Lễ Tạ Ơn hàng năm được tổ chức trọng thể vào ngày Thứ Năm cuối tháng 11, không ngoài mục đích cám ơn tất cả những người đã khai sinh và xây dựng Hiệp Chũng Quốc, trở thành một quốc gia vô địch trên thế giới ngày nay.
1-CÁM ƠN NHỮNG NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐÃ TÌM RA CHÂU MỸ:
 Trong
 lần kỷ niệm 500 năm, đánh dấu ngày Christophe Colomb đã tìm ra Châu Mỹ 
hay Tân Lục Ðịa. Dịp này đã có nhiều học giả, sử gia, nhà khoa học và 
khảo cổ khắp thế giới đưa ra thắc mắc ‘ Phải chăng Colomb là người đầu tiên đã tìm ra Tân Lục Ðịa hay ông chỉ là người đầu tiên tổ chức cuộc họp báo để hợp thức hóa sự có mặt của Châu Mỹ trên bản đồ thế giới ?
Christophe Colomb hay Columbus
 có gia thế bình thường, cha làm thợ dệt tại Gêne (Tây Ban Nha). Là một 
vĩ nhân của thế giới nhưng cuộc đời gặp nhiều bất hạnh vì sự đố kỵ của 
thế nhân nên lúc đương thời, đến nổi đã không lưu lại được một bức chân 
dung nào của nhà thám hiểm. Ðiều này đã chứng minh tại sao những bức 
chân dung của Colomb hiện đang lưu hành không đồng nhất và ít giống ông 
vì các họa sĩ của thế kỷ XVI đã vẽ bằng phương pháp ‘ Identikit ‘
 , tức là dựa theo lời kể của những người quen biết, trong đó có con 
trai nhà thàm hiểm là Ferdinand. Ðại để thì lúc sinh thời Colomb có nước
 da và tóc màu đỏ, mắt xanh, cao lớn trên 1,65m.
Từ
 nhiều thập niên qua, rât nhiều học giả đã tìm đủ mọi cách phủ nhận công
 trình thám hiểm của Colomb nhưng tới nay cũng chỉ là những giả thuyết 
hoang đường, khó lòng đánh đổ được một sự thật đã được cả thế giới công 
nhận và ngưởng mộ. Nhưng dù gì chăng nữa, thì công trình thám hiểm của 
Christophe cũng đã đi vào lịch sử và tâm khảm của mọi người, trong đó có
 Hiệp Chủng Quốc và các quốc gia thuộc Châu Mỹ. Ngoài ra từ những khai 
quật được do các nhà khảo cổ tìm thấy gần đây, dựa theo niên lịch khảo 
sát, có thể xác định họ đã tới đây trước Colmb, gồm những ngư dân Nhật, 
nhà sư Hui Sen, hoàng tử Madoc, Bjarni, Leif và người Do Thái. Nhưng 
chính Colmb lại là người đầu tiên đã công bố sự hiện hữu của Tân Lục Ðịa
 Châu Mỹ cho cả thế giới biết
2-CÁM ƠN NHỮNG NGƯỜI ĐÃ TRANH ĐẤU CHO NỀN ĐỘC LẬP HOA KỲ:
Sau thời gian dài chiến đấu đẳm máu với thực dân Anh. Cuối
 cùng 13 Tiểu Bang trong Liên Hiệp Anh ly khai, cũng đã dành được Ðộc 
Lập cho xứ sở, mà ngày nay chúng ta trang trọng đón mừng hằng năm. Ðó là
 ngày 4-7-1776 , lần đầu tiên ‘ BẢNG TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN ‘được công bố trước quốc dân đồng bào.
Cũng
 từ đó, ách nô lệ của Anh tại đây chấm dứt. Ðể tạo nên niềm tự hào của 
một dân tộc có độc lập và tự do thật sự, năm 1789 Webster Noah là người 
đầu tiên ấn hành quyển Tự Ðiển Tiếng Mỹ, nói lên ngôn ngữ riêng của dân 
tộc mình. Cùng lúc Benjamin Franklin cũng đã phát minh ra những mẫu tự 
đơn giản. Nhận thức được tương lai của đất nước, sẽ mở rộng bờ cỏi và 
đón nhận nhiều sắc dân tới lập nghiệp tại Hiệp Chũng Quốc với nhiều nền 
văn hóa khác nhau. Bởi vậy Noah Webster càng chú trọng rất nhiều tới 
ngôn ngữ học bằng cách phát hành nhiều loại sách giáo khoa, giảng dạy về
 ngữ pháp, chính tả tới nay vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong dời sống 
người Mỹ.
Sau
 này có M.Guffey hợp tác với Noah, đã bộc lộ tinh thần ái quốc và đạo 
đức, qua các tác phẩm được phổ biến, làm cho mọi người cảm động và càng ý
 thức rõ hơn bổn phận trách nhiệm của một công dân đối với xã hội và 
quốc gia của mình. Tuy ngày nay theo bánh xe văn minh của nhân loại, 
những công trình của các bậc tiền nhân đã bị lỗi thời với thời gian 
nhưng tên tuổi của ông vẫn còn nguyên vẹn. Thật vậy, đối với lịch sử Hoa
 Kỳ, chính Noah Webster đã có công tạo nên Ngôn Ngữ riêng cho người Mỹ, 
dù nó có nguồn gốc từ tiếng Anh mà thật sự không phải là tiếng Anh 
nguyên thủy. Trường hợp này cũng tương tự như Ngôn ngữ Việt Nam, có 
nguồn gốc từ Hán Tự và La Tinh nhưng không phải là chữ Hán hay La Tinh 
gốc.
Cùng với chiều hướng Ðộc Lập trên, Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ là Washington đã phát biểu ‘ Hiệp Chũng Quốc bắt nguồn từ 13 thuộc địa của Anh nhưng Nay Là Quốc Gia Ðộc Lập.
 Vậy tai sao chúng ta cần gì phải quay về với Châu Âu hay Luân Ðôn để 
bắt chước họ ? qua đợi chờ xin xõ phê chuẩn. Trong đó, sự học hỏi trên, 
xét cho cùng, cũng chỉ là sự quê mùa, lỗi thời ‘.Hởi ôi nếu các nhà lãnh
 đạo VN bao đời, có được một phần tư tưởng độc lập như TT Mỹ, thì chắc 
chắn đất nước chúng ta ngày nay đâu phải đắm chìm trong vũng bùn ô nhục 
tồi tệ và thua kém nhân loại.
Ðể
 đổi lấy nền Ðộc lập cho đất nước Hoa Kỳ ngày nay, nhiều đại biểu của 13
 Tiểu Bang ly khai đã gục ngả trước súng đạn của thực dân Anh. Thomas 
Jefferson được đề cử soạn thảo Bảng Tuyên Ngôn Nhân Quyền cho Hiệp Chũng
 Quốc, trong lúc cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn giữa Anh-Mỹ. Thế rồi sau 
ba ngày tranh luận gay gắt, giữa các đại biểu trong phòng họp, cuối cùng
 hội nghị cũng đã bỏ phiếu, thông qua và chấp thuận Bảng Tuyên Ngôn Ðộc 
Lập trên, vào ngày 2-7-1776.
Ðiều
 bi thảm mà tới nay con cháu ít ai biết tới. Ðó là vào ngày 4-7-1776 
công bố nền độc lập của Hoa Kỳ, được diễn ra trong thầm lặng, chết chóc,
 máu lệ khổ đau. Bởi thực dân Anh đâu có để yên cho những người chủ 
xướng, nên ra tay triệt hạ tất cả ai lúc đó dám nói tói Ðộc Lập cho Hoa 
Kỳ. Theo sử liệu, có 56 người đã ký vào Bảng Tuyên Ngôn Nhân Quyền và 
Ðộc Lập Mỹ. Tất cả đều là sĩ phu trí thức đương thời, biết trước hậu quả
 về hành động của mình nhưng bất chấp mạng sống cá nhân8 và gia đình, 
chấp nhận hy sinh cho đại nghĩa dân tộc, đất nước.. Trong số này có 
Francis Hopkinson quê New Jersey là một tài hoa hiếm có. Ông chính là 
tác giả của Lá Quốc Kỳ Mỹ được lưu hành và tồn tại tới ngày nay. Tóm lại
 tất cả những người trong cuộc đều có gia đình, lớn tuổi nhất là 
Benjamin Franklin (70 tuổi) và ba người chỉ mới 20 tuổi.
Ngay
 khi phát giác được Bảng Tuyên Ngôn Ðộc Lập, Thực dân Anh lồng lộn điên 
cuồng, ra lệnh truy tìm và hạ sát những người có tên trong đó. Ngoài ra 
còn treo giá 500 Bảng Anh cho ai chỉ điểm, phát giác họ. Cuối cùng Anh 
tuyên bố Treo Cổ Tất Cả. Do sự khủng bố trên, nên hầu hết những người 
liên hệ tới Bảng Tuyên Ngôn, lớp chết, lớp ở tù. Nhiều người bị thương 
tật khốn khổ vì sự tra tấn đánh đập dã man của kẻ thù, khiến cho nhà tan
 cửa nát, gia đình ly tán. Trong số ít ỏi sống sót sau này,hai người đã 
trở thành Tổng Thống Mỹ là John Adams và Thomas Jefferson.
Cái
 giá độc lập của Hoa Kỳ là thế đó, mà những người khai sinh ra nó, phải 
đổi bằng mạng sống, máu lệ đem về. Cho nên các thế hệ sau ai nấy đều vô 
cùng cảm kích và trang trọng noi theo truyền thống yêu nước của tổ tiên 
mọi thời. Ðó là kết quả của quốc gia Hoa Kỳ ngày nay, một miền đất tạp 
chũng nhất trên thế giới,lại là đệ nhất siêu cường, một xứ sở tự do cá 
nhân nhưng ai cũng biết dừng lại trước giới hạn của mình, đối với quyền 
lợi chung của Tổ Quốc. Cho nên đừng phân biệt Dân Chủ hay Cộng Hoà, Tất 
cả tuy hai mà một vì ai cũng chỉ biết có quyền lợi của dân tộc và đất 
nước Hoa Kỳ mà thôi.
3-CÁM ƠN NHỮNG NGƯỜI  ĐẦU TIÊN ĐÃ KHAI SINH RA NƯỚC MỸ:
 Hoa
 Kỳ là một vùng đất liên lục địa (chưa kể Alaska và Hawaii), trải rộng 
từ bờ Thái Bình Dương đến tận Đại Tây Dương, với một diện tích hình chữ 
nhật là 7.812.000 km2. Để đến được miền đất hứa, các nhà thám hiểm Tây 
Ban Nha,Bồ Đào Nha, Ý, Anh, Pháp, Hà Lan đã mất hơn một thế kỷ tìm kiếm.
 Họ cũng như Kha Luân Bố đều hướng về con đường tới Ấn Độ. Thậm chí khi 
đã đặt chân lên vùng đất Châu Mỹ La Tinh cũng vẫn tưởng đó là lục địa Ấn
 Độ.
Nhưng
 cuối cùng sự lầm lẫn phần nào được sáng tỏ khi nhũng người Tây Ban Nha 
đầu tiên đặt chân lên mãnh đất Hiệp Chũng Quốc sau này vào năm 1513, kế 
tiếp là nhóm người Anh đổ bộ vào bờ biển Virginia năm 1607. Từ đó danh 
từ Tân Thế Giới và người bản địa Da Đỏ chính thức ra đời. Hiện 
các nhà nghiên cứu đều xác nhận người Da Đỏ thật sự không phải là chủ 
nhân ông của Châu Mỹ. Họ đến từ Đông Á hơn 25.000 năm về trước bằng cách
 lội qua eo biển Behring, tới Bắc Mỹ rồi lần hồi thiên cư xuống Trung và
 Nam Mỹ. Giống dân này có chung nguồn gốc với người Mông Cổ và Tây Bá 
Lợi Á. Người Da Đỏ tại Hoa Kỳ phân thành nhiều nhóm khác biệt theo nghề 
nghiệp như làm nông, săn bắn, làm biển..
Khoảng
 năm 1600, tính chung người Da Đỏ khắp Hiệp Chũng Quốc chùng 200.000, 
thuộc 100 bộ lạc, nói những ngôn ngữ có nguồn gốc Algonquine. Riêng tại 
13 tiểu bang đầu tiên, người Da Đỏ dộ 110.000 người. Nguyên nhân sự thưa
 thớt trên vì các bộ lạc thường đánh nhau khốc liệt, lại chết vì bệnh 
tật, dịch, truyền nhiễm gây tử vong cho trẻ con rất cao. Sự chung đụng 
càng lúc càng làm cho người Âu thêm cãm kích trước những phong tục, tập 
quán và nghi lễ của người Da Đỏ. Đối với những người Hoa Kỳ đầu tiên 
trên vùng đất mới, chính họ cũng đã nhiều lần bị đói, cho nên đã hiểu rõ
 vũ điệu “ Busk “ ma 2 bộ lạc Creek và nhiều bộ lạc trình diễn, để mừng 
ngày “ Bắp Non Đã Ăn Được “. Điều này đối với người Da Đỏ lúc đó hay bây giờ , vừa là một king nghiệm cũng là “ nghi thức tạ ơn “ thần linh đã giúp cho họ có sự sống. Đây
 cũng là khởi đầu cho sự phát sinh lễ Thanksgiving, tại nơi sinh sống 
của kiều dân vùng Tân Anh Cát Lợi vào năm 1621. Cũng từ đó lễ này trở 
thành một nghi thức mang tính chất tôn giáo, chính trị, đạo đức và xã 
hội..trong đời sống của Hiệp Chũng Quốc.
Liên quan tới ngày lễ trên, còn có Gà Tây hay Gà Lôi (Turkey hay Dinde),
 được các nhà thám hiểm từ tân thế giới ( Châu Mỹ) mang vào Âu Châu từ 
thế kỷ XVI. Năm 1521 Hernan Cortes chiếm Mễ tây Cơ và lấy giống gà này 
mang về Tây ban Nha. Người Pháp gọi gà mái tây là Poule d’Inde hay là 
Dinde, còn gà trống là Dindon vì lúc đó Âu Châu lầm tưởng Tân thế giới 
là Ấn Ðộ. Tại Pháp , gà mái tây lần đầu được đưa vào bàn tiệc cưới của 
vua Charles XIX vào năm 1570. Từ đó, gà tây được coi như món ăn của 
Hoàng gia và giới thượng lưu, trong các ngày lễ, yến tiệc và đặc biệt là
 bửa ăn tối đêm Noel.
Ngày
 nay gà tây là món ăn thông dụng, nhất là tại Hoa Kỳ. Gà tây còn được 
dùng trong lễ Tạ ơn theo truyền thuyết vào năm 1621 khi linh mục 
Pilgrim, đi tàu Mayflower tới vùng Tân Anh Cát Lợi. Trong đêm tổ chức Lễ
 tạ ơn, thổ dân tại đây đã tặng ông một con gà tây. Tập tục này được giữ
 tói ngày nay và trở thành món ăn truyền thống, không thể thiếu được 
trong bữa tiệc đêm Noel.
Theo
 các nguồn sử liệu, thì chính nhà thám hiểm Martin Frobished khi đặt 
chân tới được Tân Thế Giới (Hoa Kỳ) vào năm 1578, đã tổ chức lễ 
Thanksgiving để “ Tạ Ơn “ các đấng thần linh, giúp đỡ, bảo vệ chính ông và đoàn thám hiểm trong suốc cuộc hành trình đầy nguy hiểm trên biển sóng.
Tiếp
 đó vào ngày 26/11/1620, một nhóm người Âu di dân chừng 102 người, đã 
đáp thuyền buồm Mayflower tới được vùng bờ biển Playmouth Rock 
(Massachusetts). Đúng ra thì cuộc hành trình trên được dành cho nhóm 
Hành Hương Thanh Giáo Pilgrims, từ Âu Châu sang Hoa Kỳ. Họ là những tín 
đồ sùng đạo Tin Lành, bị hoàng đế Anh Jacques đệ I đuổi ra khỏi quê 
hương mình. Đó là nhóm Pilgrim Father hay Pères Pèlerins. Đầu 
tiên nhóm này tới Leyde (Hà Lan) nhưng không may Âu Châu lẫn Anh Quôc 
lúc đó đang có chiến tranh tôn giáo , làm lung lay nền quân chủ của cả 
Pháp lẫn Anh. Nghe theo lời khuyến khích của nữ hoàng Anh Virginia, nhóm
 trên quyết tâm tìm đường tới Mỹ với hoài bão được sống trọn vẹn bằng 
niềm tin của mình.
Theo
 các tài liệu lưu trữ, thì chiếc thuyền buồm Mayflower có trọng tải 180 
tấn. Ngày rời Hà Lan là tháng 9-1620, lúc đó con tàu đang trong tình 
trạng hư hỏng và rất nguy hiễm vì nước đá lạnh phủ ngập sàn tàu, sau đó 
lại thêm một trận hỏa hoạn, nên hành khách trên tàu bị cấm nấu nướng, 
chỉ được ăn các thức ăn lạnh, khiến nhiều người mắc bệnh. Nhưng cuối 
cùng sau 65 ngày vượt biển gian khổ, con tàu trên cũng cặp bến tại Cap 
Cod là một vùng đất lúc đó chưa có người Âu nào đặt chân tới. Họ đã vượt
 qua 2750 hải lý, tuy biết lạc địa điểm nhưng nhóm người trên quyết địng
 rời tàu vào ngày 11-12-1620 lên bờ và tới tạm cư tại Plymouth Rock, 
sống chung hòa bình với bộ tộc Da Đỏ láng giềng Narrangganset và 
Wampanoag. 
Thời
 tiết khắc nghiệt, dói lạnh và bệnh tật đã cướp mất 46 sinh mạng trong 
số 102 người di dân, chỉ trong 6 tháng đầu tiên. Những người sống sót 
nhờ gà rừng, chim cút, trĩ, vịt nước săn bắn được và bắp của người Da Đỏ
 giúp, tiếp theo là sự trúng mùa vào năm 1621. Đó là lý do người đại 
diện nhóm William Bradford đã tổ chức lễ Thanksgiving đầu tiên để “ Tạ Ơn Trời “ vào tháng 11-1621. Dịp này gần 100 người Da Đỏ đã giúp Họ sống còn,..được mời tham dự với tư cách là những ân nhân.
-Nguồn gốc Lễ Tạ Ơn: 
 Như
 nhiều lễ hội khác tại Âu Châu, Ngày Tạ Ơn phát nguồn từ thời thượng cổ 
qua nhiều lý do khác nhau nhưng tựu trung không ngoài ý nghĩa “ chúc mừng thành công “. Đây
 là truyền thống của nhiều dân tộc trên thế giới, mong muốn có một ngày 
đặc biệt trong năm để mọi người cùng hướng về Trời Đất, Những Vị Anh 
Hùng , Những Ân Nhân “ Cám Ơn Họ “ đã giúp cho dân tộc, quốc gia 
mình. Tại Cổ Hy Lam, hằng năm đều có tổ chức Thanksgiving để Tạ Ơn Nữ 
Thần Demeter giúp họ trúng mùa bắp. Người La Mã thì tổ chức Hội Chợ 
Cerelia sau mùa gặt chính.Còn Do Thái thì tổ chức Lễ Mãn Mùa Gặt Hái 
Sukkoth sau khi thu hoạch.. Trước khi phát hiện ra Gà Tây tại Tân Thế 
Giới, người xưa đã dùng cái Sừng Dê làm biểu tượng chính trong cuộc lễ.với quan niệm sừng dê sẽ đem lại sự phồn thịnh cho mọi người.
Hiện
 có tám nước tổ chức lễ Thanksgiving hàng năm là Á Căn Đình, Ba Tây, Gia
 Nã Đại, Nhật Bản, Nam Hàn, Libéria, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ.
-Lễ Tạ Ơn Tại Hoa Kỳ:
 Hoa
 Kỳ đã cử hành ngày Thanksgiving đầu tiên tại miền đông bắc vào năm 1578
 do nhà thám hiểm Martin Frobished củ xướng. Kế tiếp là nhóm di dân trên
 tàu Mayflower tại Plymouth Rock tổ chức Lễ Tạ Ơn Trời Đất đã cho họ 
sống sót vào tháng 11-1621. Từ đó lễ này được cử hành khắp Hoa Kỳ nhưng 
không đồng nhất vì có sự khác biệt phong tục tập quán giữa các nhóm di 
dân Âu Châu. 
Ngày
 4 tháng 7 năm 1789, 13 tiểu bang ly khai sau thời gian chiến đấu đẵm 
máu chống thực dân Anh, đã giành được độc lập cho Hoa Kỳ. Chính vị tổng 
thống đầu tiên của Mỹ là George Washington đã chọn ngày 26 tháng 11 hằng
 năm là ngày lễ Thanksgiving cho toàn quốc. Từ năm 1830 Hoa Kỳ đã bắt 
đầu chia rẽ vì vấn đề nô lệ, mở đầu cho cuộc nội chiến Nam Bắc. Chính 
tổng thống Abraham Lincoln trong ngày lễ Thanksgiving năm 1863, đã đề 
cao “ công ơn mở nước của nhóm di dân Hoa Kỳ đầu tiên trên tàu Mayflower “.
 Ông cũng xác định thời gian cử hành lễ là ngày Thứ Năm cuối cùng của 
tháng 11 hàng năm. Thế chiến II bùng nổ, Hoa Kỳ đang trong thời kỳ chiến
 tranh. Dịp này quốc hội đã biểu quyết chấp thuận ngày Thanksgiving năm 
1940 dành “ Cám ơn những chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ đất nước. Tổng thống Hoa Kỳ lúc đó là Franklin Roosevelt đã chọn ngay Thứ Năm của Tuần thứ tư tháng 11 làm ngày lễ. Quyết định này được thi hành đến ngày nay. 
Riêng
 Gia Nã Đại mừng lễ Thanksgiving vào ngày Thứ Hai của tuần lễ thứ hai 
của tháng Mười với ý nghĩa cũng giống như Hiệp Chũng Quốc.
Theo
 những tài liệu còn lưu trữ, thì những người Hoa Kỳ đầu tiên mừng lễ Tạ 
Ơn tới ba ngày nhưng họ ăn uống rất giản dị vì lúc đó thực phẩm rất khan
 hiếm (kể cả Gà Tây), nên trong bữa tiệc thường được thay thế bằng gà 
rừng, chim trĩ, vịt trời. Ngoài ra cũng không có khoai tây, bánh nướng 
vì không có bột mì. 
Ngày
 nay lễ Tạ Ơn cũng là dịp để cho gia đình đoàn tụ và trong bữa tiệc thực
 đơn chính vẫn là món Gà Tây truyền thống, mà những di dân đầu tiên trên
 tàu Mayffower được thưởng thức do những người bạn Da Đỏ tạng vào năm 
1620. Ngoài ra cũng không thể thiếu món Bí Đỏ (thực phẩm đã cứu đói 
những người di dân trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên khi tới Mỹ)
Liên Hiệp Quốc trong
 ngày đầu năm Dương Lịch 1-1 đã tuyên bố “ Đây là năm quốc tế 
Thanksgiving.
Người
 Việt tị nạn CS chúng ta may mắn được sống hạnh phúc trên đất Mỹ, với 
đầy đủ các quyền lợi đã qui định từ Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập và Nhân 
Quyền, mà đâu mấy ai hiểu rõ là Tiền Nhân đã đổi lấy nó bằng máu và mạng
 sống trước bạo lực. Bởi vậy để đền đáp phần nào tấm lòng nhân đạo mà 
Hoa Kỳ đã rộng mở , chúng ta phải biết ‘ nhập gia tuỳ tục ‘, làm 
tốt bổn phận công dân và cố gắng phát huy truyền thống tinh hoa của Dân 
Tộc Việt, để không hổ danh là con Hồng Cháu Lạc dù đã có quốc tịch Mỹ 
hay đang sống tạm nơi xứ người.
Cũng đừng quên cám ơn mọi người đã cho chúng ta cuộc sống an bình và hạnh phúc hôm nay.


Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar