".

Ông bạn tôi đập bàn: "Ông đã nói họ nghe những gì nếu không phải là ba cái bài giảng về tính ưu việc của đảng Cộng sản mấy ông, nào là chế độ dân chủ là nhất trong các chế độ, rồi là đảng đã mang ánh sáng đến cho dân tộc, v.v và v.v. Toàn là ba thứ lý luận giẻ rách!".

Thấy tình thế căng thẳng, tôi chuyển sang trầm một chút, và phân tích cho anh ta thấy anh ta đã sử dụng lý luận giẻ rách như thế nào. Thứ nhất, nông dân là ai? Có thể nói họ là một tầng lớp nghèo khổ vào bậc nhất trong xã hội Việt Nam, và cơ hội học hành, phát triển tri thức của họ cũng rất thấp vì suốt bốn mùa bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Trong trường hợp của ông giảng viên trường đảng, ông đến giảng dạy cho nông dân thì ông giảng dạy cái gì? Đương nhiên ,nếu ông ta giảng dạy cho nông dân kỹ thuật làm vườn, kỹ thuật canh tác nông nghiệp hoặc mở rộng ra một chút là mô hình làm kinh tế vườn, ao, chuồng VAC hoặc cao hơn một chút là VACI: vườn, ao, chuồng, internet chẳng hạn! Nhưng ông ta không bao giờ dám dạy mô hình thứ hai, vì nếu nông dân biết internet, hiểu được thế giới, thì không chừng họ lại nghĩ ra một mô hình chăn nuôi mới: nuôi đảng viên Cộng sản lấy phân bón vườn, lấy thịt xuất khẩu sang Trung cộng để thu lợi nhuận! Nhưng đó chỉ là giả sử, chứ ông bạn suốt ngày học thuộc làu ba cái lý luận giẻ rách kiểu Trần Đăng Thanh để kiếm cơm thì móc đâu ra kiến thức mà dạy nông dân những mô hình kinh tế đó!

Và, đây cũng chính là mấu chốt của tội ác, người nông dân Việt Nam vốn đã quá khổ sở vì công việc kiếm cơm, thiên tai, nghèo khổ mà hằng đêm, đảng Cộng sản cứ dộng cái loa sắt ngoài gốc mít, ngoài ngã ba, trên cột điện, trên nóc lò gạch cũ để ra rả tuyên truyền, giờ còn thêm ông thầy đảng về làng, bắt họ mỗi đêm phải ra học tập, phải cố chống mắt lên mà nghe, hiểu hay không hiểu cũng cứ vỗ tay, vỗ tay để được yên thân, vỗ tay để ông thầy nói mau mà còn về ngủ, mai vác cuốc ra đồng tiếp. Đương nhiên, vẫn có người nghe, có người bị thuốc, bị lừa và tin rằng đảng cộng sản mang đến điều tốt đẹp cho nhân dân. Họ tin vì họ chưa bao giờ được đọc, được nghe về những nền dân chủ trên thế giới, chưa bao giờ suy nghĩ, tư lự về khái niệm dân chủ. Thậm chí, trong câu chuyện lịch sử mà họ gói gém của cha mẹ để lại cũng quanh quẩn mấy luận đề như: Ngày xưa nhà mình khổ lắm, không có cái để ăn, cha đi làm mướn cho ông địa chủ A, bác con đi giữ trâu cho cụ Nghè B, cứ như thế, họ hình dung thế giới là những cái chuồng trâu, bây giờ có Cộng sản về, bác mình khỏi phải giữ trâu cho cụ nghè, cha mình khỏi ở đợ cho ông địa chủ. Họ không hề hay biết rằng thế giới đã tiến rất xa trên con đường văn minh!

Lẽ ra, là người có học, có hiểu biết, ông bạn giảng viên nên chỉ cho họ thấy thế giới đã tiến bộ ra sao, người nông dân Việt Nam lạc hậu so với nông dân các nước trên thế giới như thế nào, và ông ta phải dành thời gian nói mấy chuyện giẻ rách để kể chuyện cười cho bà con nông dân xả hơi, bồi bổ kiến thức nông nghiệp cho bà con. Đằng này, ông ta lại tiếp tục nhồi nhét thứ chủ nghĩa vô đạo vào đầu óc bà con, đẩy người nông dân trở về thời mông muội, cả tin và tiếp tục ôm nỗi lạc hậu, u ám của mình. Như vậy là gì nếu không phải là tội ác?

Chưa dừng ở đó, anh cần phải nhớ rằng anh là người có chữ, có hiểu biết, anh phải thuyết phục được người hiểu biết thấy anh có lý, thấy anh đúng mới là chuyện quan trọng, chứ anh mang cái gọi là sự hiểu biết của anh để bu lu bu loa với bà con về chế độ anh đang ăn lương mà ngay cả anh còn thấy nó lạc hậu, không xài được nữa, thì đó không còn là lừa dối mà là tội ác!

Đẩy vấn đề đi xa hơn một chút, anh phải nói dối vì cấp trên anh bắt anh phải làm thế, cấp trên của anh lừa dối vì cấp trên nữa, cứ như thế lên dần đến trung ương, cả một bộ máy lừa đảo, dối trá, tồn tại dựa trên sự bịp bợm và xu phụ một chính thể bịp bợm đàn anh ở phương Bắc. Suy cho cùng, đó là tiếp tục gieo tội ác với dân tộc. Thử hỏi, đảng Cộng sản, bao giờ hết gieo tội ác, bao giờ ngươi mới tỉnh ngộ mà câm mồm? Câu hỏi này, chẳng khác nào hỏi một con trâu bao giờ nó thôi ăn cỏ, vì ngươi là đảng Cộng sản, chuyện cộng sản gây tội ác cũng như trâu biết ăn cỏ, vậy thôi!

Tội ác thông thường, dễ nhìn thấy, dễ kết tội là hãm hiếp, cướp của, giết người. Còn một loại tội ác tinhh vi hơn đó là âm mưu lừa dối, bịp bợm với thái độ xảo quyệt để xô đẩy giam hãm con người trong vòng ngu dốt, u tối, mê muội hầu dễ sai bảo, điều khiển chỉ để phục vụ cho một thiểu số. Và đây chính là mục đích và hành động của CS.Vậy CS là tổ chức được khai sanh ra để gây tội ác,gieo tội ác cho nhân loại. Như vậy chúng ta hãy cùng nhau khai tử nó đi, giết nó đi để làm trong sạch thế giới này! 

Minh Tâm.

Quay Về Với Dân Tộc


Đảng cộng sản ngày nay chỉ còn là hữu danh vô thực, hệ tư tưởng đã phá sản, xã hội "Thiên Ðường" cộng sản chỉ là ảo tưởng, nhưng "Địa Ngục" trần gian của cộng sản là có thật vì nạn nhân của nó vẫn đang sống.
Một số kẻ có chức quyền của đảng, vì bổng lộc tư lợi cá nhân, đang ngày đêm ra sức kêu gào cứu đảng khỏi sụp đổ, để mong kéo dài quyền lực và quyền lợi. Bản thân những kẻ cầm quyền cũng biết rằng sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản là không thể tránh khỏi, và tội ác của họ sẽ bị đưa ra xét xử chỉ còn là vấn đề thời gian.

Đảng đã một lần chết hụt vào năm 1991, khi các nước cộng sản Ðông Âu và Liên-Xô sụp đổ. Toàn bộ hệ tư tưởng Mác-Lê, và khuôn mẫu xã hội cộng sản bị các nước này quẳng vào sọt rác. Đảng cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ bị rúng động, bàng hoàng, đảng viên thì lo sợ, hoang mang. Đã có đảng viên xé hoặc vứt thẻ đảng. Nhưng rất may cho đảng, nhưng không may cho dân tộc, là đảng quay lại làm tay sai cho Tàu Cộng để giữ quyền lực, và Việt cộng một lần nữa bán đất dâng biển của tiền nhân cho Tàu Cộng qua hội nghị Thành Đô.

Tính đến đại hội đảng lần thứ 11 năm 2011, số lượng đảng viên là ba triệu sáu trăm ngàn. Trong số đảng viên này chỉ có một thiểu số cầm quyền là giầu có, ăn trên ngồi trước, do tham nhũng hối lộ, chạy chức chạy quyền, lập băng lập nhóm chia chác lợi ích, chiếm đoạt tài nguyên quốc gia và bòn rút tiền thuế của dân.

Số đảng viên không quyền lực còn lại ở cấp chi bộ địa phương, cũng chỉ như dân thường, đa số họ sống chật vật về kinh tế. Sinh hoạt đảng ở các chi bộ chỉ mang tính hình thức. Hàng ngày đảng phát cho một tờ báo có tên là Nhân Dân. Một tờ báo đảng nên người dân chẳng ai thèm đọc, mà không hẳn đảng viên ai cũng đọc. Rồi đảng tổ chức những buổi hội thảo, hội nghị phổ biến đường lối chủ trương của đảng. Chỉ những đảng viên lớn tuổi, hay đảng viên đang tìm kiếm địa vị hay bổng lộc, là có mặt để nghe, nhưng thực tâm họ cũng hiểu rằng đảng đang tuyên truyền một chiều, sáo rỗng, bịa đặt và cả tự sướng với nhau.

Những đảng viên lão thành đã từng giúp đảng đánh Pháp, Mỹ và cả Trung Cộng cũng đã gần đất xa trời. Tiếng nói góp ý của họ về hiện tình đất nước cũng bị đám lãnh đạo hậu duệ của đảng bỏ ngoài tai. Cách mạng lão thành mà đảng còn chẳng coi ra gì, thì những đảng viên bình thường chỉ đáng cho đảng lợi dụng, rồi sau đó vắt chanh bỏ vỏ.

Biết được những điều đó, những người trẻ vào đảng sau này hoàn toàn không phải vì lý tưởng cộng sản tốt đẹp gì, mà đơn giản chỉ vì có cơ hội để tiến thân, và làm giầu cá nhân nhưng thường là bất chính. Những thành phần này làm mục ruỗng chế độ cộng sản nhanh hơn bất cứ thế lực thù địch nào do đảng tưởng tượng ra, và cũng nhanh chóng vứt thẻ đảng vào thùng rác khi lịch sử dân tộc sang trang.

Ngày 27/12/2012, Nguyễn Phú Trọng lại đưa ra lời cảnh báo sự sụp đổ của chế độ cộng sản, khi quy kết nguyên nhân là do các thế lực thù địch,và đặc biệt là tự diễn biến – tự chuyển hóa trong nội bộ đảng cộng sản, nhất là hàng ngũ lãnh đạo cấp cao. Tuy nhiên Nguyễn Phú Trọng vẫn không đưa ra được phương cách hữu hiệu để cứu đảng trong cơn bệnh thập tử nhất sinh này, ngoài những biện pháp đã phá sản từ lâu như: chống tham nhũng, đẩy mạnh công tác lý luận, nâng cao sức chiến đấu của đảng..v..v...

Nguyễn Phú Trọng tuy nói thế nhưng cũng biết rằng, cái đảng cộng sản  giờ chỉ toàn là một lũ sâu mọt, giòi bọ, ăn hoang phá hại, bán nước và có nhiều nợ máu với nhân dân. Người dân đang ngày đêm nguyền rủa, và cả phản kháng vào cái đảng này, nên Nguyễn Phú Trọng gọi người dân là các thế lực thù địch.

Những đảng viên không nắm quyền lực cũng biết rằng, Nguyễn Phú Trọng hô hào chống tham nhũng trong đảng nhưng sẽ không có kết quả, vì đội ngũ lãnh đạo đảng tham nhũng đã có hệ thống từ trên xuống dưới. Cụm từ "giai cấp vô sản" từ lâu đã không còn được nhắc đến vì hết thời. Ngày nay cụm từ "quan chức cộng sản" được dùng nhiều, vì chỉ có quan chức mới có thể cướp tài sản người khác cộng thêm vào tài sản của mình. " Cướp đêm là đảng, cướp ngày là quan".

Thế kỷ 21 đã bước vào năm thứ 13, đảng vẫn còn mong muốn dùng mớ lý luận lỗi thời, lạc hậu cộng sản để lừa gạt đảng viên và người dân Việt Nam. Nhưng tiếc rằng công cụ tuyên truyền một thời nằm trong tay đảng, nay đã bị bẻ gẫy bởi mạng lưới thông tin toàn cầu, và giờ đây đang nằm trong tay người dân. Đảng ngày nay không thể bưng bít thông tin, bẻ cong sự thật và che giấu tội ác bởi nó đã mất tác dụng.

Chế độ cộng sản là một đại nạn cho dân tộc Việt Nam kể từ năm 1945 đến nay. Hàng triệu người dân Việt đã bỏ mạng dưới bàn tay cai trị sắt máu vô nhân cộng sản. Cộng sản vô thần đã phá hủy hàng ngàn ngôi đình, chùa, miếu, mộ bia di tích lịch sử của tiền nhân, triệt tiêu văn hóa dân tộc, bách hại các tôn giáo bằng nhiều hình thức. Đảng cướp nhà, đất và đẩy dân sống trong cảnh lang thang không nhà.

Lãnh đạo cộng sản hôm nay đã hình dung ra được số phận của họ, nếu như một ngày không xa nổ ra một cuộc cách mạng của lòng dân. Nhưng thay vì trở về với dân tộc, trao trả quyền lực cho nhân dân, thì họ lại cam tâm làm thân trâu, ngựa cho Tàu cộng sai khiến, và âm mưu biến Việt Nam thành một tỉnh của Tàu cộng.

Trước những toan tính bán nước của Việt cộng, người dân Việt Nam kêu gọi những đảng viên cộng sản còn chút lương tri và lòng tự trọng, hãy rời bỏ cái đảng cộng sản phi nghĩa, bất nhân, ngoại lai, vong bản. Đừng vì một chút bổng lộc cỏn con được đảng bố thí mà chần chừ do dự. Vì mất nước là mất tất cả. Đại nghĩa Dân Tộc, luôn mở rộng vòng tay chào đón tất cả những đảng viên cộng sản phản tỉnh, điển hình như anh Nguyễn Chí Đức. Thà làm dân nước Việt Nam, còn hơn làm tay sai cho Tàu – Việt cộng.

Ngày nay qua mạng lưới Internet, người dân và cả những đảng viên, đã biết rõ bản chất thật của đảng cộng sản là gì? Họ bán nước ra sao và nhúng tay vào những tội ác nào. Một cái đảng phạm tội tày trời với tổ tiên, cai trị tàn bạo với người dân Việt, vậy đảng viên cộng sản nên làm gì khi vận nước đang dời chuyển.

Lý Trần Công.

Đại Nạn Cộng Sản


Chuyện lòng tham và tội ác, không hiểu sao nghe ra trở thành quen tai và nhàm chán ở Việt Nam, nó nhàm chán đến độ khi nói đến nó, cảm giác như nghe chuyện con người thì ăn ba bữa, con lợn thì kêu ụt ịt, con chó thì sủa gâu gâu, con chuột thì phá phách ruộng đồng và con nhà Cộng Sản thì được làm quan, ăn ngon, mặc đẹp, tham nhũng, bòn rút gan ruột quốc gia, bôi bác dân tộc v.v... và v.v... Tại sao ở một đất nước có bề dày lịch sử dài gấp mười hai lần nước Mỹ, gấp ba mươi lần Singapore, gấp năm lần nước Nhật nhưng lại có nền văn hóa, chính trị và kinh tế quá lạc hậu, tưởng như còn ở thời mông muội.

Đã có rất nhiều bài viết đứng trên quan điểm cho rằng người Việt Nam xấu xí, ích kỷ, tham lam, lạc hậu và thô lỗ. Bản chất người Việt Nam là thông minh, chịu học hỏi, nhưng thiếu sáng tạo và không bao giờ tự đúc kết cho mình một phương pháp làm việc. Chính vì thiếu phương pháp làm việc nên mọi việc cứ lừ đừ, lịch sử dân tộc cũng lừ đừ.

Có quan điểm khác cho rằng người Việt Nam chịu thương, chịu khó, yêu thương đồng tộc, đức hy sinh lớn, dám làm dám chịu, khẳng khái và quyết liệt. Bản chất người Việt Nam thông minh và vị tha nhưng vì những lý do lịch sử, suốt cả ngàn năm chịu đô hộ phương Bắc, sau đó chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt và nguy hiểm hơn hết là Chủ nghĩa Cộng sản đã xâm thực trên toàn cõi Việt Nam, tạo ra lực cản quá lớn trước bánh xe lịch sử dân tộc, khiến cho con tàu dân tộc không thể tiến lên, hỏng hóc và trục trặc.

Nếu đứng ở quan điểm thứ nhất, e rằng khó mà làm người cho tốt được một khi luôn ám ảnh một nỗi tự kỷ rằng mình là con cháu của một dân tộc xấu xí, ích kỷ và hẹp hòi, mà nếu có phát triển được chăng nữa thì trên nền tảng này, chiều hướng phát triển sẽ đi đến chỗ mất phương hướng, mặc cảm nhược tiểu và nhỏ bé trước quốc tế.

Nếu đứng ở quan điểm thứ hai, cho rằng người Việt Nam thông minh, chịu thương chịu khó, tốt và tốt, thì e rằng sẽ dẫn đến sự lạc quan thái quá. Thử đặt ngược câu hỏi: Tại sao một dân tộc toàn những người thông minh, tốt bụng, đáng yêu mà lại để một thứ chủ nghĩa Cộng Sản vô đạo thâm nhập, tác oai tác quái trên đất nước mấy mươi năm nay? Thì sẽ thấy ngay bản chất, nói thế mà không phải thế, dân tộc nào cũng có người tốt, kẻ xấu, người lương thiện, kẻ gian manh, người cao cả, kẻ tiểu nhân. Vấn đề đi đến đâu lại thuộc về vận mệnh dân tộc, nhưng vận mệnh dân tộc đi đến đâu lại thuộc về trí tuệ của dân tộc đó. Mâu thuẫn nằm đây, và chìa khóa cũng nằm đây.

Và, đặt tiếp một câu hỏi, nếu người Việt Nam tệ hại, thì làm sao suốt mấy ngàn năm nay, thời nào cũng có anh hùng hào kiệt, thời nào cũng có thức giả chính khí? Như vậy, chứng tỏ người Việt thông minh, khéo léo và chính nghĩa. Nhưng vấn đề được đặt ra là tại sao cho đến bây giờ, người Việt Nam vẫn còn chịu đựng và chấp nhận, cam chịu chế độ Cộng sản?

Dân tộc Việt Nam chịu quá nhiều thiệt thòi. Đi từ một dân tộc nghèo đói, thiếu hiểu biết bởi bóng tối phong kiến, đô hộ phương Bắc, mọi thứ suy nghĩ, hành động được đặt để trên tinh thần sống chết vì vua, đẩy thân phận con người xuống hàng tôi đòi, tính tự chủ hoàn toàn bị triệt tiêu. Sau năm 1945, hơn một nửa dân tộc Việt Nam lại tiếp tục rơi vào ách nô lệ mới, sự trí trá, nhân danh dân chủ, độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc... của những cái loa Cộng sản đã một lần nữa lừa bịp không biết bao nhiêu người vốn chưa kịp bước ra khỏi bóng tối u mê và tuyệt vọng.

Với luận điệu đảng Cộng sản do dân, vì dân, nhà nước của nhân dân, đại diện cho toàn dân, một lần nữa, thay vì tập trung tài lực của quốc gia về tay tập đoàn phong kiến, bây giờ, tài lực của quốc gia bị gom về tay Cộng sản. Đau đớn là lúc này, nhân dân vẫn chưa kịp nhận ra bộ mặt thật của Cộng sản, còn bán tín bán nghi. Qua thời gian, một khi mọi thứ quyền lực nắm trong tay, đảng Cộng sản bắt đầu phơi bày bộ mặt phong kiến trá hình của nó. Tại sao gọi nó là phong kiến trá hình? Vì suy cho cùng, thời phong kiến, đất đai là của nhà vua và tập đoàn các quan lại, thì thời Cộng sản, đất đai thuộc về "toàn dân do nhà nước quản lý". Nói là của toàn dân thì có nghĩa là không riêng gì của cá nhân nào. Chính vì vậy, dân Cồn Dầu, dân Hòa Minh, Hòa Bắc, dân Văn Giang, Đông Triều hay Tiên Lãng đều không phải là toàn dân. Một khi nhà nước ra tay quản lý thì dân chỉ còn nước kiếm chỗ nào đó mà nương náu, kiếm không được thì ra bụi, ra bãi mà ở.

Đó là thứ lý luận trá hình, thay vì thâu tóm về tay mình thì lại cho rằng tôi quản lý giùm cho toàn dân tộc, đẩy cá nhân và tập hợp nhỏ vào đường cùng, không lối thoát. Và, nguy hiểm hơn nữa là thứ luận điệu này, về lâu về dài sẽ ăn lậm vào khả năng phản biện của con người, vì anh không thể vì quyền lợi chính đáng của cá nhân mà phản kháng lại lợi ích của cả một dân tộc, cho dù anh chẳng thể hình dung ra cái lợi ích dân tộc này dài ngắn, méo tròn ra sao, nhưng cũng phải ngậm bồ hòn mà chịu. Dần dà, khả năng đề kháng trước cái xấu và tội ác của người Việt nam bị mất đi.

Đến đây, có thể nhận biết được nguyên nhân đi xuống của dân tộc Việt Nam. Đến đây, có thể thấy rằng, vì sao người Việt Nam lại mất khả năng dị ứng và dần quen tai với tham nhũng, tội ác? Vì người Việt Nam đã chịu đựng quá lâu trong chế độ Cộng sản. Việc cần làm bây giờ để đảm bảo người Việt Nam tồn tại và phát triển, không còn gì khác ngoài việc xóa bỏ Cộng sản!

Khi so sánh dân tộc Việt với các dân tộc khác trên thế giới, nhất là khi so sánh với những quốc gia có chiều dài lịch sử ngắn hơn, nhưng lại phát triển gấp bội dân tộc ta, từ kinh tế phú cường đến xã hội văn minh và dân chủ chân chính. Kết luận không một người Việt Nam nào có thể tránh khỏi là: Cộng Sản chủ nghĩa là nguyên nhân sự suy thoái và tình trạng tồi tệ toàn diện của dân tộc hôm nay. Phương thức giải quyết vấn nạn này là vứt đảng CSVN vào sọt rác của lịch sử, mở một trang sử mới hầu dân tộc Việt có thể sánh vai cùng nhân loại văn minh.

Nguyễn Nam Trung.

onsdag 23. januar 2013

Tướng Lãnh Việt Nam Cộng Hòa

Danh Sách Các Tướng Lãnh Việt Nam Cộng Hòa


Trong lịch sử 20 năm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có tất cả 159 vị được phong cấp tướng, trong đó có 1 Thống tướng (truy phong) và 5 Đại tướng.

* Thống Tướng : Lê Văn Tỵ (1903-1964) truy phong năm 1964
* Đại Tướng : Trần Thiện Khiêm (phong năm 1964)
* Đại Tướng : Dương Văn Minh (phong năm 1964)
* Đại Tướng : Nguyễn Khánh (phong năm 1964)
* Đại Tướng : Cao Văn Viên (phong năm 1967)
* Đại Tướng : Đỗ Cao Trí (truy phong năm 1971)

*************************************************

* Trung Tướng : Cao Hảo Hớn (Tổng Trưởng Chương Trình Bình Định và Phát Triển )
* Trung Tướng : Dư Quốc Đống (Tư Lệnh QĐ III )
* Trung Tướng : Dương Văn Đức ( Tư Lênh QĐ & QK IV )
* Trung Tướng : Đặng Văn Quang ( Phụ Tá An Ninh Phủ Tổng Thống )
* Trung Tướng : Đồng Văn Khuyên ( Tổng Cụng Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận )
* Trung Tướng : Hoàng Xuân Lãm ( Chánh Thanh Tra Dân Vệ )
* Trung Tướng : Lâm Quang Thi ( Tư Lệnh Phó QĐ & QK I )
* Trung Tướng : Lê Nguyên Khang ( Phụ Tá Hành Quân Tổng TMT )
* Trung Tướng : Lê Văn Kim ( CHT Trường Cao Đẳng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Linh Quang Viên ( Bộ Trưởng Nội Vụ )
* Trung Tướng : Lữ Lan ( Chỉ Huy Trưởng Cao Đẳng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Mai Hữu Xuân ( Tổng Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị )
* Trung Tướng : Ngô Dzu ( Tư Lệnh QĐ II )
* Trung Tướng : Ngô Quang Trưởng ( Tư Lệnh QĐ & QK I )
* Trung Tướng : Nguyễn Bảo Trị ( CHT ĐH Chỉ Huy và Tham Mưu )
* Trung Tướng : Nguyễn Chánh Thi ( Tư Lệnh QĐ I )
* Trung Tướng : Nguyễn Đức Thắng ( Tư Lệnh QĐ IV )
* Trung Tướng : Nguyễn Hữu Có ( Bộ Trưởng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Nguyễn Ngọc Lễ ( Chánh Án Tòa Án Quân Sự )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Hiếu ( Tư Lệnh Phó QĐ & QK III )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Hinh ( Tổng Tham Mưu Trưởng )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Là ( Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Mạnh ( Tham Mưu Trưởng Liên Quân )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Minh ( Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Quan ( Tổng Giám Đốc ANQĐ )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Thiệu ( Tổng Thống VNCH )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Toàn ( Tư Lệnh QĐ III & QK III )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Vỹ ( Bộ Trưởng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Nguyễn Viết Thanh ( Tư Lệnh QĐ IV & QK IV )
* Trung Tướng : Nguyễn Vĩnh Nghi ( TL Tiền Phương QĐ &QK III )
* Trung Tướng : Nguyễn Xuân Thịnh ( CHT Pháo Binh )
* Trung Tướng : Phạm Quốc Thuần ( CHT TT HL Đồng Đế )
* Trung Tướng : Phạm Xuân Chiểu ( Đại Sứ Nam Hàn )
* Trung Tướng : Phan Trọng Chinh ( Tổng Cục Trưởng Cục Quân Huấn )
* Trung Tướng : Thái Quang Hoàng ( Đại sứ Thái Lan )
* Trung Tướng : Tôn Thất Đính ( Thượng Nghị Sĩ )
* Trung Tướng : Trần Ngọc Tám ( Đại Sứ Thái Lan )
* Trung Tướng : Trần Thanh Phong ( Tư Lệnh CSQG )
* Trung Tướng : Trần Văn Đôn ( Tổng Trưởng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Trần Văn Minh ( Tư Lệnh Không Quân VN )
* Trung Tướng : Trần Văn Trung ( TCT. TC. CTCT )
* Trung Tướng : Trịnh Minh Thế ( Tư Lệnh Lực Lượng Cao Đài )
* Trung Tướng : Vĩnh Lộc ( Tổng Tham Mưu Trưởng )
* Phó Đô Đốc : Chung Tấn Cang ( Tư Lệnh Hải Quân ) 

************************************************

* Thiếu Tướng : Bùi Đình Đạm ( Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nhân Lực thuộc Bộ Quốc Phòng )
* Thiếu Tướng : Bùi Hữu Nhơn ( Chỉ Huy Trưởng Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức )
* Thiếu Tướng : Bùi Thế Lân ( Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC )
* Thiếu Tướng : Chương Dzềnh Quay ( Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV )
* Thiếu Tướng : Dương Ngọc Lắm ( Đô Trưởng Sài Gòn )
* Thiếu Tướng : Đào Duy Ân ( Tư Lệnh Phó Diện Địa QĐ III )
* Thiếu Tướng : Đoàn Văn Quảng ( Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung )
* Thiếu Tướng : Đỗ Kế Giai ( Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Trung Ương )
* Thiếu Tướng : Ðỗ Mậu ( Phó Thủ Tướng Đặc Trách Văn Hóa )
* Thiếu Tướng : Hồ Văn Tố ( Chỉ Huy Trưởng Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức )
* Thiếu Tướng : Huỳnh Văn Lạc ( Tư Lệnh Sư Đoàn 9 BB )
* Thiếu Tướng : Huỳnh Văn Cao ( Phó Chủ Tịch Thượng Nghị Viện )
* Thiếu Tướng : Lâm Quang Thơ ( Chỉ Huy Trương Trường VBQGĐL )
* Thiếu Tướng : Lâm Văn Phát ( Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô )
* Thiếu Tướng : Lê Minh Ðảo ( Tư Lệnh SĐ 18 BB )
* Thiếu Tướng : Lê Ngọc Triển ( Tham Mưu Phó Hành Quân TTM )
* Thiếu Tướng : Lê Văn Nghiêm ( Tư Lệnh QĐ & QK I )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Cao Kỳ ( Phó Tổng Thống VNCH (1967) )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Duy Hinh ( Tư Lệnh SĐ 3 BB )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Giác Ngộ ( CHT Sở Du Kích Chiến )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Khắc Bình ( Tư Lệnh CSQG )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Khoa Nam ( Tư Lệnh QĐ & QK IV )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Ngọc Loan ( Tổng Giám Đốc CSQG )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Văn Chuân ( Thượng Nghị Sĩ )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Văn Kiểm (Trưởng Phòng Tổng Quản BTTM )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Văn Vận ( Tư Lệnh Đệ III Quân Khu )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Xuân Trang ( Tham Mưu Phó Nhân Viên BTTM )
* Thiếu Tướng : Phạm Ðăng Lân ( Cục Trưởng Cục Công Binh )
* Thiếu Tướng : Phạm Hữu Nhơn ( Trưởng Phòng 7 Bộ TTM )
* Thiếu Tướng : Phạm Văn Ðổng ( Bộ Trưởng Cựu Chiến Binh )
* Thiếu Tướng : Phạm Văn Phú ( Tư Lệnh QĐ II & QK II )
* Thiếu Tướng : Phan Ðình Niệm (Tư Lệnh SĐ 22 BB )
* Thiếu Tướng : Tôn Thất Xứng ( Tư Lệnh QĐ I & QK I )
* Thiếu Tướng : Trần Bá Di ( Tư Lệnh SĐ 9 BB )
* Thiếu Tướng : Trần Minh Tâm 
* Thiếu Tướng : Trần Tử Oai ( CHT Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung )
* Thiếu Tướng : Trần Văn Minh ( Đại Sứ Tunisia )
* Thiếu Tướng : Trương Quang Ân ( Tư Lệnh SĐ 23 BB )
* Thiếu Tướng : Văn Thành Cao ( Tổng Cục Phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị )
* Thiếu Tướng : Võ Văn Cảnh ( Phụ Tá Đặc Biệt Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ )
* Thiếu Tướng : Võ Xuân Lành ( Tư Lệnh Phó KQVN )
* Thiếu Tướng : Vũ Đức Nhuận ( Giám Đốc ANQĐ )
* Thiếu Tướng : Vũ Ngọc Hoàn ( Cục Trưởng Cục Quân Y )
* Đề Đốc : Lâm Ngươn Tánh ( Tư Lệnh Hải Quân )
* Đề Đốc : Trần Văn Chơn ( Tư Lệnh Hải Quân )

********************************************


* Chuẩn Tướng : Albert Nguyễn Cao ( Tổng Trưởng Dinh Điền )
* Chuẩn Tướng : Bùi Văn Nhu ( Tư Lệnh Phó CSQG )
* Chuẩn Tướng : Chung Tấn Phát ( Cựu Tham Mưu Trưởng QĐ & QK IV )
* Chuẩn Tướng : Ðặng Ðình Linh ( Tham Mưu Phó Kỹ Thuật và Tiếp Vận (BTL) Không Quân )
* Chuẩn Tướng : Đặng Thanh Liêm ( Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung )
* Chuẩn Tướng : Ðỗ Kiến Nhiễu ( Đô Trưởng Sài Gòn )
* Chuẩn Tướng : Hồ Trung Hậu ( Chánh Thanh Tra QĐIII )
* Chuẩn Tướng : Huỳnh Bá Tính ( Tư Lệnh SĐ 3 KQ )
* Chuẩn Tướng : Huỳnh Thới Tây ( Tư Lệnh Đặc Cảnh Trung Ương )
* Chuẩn Tướng : Huỳnh Văn Lạc ( Tư Lệnh Sư Đoàn 9 BB )
* Chuẩn Tướng : Lê Nguyên Vỹ ( Tư Lệnh SĐ 5 BB )
* Chuẩn Tướng : Lê Quang Lưỡng ( Tư Lệnh SĐ Nhảy Dù )
* Chuẩn Tướng : Lê Trung Trực ( Trưởng Phòng 4, BTTM )
* Chuẩn Tướng : Lê Trung Tường ( Tham Mưu Trưởng QĐ III )
* Chuẩn Tướng : Lê Văn Hưng ( Tư Lệnh Phó QĐ & QK IV )
* Chuẩn Tướng : Lê Văn Thân ( Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô )
* Chuẩn Tướng : Lê Văn Tư ( Tư Lệnh SĐ 25 BB )
* Chuẩn Tướng : Lưu Kim Cương ( KĐT Không Đoàn 33 Chiến Thuật )
* Chuẩn Tướng : Lý Bá Hỷ ( Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô )
* Chuẩn Tướng : Lý Tòng Bá ( Tư Lệnh SĐ 25 BB )
* Chuẩn Tướng : Mạch Văn Trường ( Tư Lệnh SĐ 21 BB )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Bá Liên (Tư Lệnh Biệt Khu 24 )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Chấn Á ( Cố Vấn tại Nha Chiến Tranh Chính Trị.)
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Đức Khánh ( Tư Lệnh SĐ 1 KQ )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Hữu Hạnh ( Tổng Tham Mưu Trưởng )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Hữu Tần ( Tư Lệnh SĐ 4 KQ )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Ngọc Oánh ( CHT TT HL KQ )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Thanh Hoàng (Chánh Thanh Tra QĐ II )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Thanh Sằng ( Tư Lệnh SĐ 22 BB )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Trọng Bảo ( TMT SĐ Nhảy Dù )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Tuấn Khải 
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Chức ( Tổng Cục Trưởng TC Tiếp Vận )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Điềm ( Tư Lệnh SĐ 1 BB )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Giàu ( Bộ Tư Lệnh Cảnh Lực )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Lượng ( Tư Lệnh SĐ 2 KQ )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Phước ( Phụ Tá Đặc Biệt Tư Lệnh Quân Khu IV, Đặc Trách Phụng Hoàng )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Thiện ( Thị Trưởng Đà Nẵng )
* Chuẩn Tướng : Phạm Duy Tất ( CHT Biệt Động Quân QK II )
* Chuẩn Tướng : Phạm Hà Thanh ( Cục Trưởng Cục Quân Y )
* Chuẩn Tướng : Phạm Ngọc Sang ( Tư Lệnh SĐ 6 KQ )
* Chuẩn Tướng : Phan Ðình Soạn ( Tư Lệnh Phó QĐ I & QK I )
* Chuẩn Tướng : Phan Ðình Thứ ( Tư Lệnh Phó QĐ II & QK II )
* Chuẩn Tướng : Phan Hòa Hiệp ( Trưởng Đoàn LHQS 2 Bên )
* Chuẩn Tướng : Phan Phụng Tiên ( Tư Lệnh SĐ 5 KQ )
* Chuẩn Tướng : Phan Tử Nghi 
* Chuẩn Tướng : Phan Xuân Nhuận ( Tư Lệnh SĐ 1 BB )
* Chuẩn Tướng : Trần Ðình Thọ ( Trưởng Phòng 3 Bộ TTM )
* Chuẩn Tướng : Trần Quang Khôi ( CHT Lực Lượng Xung Kích QĐ III )
* Chuẩn Tướng : Trần Quốc Lịch ( Chánh Thanh Tra QĐ IV )
* Chuẩn Tướng : Trần Văn Cẩm ( Phụ Tá HQ BTL QĐ II & QK II )
* Chuẩn Tướng : Trần Văn Hai ( Tư Lệnh SĐ 7 BB )
* Chuẩn Tướng : Trần Văn Nhựt ( Tư Lệnh SĐ 2 BB )
* Chuẩn Tướng : Trang Sĩ Tấn ( Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đô Thành )
* Chuẩn Tướng : Trương Bảy ( Chỉ Huy Trưởng Cảnh Lực )
* Chuẩn Tướng : Trương Hữu Đức ( Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 52 )
* Chuẩn Tướng : Từ Văn Bê ( CHT BCH Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân )
* Chuẩn Tướng : Võ Dinh ( TMT BTL Không Quân)
* Chuẩn Tướng : Vũ Đức Nhuận ( Giám Đốc ANQĐ)
* Chuẩn Tướng : Vũ Văn Giai ( Tư Lệnh SĐ 3 BB )
* Phó Đề Đốc : Diệp Quang Thủy ( Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân )
* Phó Đề Đốc : Đặng Cao Thăng ( Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi )
* Phó Đề Đốc : Đinh Mạnh Hùng ( Phụ Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Lưu Động Sông )
* Phó Đề Đốc : Hồ Văn Kỳ Thoại ( Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải )
* Phó Đề Đốc : Hoàng Cơ Minh ( Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải )
* Phó Đề Đốc : Nghiêm Văn Phú ( Tư Lệnh Lực Lượng Tuần Thám )
* Phó Đề Đốc : Nguyễn Hữu Chí ( Phụ Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Lưu Động Biển )
* Phó Đề Đốc : Nguyễn Thành Châu ( Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện HQ Nha Trang )
* Phó Đề Đốc : Vũ Đình Đào ( Tư Lệnh Vùng 3 Duyên Hải )
* Phó Đề Đốc : Huỳnh Mai
Hùng Vũ.
Tài Liệu - QS-VNCH.