lørdag 28. februar 2015

Nụ Cười Cuối Tuần


Ăn Cướp Gặp Ông Già.



Nửa đêm có tiếng gõ cửa ! Cóc Cóc Cóc !
Ông chủ nhà cẩn thận không mở cửa mà chỉ hỏi:
- Ai đó ?

- Cướp đây.

- Muốn gì ?

- 15 cây vàng.

- Một tạ rưỡi được không ?

- Không đùa, nếu “câu giờ” thì cả ngôi nhà này sẽ bị thiêu trụi đấy.

- Tôi không đùa. Một tạ rưỡi vàng có được không ?

- Vậy thì mang ra đây.

(Ông chủ nhà quay sang vợ)

- Em yêu, cục vàng của anh, ra gặp họ đi.


**********************************************

Chắc Chắn Có Người Bắn Hộ.
Một cụ già 65 tuổi lấy được cô vợ trẻ xinh đẹp, trong lòng thấy trong lòng thấy mãn nguyện lắm.


Khoảng vài tháng sau, ông ta chạy đến bác sĩ báo tin:

- Thưa bác sĩ, vợ tôi có tin vui !

Ông bác sĩ suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Tôi sẽ kể cho cụ một câu chuyện có thật 100%: Một nhà bác học đãng trí rất thích đi săn. Một hôm, thay vì mang súng vào rừng thì ông lại mang nhầm cái ô. Đang đi trong rừng, bỗng một con hổ từ trong bụi nhảy xổ ra. Nhà bác học rút cái ô ra bắn chết tươi con hổ. …

Ngay lập tức cụ già nhảy cẫng lên:

- Tôi không tin, chắc phải có người đâu đó bắn hộ ?

- Vâng, thưa cụ. Chắc chắn phải có người bắn hộ – ông bác sĩ nói.
**********************************************
Quà Tết.
Một bà già vào shop, hỏi cô nhân viên bán hàng.
- Tôi muốn có một món quà tặng cho con trai tôi nhân ngày Tết !
- Thưa, anh ấy như thế nào ạ để cháu giúp ý cho bà ?
- Con trai tôi cao 1,75m, đẹp trai, khỏe mạnh, học giỏi. Hơn nữa là thứ gì nó cũng có rồi, nên tôi chẳng biết mua tặng nó thứ gì nữa !
- Vậy bác có thể tặng anh ấy, số điện thoại của cháu được không ?
- ?!?!?!
******************************************************************
  
Thân Phận Làm Chồng.

Tan học, Tí chạy ngay về nhà và khoe với bố.


- Bố ơi ! Trường con sắp tổ chức diễn kịch. Con có một vai trong đó, con sẽ diễn vai người chồng.
Ông bố lắc đầu thở dài:
- Tệ thật, thế họ không cho con một vai nào khác có thể nói được vài câu à !


*******************************************************************

Ước Mơ Giản Dị Của Ông Chồng.

Hai vợ chồng đang ngồi tâm sự, vợ nũng nịu.


- Trước đây, anh nói với em là mỗi ngày anh chỉ cần được gặp em một vài phút là đã thấy sung sướng lắm rồi, thế mà bây giờ anh…
Chồng ôn tồn nói với vợ:
- Bây giờ, anh cũng chỉ muốn như vậy thôi mà !
-! ? Quả thật là ước mơ.

TTS.
 

Ðất Nước Ngày Nay Như Trại Tế Bần !


Đầu Xuân, trăm hoa đua nở, người người diện áo mới ra đường, các quan khoe mẽ sự giàu có tột đỉnh, các đài, báo trong nước tha hồ tán về một năm thắng lợi, thành công, ổn định… Sao lại nói đất nước là một cái trại tế bần ? Xin mở ngoặc chỗ này: Đất nước là một cái trại tế bần lớn, trong đó, những người lao động nghèo cùng chung tay với tư bản để bố thí, nuôi nấng, cưu mang cho các quan Cộng Sản.

Đất nước này là một cái trại tế bần vĩ đại với hàng triệu kẻ ăn xin trên lưng nhân dân. Đừng nhầm tưởng những người ăn xin, lăn lóc ngoài đầu đường xó chợ mới là ăn mày. Trong khía cạnh số phận và công việc, họ thật sự là những người ăn xin nhưng sâu xa hơn, trên góc độ chính trị, họ cũng là những người đang bố thí cho các quan Cộng Sản, các quan Cộng Sản mới là kẻ ăn mày.


Vì sao lại có kiểu lập luận ngược ngạo và vô lý này ? Bởi lẽ, thi thoảng vẫn thấy các ông quan, bà quan nhà Cộng Sản móc túi, bố thí cho người ăn xin cơ mà ? Không, đó là cái mà ai cũng có thể làm được và ai cũng có thể nhìn thấy. Bởi giới ăn mày, ăn xin họ rất sòng phẵng, cho dù sự sòng phẵng này có léo hánh, có xảo quyệt (mạnh khỏe mà vẫn đóng bộ yếu đuối để lăn lóc ăn xin) chăng nữa thì ít nhất, họ cũng chấp nhận thân phận của một người ngửa tay xin sự ban ơn, xin lòng thương của đồng loại. Họ không dấm dúi về thân phận ăn mày của mình, họ hoàn toàn khác với các quan chức Cộng Sản.

Thử hỏi: Ðất nước này, ai là kẻ nhân danh một dân tộc cả trăm triệu người này để vay vốn nước ngoài, xin viện trợ nước ngoài để rồi tư túi, tùng xẻo, phân năm xẻ bảy trong bè lũ, phe nhóm với nhau? Chắc chắn không có ai ngoài những quan chức cấp cao trong nhà nước, chính phủ, trung ương đảng Cộng Sản. Chỉ có họ mới đủ thẩm quyền để làm điều này. Và khi các nước khác mở hầu bao viện trợ nhân đạo, cho vay không hoàn vốn, cho vay lâu dài… Nhóm quan lại từ trung ương đến địa phương đã bỏ túi một phần không nhỏ.
Thử hỏi: Ai đã nhận hối lộ, và ai đã hối lộ ? Đương nhiên là quan chức bề trên nhận hối lộ của cấp dưới, cấp dưới lại nhận của cấp thấp hơn. Và để có cái mà hối lộ, giới quan lại Cộng Sản đã không ngần ngại tham nhũng, đục khoét, bán đứng lãnh thổ, lãnh hải, bán đứng danh dự dân tộc, thao túng công quĩ, biển thủ… Có như vậy họ mới có tiền để cống nạp cấp trên. Và chuyện này cũng không nằm ngoài vấn đề cướp đất của dân lành để hô biến thành những dự án, sau đó bán đất dự án bỏ túi.

Tất cả những hành vi tham nhũng, hối lộ, biển thủ của công… Đều cho thấy khả năng tự làm kinh tế của giới quan lại Cộng Sản rất thấp, nếu không muốn nói là họ không có khả năng này, họ phải ăn cắp, ăn xin của nhân dân và làm giàu bằng tiền ăn cắp, ăn xin. Cho dù ăn cắp, tham nhũng hay ăn xin, xét về bản chất, căn cội của hành vi này, đều là ăn mày, bất lực từ căn để và tự dối lòng mình, tự lấp liếm với danh dự để ăn mày của nhân dân.
Thử hỏi: Ngân sách quốc gia do đâu mà có nếu không phải là do thuế của nhân dân đóng góp ? Với kiểu thu thuế theo định mức giá trị gia tăng, từ chai thuốc trừ sâu cho đến bó rau, hạt lúa, củ cải, trái bắp và cả cái ca để người ăn mày ngửa ra giữa chợ hay cái nón lá để người ăn mày ngửa xin giữa cuộc đời đều có thuế trong đó. Vấn đề thuế của nhân dân là bao trùm, từ chén cơm cho đến hạt gạo. Vậy suy cho cùng, người ăn mày ngửa tay xin ngoài chợ đời nhưng vẫn phải đóng thuế cho nhà nước mỗi khi mua bất cứ một thứ hàng hóa nào trên đất nước hình chữ S này.

Và một khi các quan ăn chặn thuế của nhân dân, biển thủ công quĩ, điều này chứng tỏ bọn họ đã thành một loại “ăn mày của ăn mày”. Suy cho cùng, quan chức càng lớn thì mức độ ăn mày và độ dày của da mặt càng cao, chả có gì để hãnh diện hay tự hào !
Thế nhưng bọn họ vẫn dương dương tự đắc, tự cho mình tài giỏi, đạo đức, biết cống hiến cho xã hội. Đó là một bi kịch của dân tộc ! Không có bi kịch nào lớn hơn bi kịch mà ở đó, những kẻ ăn mày lại luôn xem mình là ân nhân, là kẻ bố thí, còn những người bố thí lại phải sống thân phận ăn mày. Điều đó đang xãy ra trên đất nước này.
Và cũng không có bi kịch nào đáng sợ hơn sinh mệnh và danh dự của gần một trăm triệu ông chủ, bà chủ, cô chủ, cậu chủ phải bị mang ra thế chấp để vay nợ, để một số nhỏ ăn mày được sống phè phỡn, giàu có, vương giả và lạnh lùng nhìn chủ của mình, ân nhân và cũng là nạn nhân của mình phải chịu đói rét, đau khổ, u tối. Điều đó e rằng xãy ra rất hãn hữu, ở các nước thuộc về thế giới thứ ba và một số nước độc tài, trong đó, Việt nam đứng ở vị trí chủ chốt !

Đã hơn bốn mươi mùa xuân trôi qua, người dân miền Nam đã nếm đủ mọi nỗi khổ nhục và cũng đã hơn bảy mươi mùa Xuân, người dân miền Bắc nếm đủ mất mát, hy sinh, đau khổ và tủi nhục. Tất cả những gì người dân cống hiến, ban tặng cho cái chế độ này không gì khác là những cái bằng khen, những cái huy chương nếu bán giấy lộn và đồng nát chẳng mua đủ một bữa cơm. Và những gì họ bố thí cho cái chính thể Cộng Sản xã hội chủ nghĩa này đã quá đủ. Đã đến lúc những người bố thí phải dừng ngay việc bố thí bằng cách này hay cách khác.
Và cũng đã đến lúc những kẻ trộm cắp, những kẻ nhận bố thí, ăn mày trên xương máu và số phận của nhân dân phải dừng ngay việc sống bám của họ, phải biết học hai chữ “tự trọng” và cần tìm hiểu thế nào là danh dự, làm người. Họ cũng cần phải xem việc sống phè phỡn trên xương máu cũng như sự bố thí của tổ tiên, dân tộc là một cái tội. Mà tội đầu tiên là tội lừa dối, lừa dối tổ tiên, lừa dối dân tộc, lừa dối cộng đồng quốc tế, và đáng nói hơn cả là lừa dối bản thân, xem sự ăn mày, ăn bám nhân dân của mình là một thứ công trạng.
Một khi kẻ ăn mày bớt nhỡn nhơ, biết xấu hổ trước đồng loại và người tài biết đứng lên xây dựng quê hương, dân tộc thì mới hy vọng vào sự tồn vong của đất nước này! Một năm mới, cũng là một bước khởi sự cho một vận hội mới! Hãy thôi ngay việc biến đất nước này thành một trại tế bần !

Viết Từ Sài Gòn.

Hương Trầm ( Thơ )

 
Phiến buồn thơ tựa lưng mây
Gió trêu sợi nắng rụng ngày hư hao
Lối xưa ai lửng lơ chào
Vết thương kỷ niệm cấu cào trăm năm

Thu gầy guộc lá gọi thầm
Mùa ban ân sủng hương trầm môi em
Gói thân cánh áo lụa mềm
Viền thơ Tố nử bóng thềm trăng phai

Ai ngồi khóc giửa trần ai ?
Tang thương,Tuế nguyệt, lệ đài các rơi
Vai anh nghiêng xuống nửa đời
Cho em ngủ vội một thời hồng nhan

Sụt sùi mùa lở sang ngang
Lối xưa lá ngọc cành vàng biệt tăm
Ai về hẹn với trăm năm
Vai ta quấn quýt hương trầm môi em

Dĩ an.

fredag 27. februar 2015

Luật Tử Hình Ở Việt Nam

 
Bộ Luật Hình Sự của Việt Cộng nơi Chương XXI có quy định Các Tội Phạm Về Tham Nhũng. Theo đó, các điều sau đây nếu vi phạm sẽ bị án tử hình.

Điều 278 (4) Tội Tham Ô Tài Sản:
(a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ $500,000,000 đồng trở lên ($23,441 đôla)

Điều 279 (4) Tội Nhận Hối Lộ:
(a) Của hối lộ có giá trị từ $300,000,000 đồng trở lên ($14,065 đôla)

Điều 289 (4) Tội Đưa Hối Lộ:
(a) Của hối lộ có giá trị từ $300,000,000 đồng trở lên ($14,065 đôla)

Luật này chỉ được áp dụng cho những ai không phải là đảng viên của Đảng CSVN, hoặc những ai đã bị khai trừ ra khỏi Đảng.

Nếu luật này được áp dụng cho giai cấp cộng sản thì gần như tất cả giàn đầu lãnh CSVN, từ trung ương đến địa phương, ai cũng đều bị án tử hình.

Cho nên Nguyễn Phú Trọng mới nói "đánh con chuột đừng để vỡ bình", tức đánh chuột có chọn lọc, người đánh chuột (Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương) nên chọn chuột của đối thủ mà đánh và chọn con chuột nào què quặt để đối thủ không quậy cho bể đảng.

Vì tất cả đều có thể bị án tử hình, cho nên ở Trung Quốc cũng như Việt Nam, giàn đầu lãnh ai cũng lo sợ, không biết đồng chí cán bộ chừng nào cho mình bị lộ, cũng không biết cách đánh có chọn lọc này dựa vào tiêu chuẩn nào, cho nên sự bảo vệ duy nhất là phải làm sao cho kẻ đánh chuột sợ chuột nên không dám đánh, ai dám đánh thì mình phải đánh cho gục trước.

Đó là lý do mà GS Carl Thayer hôm đám tang Nguyễn Bá Thanh 13/2/2015 đã nhận xét " Nguyễn Bá Thanh được đưa vào ngã ba đường" và " bất kỳ ai ngồi vào vị trí đó (Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương) sẽ bị 'bẻ nanh' hay kể như bị vô hiệu hoá". Qua câu nói này, ta thấy trong thâm tâm của ông Thayer không tin là Nguyễn Bá Thanh chết do bệnh tự nhiên.

Trong khi ở Trung Quốc, Vương Kỳ Sơn, có vai trò chống tham nhũng y như Nguyễn Bá Thanh, nhưng Vương Kỳ Sơn có rất nhiều lợi thế hơn so với Nguyễn Bá Thanh. Lợi thế lớn nhất của Vương Kỳ Sơn là được Tập Cận Bình bảo vệ bằng mọi giá, nói chém "cả hổ lẫn ruồi" chứ không "đánh con chuột đừng để vỡ bình", câu nói làm yếu Nguyễn Bá Thanh và làm mạnh chuột. Lợi thế thứ hai là Vương Kỳ Sơn là một trong 7 người của Thường Trực Bộ Chính Trị, có quyền lực trên đỉnh cao, điều mà Nguyễn Bá Thanh không có. Lợi thế thứ ba là Vương Kỳ Sơn không có gia đình để chuột có thể cắn trả thù, muốn cắn phải cắn chính ông, cho nên ông gần như có một cơ thể bất diệt.

Vì chế độ cộng sản xây dựng ra giai cấp thống trị đứng trên luật mà nếu áp dụng luật thì hầu như ai cũng bị án tử hình, cho nên việc Vương Kỳ Sơn chém "hổ lẫn ruồi" cũng là có chọn lọc, ưu tiên cho đối thủ và ưu tiên cho chuột yếu chuột què. Nhưng vì không có tiêu chuẩn cho việc chọn lọc nên ai cũng lo mất ngủ, hậu quả là trong đường dài có thể chính Vương Kỳ Sơn cũng sẽ bị cả bầy chuột vật.

Nguyễn Bá Thanh  có cá tính mạnh, quyết đoán và không muốn nghe theo lời khuyên của người chống lưng mình "đánh con chuột đừng để vỡ bình", trong khi chính người chống lưng cũng yếu không có nhiều quyền lực như Tập Cận Bình.

Khi Phạm Quý Ngọ đã bị chết theo quy trình để bảo vệ cho bình (Đảng) không vỡ và Viện Kiểm Sát Trung Ương đã tuyên bố đóng hồ sơ thì đáng lẽ ra Nguyễn Bá Thanh nên dừng, nhưng sau đó Nguyễn Bá Thanh đã tuyên bố là muốn tiếp tục và mở rộng cuộc điều tra qua lời khai của Dương Chí Dũng.

Với hành động này và các tuyên bố "hốt liền", "hốt hết", "không nói nhiều" trước đây khi nhận nhiệm vụ thì Nguyễn Bá Thanh đã làm cho cả giai cấp thống trị phải âu lo và muốn áp dụng luật chơi của game độc tài là "giết hay bị giết".

Trong Hội Nghị Trung Ương 10 hôm 5-12/1/2015 Bộ Chính Trị đề nghị kỹ luật một cán bộ cao cấp và Ban Chấp Hành Trung Ương đồng ý, nhưng không cho biết là ai và phạm lỗi gì, làm cho những người theo dõi chính trị Việt Nam nghi ngờ là nó có liên quan đến vấn đề tham nhũng và chống tham nhũng.

Các phe phái trong Đảng đang tranh chấp quyền lực dữ dội trước thềm Đại Hội 12, nhưng khi đi đến mức có thể bể đảng thì họ ngưng lại để thoả hiệp, và khi đã thoả hiệp rồi thì họ cùng nhau làm thành giàn đại hoà tấu để định hướng dư luận, cho dù có trơ trẽn đến đâu.

Giàn nhạc này biểu diễn khá hề trong cái chết của Nguyễn Bá Thanh , nào là "tao khỏe mà, có chi mô", "ăn hết tô cháo", "ký giấy tờ công văn Nội Chính", "đi lại được trong phòng", trước khi chết Nguyễn Bá Thanh nói với bác sĩ đại diện đảng là "để cho gia đình chịu mọi chi phí trị bệnh của Nguyễn Bá Thanh ". Có ai khi lâm chung nói lời cuối cùng như vậy không? hay đó là cách Đảng muốn định hướng dư luận rằng Nguyễn Bá Thanh tuy chống tham nhũng nhưng chẳng trong sạch gì, mà cũng là đại tham nhũng.

Các lãnh tụ đến thăm như: Tô Huy Rứa, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Thị Kim Tiến... nhưng tuyệt đối không có một âm thanh hay hình ảnh gì của Nguyễn Bá Thanh cả, trong khi Võ Nguyên Giáp đã ngất ngư còn được mặc quân phục để chụp hình.

Tại sao ?
- Tại vì Nguyễn Bá Thanh không chết do bệnh tự nhiên, và khác với Phạm Quý Ngọ bị dính bên phía tham nhũng, Nguyễn Bá Thanh là người đang cầm thượng phương bảo kiếm để chống tham nhũng. Nếu sự thật được phơi bày thì rõ ràng là tham nhũng đã thắng, và lòng dân sẽ muốn nổi loạn.

Vì muốn bảo vệ Đảng, bảo vệ bình, nên tất cả các phe tạm thời đình chiến để hoà nhạc tế thần hy sinh Nguyễn Bá Thanh. Có thể nói người có lỗi lớn nhất trong cái chết của Nguyễn Bá Thanh là Nguyễn Phú Trọng.

Và những người có lỗi trong việc bao che cái sai quấy này để bảo vệ chế độ là những người không chịu nhân cơ hội này để phơi bày ra sự thật hầu thay đổi chế độ để đi về hướng trong sáng cho Việt Nam hơn.

Lê Minh Nguyên.

Không Chỉ Là "Một Bộ Phận" Tham Nhũng

 
Trong những năm gần đây, khi nạn tham nhũng đã trở thành một quốc nạn, một thứ bệnh ung thư trầm trọng di căn tràn lan trên hình hài của đất nước Việt Nam, với cả một hệ thống tham nhũng từ trung ương cho đến địa phương, từ trong dinh phủ cho đến ngoài lề đường, khiến người dân càng ngày càng cảm thấy kinh tởm, thì hàng ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam bèn bắt đầu rêu rao khẩu hiệu "bài trừ tham nhũng". Thế nhưng, đây là một màn kịch rẻ tiền, vì tất cả những cái loa của hàng ngũ lãnh đạo đều oang oang cho rằng nạn tham nhũng chỉ có ở "một bộ phận cán bộ, đảng viên...” !!!
 
Gần đây nhất, trong bài diễn văn chúc Tết Ất Mùi, Trương Tấn Sang nói: "... đấu tranh mạnh mẽ ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu và sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, góp phần vào sự thành công của Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng."
 
1/ "MỘT BỘ PHẬN" NÀO ?
Tất nhiên, Trương Tấn Sang không thể nói rõ ra "một bộ phận" tham nhũng ấy là bộ phận nào. Vì sao vậy ? Vì nhóm chữ “một bộ phận” chỉ là một nhóm chữ láo toét, nhằm thu nhỏ tầm cỡ của nạn tham nhũng, với chủ tâm đánh lừa người dân.
 
Kiểu nói này giống như một anh lang băm nói:  “an tâm đi, bệnh này là do một bộ phận trong cơ thể bị hỏng, tôi sẽ chữa trị bộ phận đó.” Nghe thì đơn giản, nhưng sự thật thì không phải như vậy. Khi một bệnh ung thư đã di căn trầm trọng thì nó không còn ở “một bộ phận” nữa, mà nó đã lan sang nhiều bộ phận khác, thậm chí lan đi khắp cơ thể của bệnh nhân. Ngay cả nếu cắt bỏ hẳn “một bộ phận” nào đó, thì cũng hoàn toàn vô ích.
Nói tóm lại, khi hàng ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam nói rằng chỉ có “một bộ phận cán bộ, đảng viên...” là tham nhũng, thì họ đang nói láo một cách trắng trợn.
 
2/ BÀI TRỪ “MỘT BỘ PHẬN” THAM NHŨNG ĐỂ LÀM GÌ ?
Nếu cứ giả thiết rằng Trương Tấn Sang và cả hàng ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam có thực tâm muốn bài trừ “một bộ phận” tham nhũng nào đó, thì mục đích của họ là gì? Phải chăng họ muốn bài trừ “một bộ phận” tham nhũng nào đó để chấn hưng đất nước ?
 
Không, không phải vậy. Trương Tấn Sang đã nói rõ rằng việc bài trừ “một bộ phận” tham nhũng nào đó là chỉ để “góp phần vào sự thành công của Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng."
 
Như vậy thì hiển nhiên là họ chẳng hề quan tâm đến đất nước. Họ chỉ quan tâm đến bộ mặt của Đảng. Nói bài trừ “một bộ phận”tham nhũng nào đó chỉ là nói suông để rửa bớt bộ mặt nhơ nhớp của Đảng, mà thực chất là không hề bài trừ "một bộ phận” tham nhũng nào cả.
 
3/ KẾT LUẬN:
Rất hiển nhiên, như đã nói, đối với một bệnh ung thư đã di căn trầm trọng thì có cắt bỏ hẳn “một bộ phận” nào đó cũng hoàn toàn vô ích. Đằng này, thậm chí chính họ cũng không thể xác định “một bộ phận” nào đó là bộ phận gì, nằm ở đâu, mà thật ra là bệnh ung thư đã di căn lan tràn trên cả cơ thể, thì việc cắt bỏ “một bộ phận” nào đó cũng chỉ là chuyện nói suông để lừa dối, và tất nhiên kết quả là hoàn toàn hư huyễn.
 
Bệnh ung thư di căn tham nhũng ở Việt Nam bây giờ chỉ có thể được chữa trị bằng những liều thuốc thật mạnh, tiêu diệt toàn bộ những tế bào ung thư trên cả hình hài đất nước Việt Nam, và thay vào đó bằng những tế bào trong sạch và lành mạnh. Nghĩa là phải hoàn toàn xoá bỏ hệ thống cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam, và thay vào đó bằng một hệ thống chính quyền dân chủ đích thực.
 
Hoàng Ngọc-Tuấn.

torsdag 26. februar 2015

Duyệt Lại Sự Thật Lịch Sử


Theo sử sách của Đảng Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương và ngày 3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê. Ngày nay sự thật lịch sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương không tự giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh đã về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm trước, 2 tháng 9, 1969. 

Cũng vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập. Thực ra Việt Nam chưa độc lập năm 1945. Và ngày 2 tháng 9 không phải là Ngày Quốc Khánh. Chiếu Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3, 1949 do Hiệp Định Elysee. Trong năm này, 11 quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được độc lập bằng đường lối chính trị và ngoại giao, không bạo động võ trang và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. 
 
Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả đã đạt được trong nửa thế kỷ vừa qua, và tự ban cho mình tư cách độc quyền lãnh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ nay về sau. 
 
Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ căn cứ vào những tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lý để đưa ra những nhận định liên quan đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản. 
Dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động võ trang, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên bình diện dân tộc đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ phải hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương: 
- Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam trong 8 năm (l946-l954) 
- Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và  
- Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10 năm, chiến tranh Miên Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc. 
Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã đấu tranh bạo động võ trang và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại, tất cả 11 quốc gia khác đã đấu tranh ôn hòa, hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để giành tự trị trong giai đoạn đầu và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng vì vậy họ đã tiết kiệm được nhiều hy sinh xương máu và thời gian giành độc lập được rút ngắn còn từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến II, thay vì 40 năm như trường hợp Việt Nam.
 
Năm 1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các Đế Quốc Tây Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đã trả chủ quyền độc lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hãn tại Nam Á. 
Năm 1941, khi Thế Chiến II còn đáng tiếp diễn, theo đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ Pháp Hòa Lan đã hội nghị tại Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó các thuộc địa và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh kết thúc.  
Mùa xuân 1945, với sự đầu hàng của Đức Quốc Xã, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Điều Thứ Nhất và Điều 55 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. 
Trung thành với Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945, trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu:  
Độc lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp. 
Độc lập năm l947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh.  
Độc lập năm l948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh.  
Độc lập năm l949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hoà Lan.  
Như vậy lịch sử đã chứng minh rằng, tại Á Châu, đấu tranh không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành tự trị và độc lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh võ trang nhằm lật đổ các Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm chiến lược. Vì đây không phải là chiến tranh giành độc lập mà là chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại Triều Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hãn đã hy sinh thân sống, không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng Cộng Sản cướp chính quyền.
 
CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP:
Trung thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập vì quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch sử đã chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đã chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. 
Tại Pháp, tháng 3, l947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier và Hội Đồng các Chính Đảng (lãnh đạo Quốc Hội gồm cả Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái lập thuộc địa tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất (ba miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn hóa và một ngôn ngữ). 
Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đã chính thức đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc.(1) (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332). 
Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 ký kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại. 
Hiệp Định Élysée là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao của các quốc gia văn minh trên thế giới. Thông thường các hiệp ước và hòa ước quốc tế đếu do các ngoại trưởng ký. Riêng Hiệp Định Élysée đã được chính Tổng Thống Vincent Auriol tự tay ký, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của ngoại Trưởng Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Phòng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được hòan toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ ký với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đã bị Hiệp Định Élysée bãi bỏ.  
Cũng trong năm l949 Trung Cộng đã dùng võ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Trìêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc Tây Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại âm mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản.  
Chiếu Hiệp Định Elysée tháng 3, 1949, Việt Nam là một quốc gia liên kết với Pháp trong tổ chức Liên Hiệp Pháp nên giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Nay Quốc Gia Việt Nam bị đe doạ về an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiã vụ phải mang quân hay điều quân để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của Thế Giới Dân Chủ.  
Mặc dầu vậy Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này. Họ tiếp tục chiến đấu võ trang để được độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia. 
Để vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Do đó họ phải chiến đấu võ trang chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc gia. 
Đây là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì từ năm 1947 các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa tại Á Châu và tán thành nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó, năm 1946, Pháp đã trả độc lập cho Syrie và Liban theo chủ trương của Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945.. Và trong năm 1947, như đã trình bầy, Pháp đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 3, 1949, bằng Hiệp Định Elysée, Tổng Thống và Quốc Hội Pháp đã chính thức thừa nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Quốc Gia Việt Nam.
 
CUỘC THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC:
Năm l975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước. Vì theo quốc tế công pháp, Quốc Gia Việt Nam đã được độc lập và thống nhất từ năm l949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8-3-l949.  
Một tháng rưỡi sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, ngày 23-4-l949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống).  
Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này và đã phá hoại nền thống nhất này. Vì Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu võ trang và đã ký Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu võ trang để thôn tính Miền Nam năm l975.  
Kể từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đã thay thế Pháp để thống trị Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải để thống trị hai quốc gia này mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ. 
Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đã đổ bao xương máu để tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này, vì yếu thế, chúng ta phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949 đồng bào Miền Nam đã hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi chủ quyền lãnh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến tranh võ trang, Hồ Chí Minh đã cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng chiến tranh võ trang, Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công thống nhất đất nước! 
Chúng ta đưa ra những nhận định này trên cương vị người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một chế độ chính trị nào.
 
CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU:
Muốn có cái nhìn khách quan và trung thực, chúng ta hãy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại Á Châu. 
 Sau Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương là đã đấu tranh võ trang, bạo động và liên kết với Quốc Tế Công Sản. Trái lại các đảng quốc gia tại 11 nước Á Châu khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.  
Một năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh và Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu.
 
1946: Phi Luật Tân độc lập 
Hoa Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa. Nguyên là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm tình với những phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Á Phi.  
Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lãnh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau, đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945) Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh Thái Bình Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày 4-7-1946 (trễ một năm vì lý do chiến cuộc). 
Trong thời chiến tranh, Luật Sư Quezon được mời tham gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái Bình Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư Roxas hoạt động tình báo cho Tướng McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through Cooperation).
 
1946: Syrie và Liban độc lập. 
Nếu Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, thì Pháp cũng là quốc gia có truyền thống Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người. 
Tại Syrie và Liban, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đã từng du học tại Paris, nơi đây ông hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương duy trì thuộc địa còn có Đảng Xã Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa. 
Năm 1936 Mặt Trận Bình Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xã Hội Léon Blum ký hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập cho Syrie và Liban (Thời gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của Staline).
 
1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập.  
Sau các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế Chiến II, Anh Quốc đã thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim chạy từ Bắc Mỹ qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự hào nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế Chiến II, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. 
Tại Ấn Độ, 3 nhà lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị này đã từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy trì thuộc địa, còn có Đảng Lao Động Anh chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa như Đảng Xã Hội Pháp.  
Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Clement Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine, mặc dầu mọi phản kháng của Churchill, lãnh tụ Đảng Bảo Thủ. 
Khác với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Hội Ấn Độ chủ trương đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.  
Với một dân số quá đông (gần 400 triệu, so với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945), trong một xã hội chậm tiến, nghèo đói, thất học, với những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ 10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Ấn Độ đã giành được độc lập 2 năm sau Thế Chiến II, trong khi dân tộc ta đã phải hy sinh xương máu ròng rã trong 40 năm.
 
1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập. 
Người anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu Kyi hiện lãnh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như Gandhi, Aung San tình nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật...
 
Năm l948 Miến Điện được trao trả độc lập. 
Tại Tích Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập sự tự trị là 15 năm. Với chủ trương “Thiện Chí và Hợp Tác” (Good Will and Cooperation), Đảng Quốc Gia Tích Lan đã giành được tự trị năm l945 và độc lập năm l948. Cũng trong năm này Palestine thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh.
 
1949: Nam Dương độc lập. 
Sau các Đế Quốc Mỹ, Pháp, Anh đến lượt Đế Quốc Hoà Lan tự giải thể năm l949. Phong trào giải phóng dân tộc Nam Dương được phát động bởi giới trí thức du học Hòa Lan. Trong khi Đảng Cộng Sản theo sách lược bạo động võ trang thì Đảng Quốc Gia Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn hòa bất bạo động bằng canh tân và giáo dục. Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và Hatta lập Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan và Luật Sư Sjahrir đã từng gia nhập Đảng Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học.  
Năm 1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương, Sukarno hợp tác với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập. Nhưng rồi quân đội Hòa Lan theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội Nhật, Sukarno chủ trương thương nghị với Hoà Lan.  
Trong những năm l946 và l948, Đảng Cộng Sản Nam Dương phát động chiến đấu võ trang để phá thương nghị. Thời gian này nước láng giềng Phi Luật Tân đã được độc lập. Tổng Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực Hoà Lan phải hòa đàm với chính phủ Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế Hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu thời hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có trọng lượng đối với Hòa Lan. Hội Nghị Bàn Tròn La Haye được triệu tập dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1949, do Hiệp Ước La Haye, Hoà Lan thừa nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương. (2)
 
STALINE THIẾT LẬP ĐẾ QUỐC SÔ VIẾT:
Như vậy từ 1946 đến 1949 tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu. 
Trong khi đó tại Đông Âu Staline thiết lập Đế Quốc Sô Viết bằng cách thôn tính 3 nước Baltic là Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau đó Liên Xô dựng “Bức Màn Sắt” tại 7 nước Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, và Roumanie. Từ đó, chiến tranh lạnh hay chiến tranh ý thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. 
Các nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ như Truman, Churchill và De Gaulle nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông Á.
Riêng tại Việt Nam, De Gaulle cũng nhất quyết không trao Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh vì Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Staline tại Đông Dương.
Cũng vì vậy hồi tháng 12-1945 De Gaulle đã mời Cựu Hoàng Duy Tân từ đảo Réunion tới Paris thương nghị.  
Nhiều tài liệu lịch sử cho biết De Gaulle đã chấp thuận trên nguyên tắc để Duy Tân về nước đầu năm l946. Trước đó, hai bên sẽ ký một hiệp ước công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Chính Phủ Việt Nam sẽ được toàn quyền quản trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên vì lúc này Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp còn phải ở lại Việt Nam một thời gian với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp để yểm trợ Việt Nam giải quyết các vấn đề an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm). Theo quy chế Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Do đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo vệ biên cương của Việt Nam, đồng thời là biên cương của Liên Hiệp Pháp. 
Rất tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân đã tử nạn máy bay trên sa mạc Trung Phi trên đường từ Paris về đảo Reunion thăm nhà. Nhiều người cho đây là vụ phá hoại. Nguyên nhân phi cơ phát hỏa là vì "hết xăng". Đây là một nguyên nhân hy hữu vì không một phi hành đoàn nào chịu cất cánh nếu máy bay không chứa đủ săng nhớt. 
Việc Duy Tân mất đi là một đại bất hạnh cho Việt Nam cũng như cho Pháp. Vì nếu đầu năm l946 Duy Tân về nước lập chính phủ quốc gia giành tự trị, độc lập và thống nhất cho Việt Nam thì chiến tranh Việt Pháp sẽ có cơ tránh được. Hồ Chí Minh sẽ không còn được độc quyền yêu nước và có lẽ chẳng còn ai muốn gia nhập Đảng Cộng Sản nữa (năm 1945 Đảng Cộng Sản chỉ có 5 ngàn đảng viên).  
Lúc này Đảng Cộng Sản Pháp đã thông báo cho Staline và Hồ Chí Minh biết De Gaulle đã có giải pháp quốc gia về Việt Nam. Cũng vì vậy, ngày 11- 11-1945, Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Rồi thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia với sự tham gia của Cách Mạng Đồng Minh Hội (với Nguyễn Hải Thần) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam) để làm bình phong thương nghị với Pháp. 
Ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, nhân danh chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và chấp thuận mọi điều khỏan mà De Gaulle đã thỏa thuận với Duy Tân: Việt Nam là một nước tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn trú tại Bắc Kỳ trong thời hạn 5 năm.  
Sau đó ngày 14-9-l946 tại Paris, Hồ Chí Minh đã đến nhà riêng của Moutet để xin ký Thỏa Ước Tạm Thời (Marius Moutet là đồng chí cũ trước khi Hồ Chí Minh bỏ đảng Xã Hội để gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp).  
Tuy nhiên mặc dầu lúc này De Gaulle đã từ nhiệm, các nhà lãnh đạo Thế Giới Dân Chủ vẫn nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương.  
Theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động chiến tranh võ trang ngày 19-12-1946. 
 
Bằng hành động gây chiến này Hồ Chí Minh đã vi phạm Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và Thỏa Ước Tạm Thời Moutet. 
Do đó, 3 tháng sau, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các Chính Đảng Pháp công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam, theo đó Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất. 
Ngoài ra, cũng trong năm 1947 tại Liên Hiệp Quốc, Pháp đã chính thức đăng ký 3 nước Đông Dương (Việt Miên Lào) là những quốc gia độc lập. 
Như vậy từ năm 1947 Pháp đã quyết định trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam và đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Sở dĩ Việt Nam không được gia nhập Liên Hiệp Quốc vì gặp sự phản kháng của Liên Xô hành sử quyền phủ quyết.)  
Năm 1947, nếu Hồ Chí Minh là người yêu nước, nếu Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, thì ông ta đã phải ngưng chiến cho phe quốc gia có điều kiện hòa đàm và ký kết với Pháp một hiệp ước để giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam.  
Tuy nhiên Hồ Chí Minh không phải là người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà ái quốc nên ông ta vẫn tiếp tục đẩy tới chiến tranh võ trang để phá vỡ mọi giải pháp độc lập quốc gia. 
Mặc dầu vậy các Chính Phủ Pháp kế tiếp vẫn trung thành với Quyết Nghị của các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp năm 1947. 
Tháng 12, 1947, Cao Ủy Bollaert ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Hiệp Ước Sơ Bộ này được chính thức hóa bởi Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long tháng 6,1948 ký kết giữa Cao Ủy Bollaert và Chính Phủ Quốc Gia Lâm Thời, với sự bối thự của Quốc Trưởng Bảo Đại. Theo Hiệp Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết.  
Và tại Điện Elysée (Paris) Tổng Thống Vincent Auriol, nhân danh Tổng Thống Cộng Hòa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949 Công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. 
Do Quyết Nghị ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất.  
Ngày 6-6-1949, theo thủ tục khẩn cấp, Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée về khoản giao hoàn Nam Kỳ cho Quốc Gia Việt Nam. Ngày 2-2-1950 Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée với 12 Phụ Ước và 30 Đính Ước bổ túc. Cũng trong tháng này Hoa Kỳ, Anh Quốc và Thái Lan chính thức thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do Chính Phủ Bảo Đại đại diện. 
 Chúng ta không nên có thành kiến cho rằng gia nhập Liên Hiệp Pháp là vi phạm chủ quyền quốc gia. Vì các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan v.v... cũng là những quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Anh. 
Về mặt an ninh quốc phòng, nếu năm 1949 Việt Nam không gia nhập Liên Hiệp Pháp thì quân đội viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam (như tại Syrie và Liban năm 1946). Và chỉ trong một vài tuần lễ (như tại Nam Hàn năm 1950), phe Quốc Tế Cộng Sản sẽ nhuộm đỏ toàn thể bán đảo Đông Dương. 
Khách quan mà xét, năm 1949 độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Chúng ta có thể sử dụng các chuyên viên Pháp là những người am hiểu phong tục tập quán, biết rõ dân tình nước ta, lại có những kinh nghiệm về khai thác nông lâm súc, công kỹ nghệ thương mãi, xây cất cầu cống, đường sá, sông ngòi, hải cảng, cồn đảo... Ngoài ra họ còn có thể cố vấn chúng ta để xây dựng môt nền giáo dục phổ thông, một nền hành chánh hiện đại và một nền tư pháp độc lập để tiến tới tam quyền phân lập và dân chủ pháp trị. 
Về mặt phát triển chúng ta có sẵn thị trường Liên Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng hóa và các nông, lâm, khoáng sản... Do đó, năm 1949, độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam.
Nhưng rồi Đảng Cộng Sản đã đưa dân tộc ta vào con đường chông gai chết chóc trong suốt 40 năm (từ 1949 đến 1989). 
Đại hạnh của Ấn Độ là có Gandhi theo Chủ Nghĩa Dân Tộc. 
Đại bất hạnh của Việt Nam là có Hồ Chí Minh theo Chủ Nghĩa Cộng Sản 
 
HIỆP ĐỊNH ĐÌNH CHIẾN GENÈVE VÀ HIÊP ĐỊNH HÒA BÌNH PARIS:
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Genève ngày 20-7-1954 (Geneva Armistice Agreement) giống Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-l953 tại Triều Tiên (Panmunjom Armistice Agreement). 
Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần túy quân sự có tác dụng “đình chiến và ấn định một giới tuyến quân sự tạm thời”. Tại vùng giới tuyến thuộc quyền kiểm soát của quân đội bên nào thì chính quyền bên ấy phụ trách việc quản trị hành chánh. 
Vì là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Genève chỉ mang chữ ký của 2 tướng lãnh: Đại diện Quân Đội Bắc Việt là Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu (là người đã ký cả 3 Hiệp Định Geneve với tư cách đại diện cho cả Kmer Đỏ và Pathet Lào). Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương do Thiếu Tướng Henri Delteil đại diện.
Vì không tham chiến ở Việt Nam nên Hoa Kỳ không ký vào Hiệp Định Genève.
Quốc gia Việt Nam cũng không ký. Chiếu Hiệp Định Elysée 1949, Việt Nam là một hội viên liên kết của Liên Hiệp Pháp. Khi có chiến tranh, quân đội Việt Nam và quân đội Pháp sẽ cùng chiến đấu dưới danh nghĩa quân đội Liên Hiệp Pháp. Một Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp được thành lập với một tướng lãnh Pháp làm tư lệnh hành quân và một tướng lãnh Việt Nam làm tham mưu trưởng. Vì Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần tuý quân sự, nên về phía Liên Hiệp Pháp chỉ cần có chữ ký của vị tư lệnh hành quân Henri Delteil là đủ. 
Ngày hôm sau, 21-7-1954, một Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng khuyến cáo hai miền Nam Bắc tổ chức tổng tuyển cử năm l956. Tuy nhiên tuyên ngôn không phải là hiệp ước. Vì đây chỉ là bản Tuyên Ngôn Ý Định (declaration d’intention) không mang chữ ký của bất cứ phái đoàn nào (kể cả Bắc Việt) nên không có giá trị pháp lý (Cũng như các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bảo Đại ngày 11-3-1945, của Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945 và của Sukarno ngày 17-8-1945). 
Vả lại cũng trong ngày 21-7-1954, Ngoại Trưởng Quốc GiaViệt Nam Trần Văn Đỗ và Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ Bedell Smith đã ra tuyên cáo minh thị phản kháng sự áp đặt các giải pháp chính trị trong một hiệp ước quân sự, mà không có sự thỏa thuận của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.  
Hiệp Định Đình Chiến Genève, theo danh xưng, chỉ là một bản hiệp ước thuần tuý quân sự để định ranh giới ngưng bắn theo một giới tuyến (vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên, vĩ tuyến 17 tại Việt Nam). Nó không áp đặt những giải pháp chính trị. Vấn đề thống nhất Nam Bắc là một vấn đề chính trị thuộc quyền dân tộc tự quyết sẽ do hai quốc gia ấn định sau này (như trường hợp Triều Tiên: sau hơn 60 năm vẫn chưa có giải pháp chính trị). Do đó Việt Nam Cộng Hoà không vi phạm Hiệp Định Genève khi khước từ tổng tuyển cử năm 1956.  
Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 (Paris Peace Agreement) trái lại, là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị. Trước hết về mặt nghi thức nó mang chữ ký của các đại biểu các quốc gia hay chính phủ kết ước: 
Trần Văn Lắm, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa 
Williams Roger, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ 
Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Nguyễn Thị Bình, Ngoại Trưởng Chính Phủ Lâm Thời “Nước” Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. 
Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris quy định rằng: “Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam đồng thỏa thuận” [theo nguyên tắc nhất trí] 
 Vậy mà hai năm sau, năm 1975, khi chữ ký của họ còn chưa ráo mực, Bắc Việt phát động chiến tranh võ trang để thôn tính Miền Nam. Hội trường đã nhường chỗ cho chiến trường, thương nghị thỏa thuận đã bị bạo lực cưỡng chế, và phương pháp hòa bình đã bị chiến tranh võ trang xoá bỏ.
 Đây là một vi phạm thô bạo Hiệp Định Hòa Bình Paris.  
Luật pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bởi luật rừng xanh.
 
KẾT LUẬN:
Nói tóm lại: 
1) Phủ nhận chủ nghĩa dân tộc, Đảng Cộng Sản đã phạm sai lầm chiến lược khi theo Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh bạo động võ trang khiến dân tộc ta phải hy sinh xương máu ròng rã 40 năm. 
2) Đảng Cộng Sản không có công giành độc lập năm 1954 vì Việt Nam đã được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée.  
3) Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước năm 1975 vì Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất. 
4) Trên bình diện dân tộc 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lý và vô nghĩa. 
5) Vì vậy Đảng Cộng Sản không có tư cách và không có tính chính thống để độc quyền lãnh đạo quốc gia. Và chế độ CS phải được giải thể để người dân được quyền mưu cầu hạnh phúc trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân quyền và nhân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xã hội được thực thi. 
 
Ls. Nguyễn Hữu Thống.

Ðúng Là Gian Ác


Tại Việt Nam, thông thường vào những dịp lễ Tết, các phương tiện truyền thông độc quyền của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã ngày đêm cho phát bài “Đảng cho ta một mùa xuân” của Phạm Tuyên. Người ta thấy có hai điều nghịch lý:
Nghịch lý thứ nhất là những lời lẽ ca tụng đảng CSVN hòan tòan trái ngược với những gì đã và đang xảy ra trên thực tế, kể từ khi đảng này cướp được chính quyền, trên một nửa nước Miền Bắc (1954-1975 ) và trên cả nước kể từ sau ngày 30-4-1975. Đây là nguyên văn một vài lời ca ấy, chỉ cần nghe qua thôi, người dân Việt Nam bình thường cũng thấy ngay sự láo khóet trơ trẽn, khiến những người nghe nhạy cảm có thể buồn nôn hay những nạn nhân của Cộng đảng có thể phẫn nộ không ngăn được tiếng chửi bình dân: “…đúng là cộng sản gian ác, ăn gian nói dối”.
Lời ca rằng “Đảng đã cho ta một Mùa xuân đầy ước vọng, một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi…”; rằng “ Bao năm khổ đau đất nước ta không có mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vừng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng, bóng tối lui dần, tiếng chim vui hót vang…”.
Lời ca này phải được viết lại như sau mới đúng với lịch sử và thực tế: “Đảng đã đã không cho mà đã cướp mất, không chỉ một, mà tất cả những mùa xuân đầy ước vọng của mỗi người dân Việt Nam và mùa xuân của cả dân tộc. Bao năm khổ đau đất nước ta không có Mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm” kể từ khi có Đảng. Vừng dương chỉ hé sáng khi khắp nơi nơi không còn có Đảng, và bóng tối sẽ lui dần, tiếng chim sẽ vui hót vang lừng …khi Đảng tiêu vong.

Điều nghịch lý thứ hai là, Phạm Tuyên, tác giả bài hát có những lời ca ngợi đảng CSVN như thế lại là con của học giả Phạm Quỳnh, người đã bị Việt Minh sát hại vào tháng 9 năm 1945, vì cái gọi là “tội phản động”. Chúng ta hãy nghe báo Tự Do Ngôn Luận số 93 phát hành ngòai luồng trong nước trước đây nhận định: “Đây là một trong những bài hát lố bịch, trơ trẽn nhất của Cộng sản Hà Nội, được sáng tác năm 1960 bởi một nhạc sĩ bồi bút hạ đẳng (hay thượng đẳng cũng vậy), kẻ đã viết rất nhiều ca khúc nâng bi chế độ bằng chính máu của thân phụ mình, học giả Phạm Quỳnh (bị Hồ Chí Minh ra lệnh xử tử ngày 6-9-1945) và bằng chính máu của các bạn nghệ sĩ nạn nhân vụ Nhân văn Giai phẩm”. Báo này viết tiếp “…đểu giả, lố bịch và trơ trẽn, vì bài hát ca tụng đảng như Thượng Đế, như Ông Trời, đang lúc kể từ khi nó xuất hiện trên đất nước cho tới nay, thực tế đã hoàn toàn trái ngược. Sự kiện chứng minh thì vô số vô vàn. Quê hương của con Hồng cháu Lạc, từ ngày bị ác đảng đó thống trị, chỉ trông thấy mùa đông tang thương u ám, chỉ nhìn thấy sự suy thoái cằn cỗi tụt hậu, chỉ nghe thấy tiếng thở than chán đời, chỉ cảm thấy nỗi cay đắng tủi nhục, chỉ nếm thấy sự giả trá thù hận và chỉ mộng thấy một chân trời u ám, một tương lai tối đen…Suốt trên 60 năm nay, toàn dân rên siết dưới tay toàn đảng, qua toàn bộ chủ trương đường lối nhắm mục tiêu toàn trị bằng khủng bố và cướp bóc, bằng lừa gạt và bạo hành”.

Vậy thì một giả định lịch sử, là nếu không có đảng CSVN ra đời vào ngày 3-2-1930, Việt Nam sẽ ra sao? Câu trả lời chung của nhiều người Quốc gia cũng như cộng sản phản tỉnh là:
1/- Nếu không có đảng CS thì cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của các chính đảng quốc gia và các nhà ái quốc theo ý thức hệ Quốc gia đã gìành được độc lập vào Tháng 8 năm 1945, sau khi Nhật dầu hàng đồng minh, trao trả độc lập cho chính quyền quốc gia Trần Trọng Kim.
2/- Nếu không có đảng CS thì đã không có cuộc kháng chiến 9 năm vô ích do đảng này và Hồ Chí Minh phát động,làm hao tổn quá nhiều xương máu nhân dân và nhân tài vật lực quốc gia do chủ trương tiêu diệt “phản động” và “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh Cộng sản.
3/- Nếu không có đảng CS thì Việt Nam đã không rơi vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ, với số phận không may: Đất nước qua phân, chiến tranh cốt nhục tương tàn kéo dài 21 năm (1954-1975), sát hại nhiều người Việt Nam trên cả hai miền đất nước, làm phân hóa và suy yếu dân tộc
4/- Sau cùng, nếu không có đảng CS,Việt Nam đã là một nước có chế độ dân chủ pháp trị từ lâu, như hầu hết các nước thuộc địa khác cùng thời, đã được các đế quốc thực dân Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha trao trả độc lập sau Thế Chiến Thứ Hai. Vì đây là xu thế giải thực tất yếu của thời đại hậu Thế Chiến II.
Đến đây thì ai cũng thấy đảng CSVN đã chẳng có công mà chỉ có tội với nhân nhân, với dân tộc và đất nước. Sự ra đời của Cộng đảng Việt Nam thực tế không phải là cái phúc, chẳng phải là “cứu tinh” như họ từng rêu rao láo khóet, mà là một tai họa “vô tiền khóang hậu”, đã để lại hậu quả nghiêm trọng, toàn diện cho Tổ Quốc Việt Nam, di hại cho các thế hệ người Việt Nam hiện tại cũng như nhiều thế hệ tương lai.

Thiện Ý.

Tác giả: Thiện Ý nguyên luật sư tại Sài Gòn trước 1975, hiện là Chủ tịch Câu Lạc bộ Luật khoa Việt Nam ở Houston.

Đủ Kiểu Cho Thuê Ngày Tết


Trong dịp Tết vừa qua bạn đọc đã “bội thực” vì đã có quá nhiều chuyện, nhiều cảnh về Tết nhất ở VN cũng như ở nước ngoài. Bây giờ quý vị ở đâu cũng có thể xem toàn cảnh Tết ở VN qua “thế giới phẳng”. Nhiều vị còn “rành” hơn tôi vì chịu khó xem phong cảnh quê nhà, còn tôi tuy ở giữa Sài Gòn nhưng cho tới hôm nay chưa hề bước chân ra đến đường hoa “xem nó mần răng”. Bởi cứ nói đến “đường hoa” tôi chỉ nhớ đến Đường Hoa Nguyễn Huệ. Bây giờ nó “chạy loạn” về đường Hàm Nghi với tên gọi Đường hoa Tết Ất Mùi 2015, tôi không còn thích thú nữa.

Những năm trước tôi đến đường hoa Nguyễn Huệ không chỉ đề xem hoa mà từ trong thâm tâm là đi tìm lại kỷ niệm cũ ở chốn này với “những người muôn năm cũ”. Ngay từ ngày mới biết yêu, tôi đã lén lút hẹn cô “nhân tình bé” của tôi ngày 29 Tết gặp nhau ở đường hoa, nàng đi với các anh các chị còn tôi solo đón nàng. Khi đó hai đứa còn giấu gia đình, chưa ai biết chuyện tình mới toanh của chúng tôi, gặp chỉ để nhìn nhau một tí cho đỡ nhớ chứ chưa biết “nháy nháy” như các đàn anh đàn chị. Cái giây phút ấy mới thấy đúng là mùa xuân đi giữa đường hoa Sài Gòn. Làm sao quên!

Rồi đến khi yêu nhau, nắm tay nhau dung dăng dung dẻ giữa đường hoa, ngửi mùi mái tóc nàng lẫn trong hương thơm các loài hoa cộng lại. Ôi trời, hạnh phúc chỉ giản dị có thế thôi mà đến bây giờ còn phảng phất đâu đây. Khi có con cái cũng dắt nhau ra đường hoa ngày Tết, nhìn mồ hôi ướt lưng áo lũ nhóc, bèn kéo nhau vào tiệm kem bên đường Nguyễn Huệ làm một ly, sao kem lúc đó ngon thế. Bây giờ còn thấy ngon.

Tôi kể thế chắc nhiều vị độc giả đứng tuổi đã từng sống ở Sài Gòn, cũng có cái “màn” tình tứ kiểu này hoặc khác một tí thôi.

Nhưng năm nay đến đường hoa lạ hoắc để làm gì, chỉ gợi nhớ thêm hình xưa bóng cũ càng buồn. Nhìn hình ảnh qua các báo, chỉ thấy “mấy chú dê nở hoa” và nhất là vừa nghe tin đường hoa vừa mở cửa đã bị dẫm nát tơi bời, như thế thì văn hóa cũng đội nón ra đi. Chính vì lý do đó, tôi không “lết” ra  đường hoa. Tôi cũng đã quá quen khi nói đến đường hoa là phải gắn liền với Nguyễn Huệ. Nghe cái tên “đường hoa Hàm Nghi” cứ như có ai đó gọi nhầm tên người yêu của mình vậy. Thà ngồi nhà gõ máy kể chuyện với bạn đọc còn thú hơn. Ngày Tết “kiêng” nói chuyện buồn, chuyện tức mình, tôi kể vài chuyện vui vui, có lẽ chỉ có ở VN. Có vị về VN đã biết nhưng cũng có nhiều vị chưa biết loại chuyện này.

Muốn thuê gì cũng có:

Chỉ có thời đại này mới phát sinh ra nhiều kiểu kiếm tiền không cần xấu hổ. Bởi ảnh hưởng từ gia đình đến trường học cùng với đời sống xã hội đã tạo nên tâm lý đi học để kiếm tiền, để làm quan, để làm giầu. Cứ anh chị nào có tiền là dân sang cho nên những người ít tiền phải làm đủ cách để kiếm tiền. Khái niệm về đạo đức đã không có chỗ ngay từ thuở ấu thơ. Thay vào đó là “tiên học tiền, hậu học chảnh”. Cứ cái gì có tiền là lao vào làm, cái gì không có thì thuê. 

Vậy thì những “lò cho thuê người” ra đời công khai trên các trang web chẳng có gì lạ. Nó có muôn hình vạn trạng và…. “cam đoan đó là nơi tử tế” (sic!) chứ không phải những động mãi dâm. Tôi không nói đến những dịch vụ đàng hoàng như cho thuê người làm Tết, trông nhà Tết hoặc những nơi chính thức cần người làm thêm. Ở đây, tôi chỉ bàn đến những dịch vụ “lập lờ”, hiểu thế nào cũng được.

Bạn muốn thuê người yêu đi chơi Tết, đi chơi Trung Thu hay bất kỳ lễ lạc nào cũng được, hoặc vờ làm vợ hay chồng chưa cưới để che mắt bố mẹ họ hàng cũng có ngay. Nhưng dịch vụ mà chính tôi cũng “ngọng”, chưa biết tới, đó là cho thuê chồng.

Ai cần thuê chồng ?:

Thời nay nhiều phụ nữ trên 30 tuổi vẫn chưa chịu lấy chồng vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là giàu có, kén chọn mãi chẳng được anh nào vừa ý, hoặc chôn sâu một mối tình trong lòng nhưng chẳng bao giờ dám thổ lộ ra hoặc vỡ mộng vì một anh tưởng là quý phái hóa ra chỉ là du côn nên từ đó cạch mặt mấy anh mon men đến tán tỉnh.
Có bà đã từng ly dị và chán cảnh chồng con phiền toái hành hạ. Có bà đã ngoài 40 mà vẫn lẻ bóng. Ở cái tuổi này, người ta vẫn gọi là “cao không tới, thấp không thông”, cái gì cũng chông chênh, lỡ cỡ. Bởi thế mà bà rất khó tìm được ý trung nhân, dù bà cũng chẳng phải người khó tính hay kén chọn gì. Đôi lúc soi gương thấy mình “hơi bị luống tuổi” và vẫn muốn độc thân cho rảnh nợ đời. 

Nhưng những ngày Tết, lòng xuân phơi phới, thấy người ta dập dìu bên nhau bèn động lòng trắc ẩn, lại sợ mang tiếng mình “ế”, có khi bị gia đình thúc ép nên nẩy sinh nhu cầu muốn có người đi chơi Tết, giải quyết việc hãnh diện với họ hàng, nhiều phụ nữ đã tìm đến dịch vụ thuê chồng.

Có cầu ắt có cung nên ngay tại TP. Sài Gòn và Hà Nội có công ty SPN môi giới thuê chồng, với lời mời chào khá hấp dẫn: "Bạn mệt mỏi vì chồng phó mặc toàn bộ việc nhà?. Bạn là người phụ nữ độc thân, góa hay đã ly dị chồng nên không thể tự làm một số công việc?. Đừng lo! Vì đã có dịch vụ cho thuê chồng của công ty TNHH một thành viên TM- DV- ĐT SPN. Bạn muốn thuê chồng kiểu nào cũng có ngay.

Ngoài ra, mấy chị em cùng cảnh ngộ lần mò tìm trên một số website cũng được cung cấp một vài địa chỉ như: Caphe.vn..., henantrua.net... Trên trang chủ của một website hẹn hò, có chế độ "mở" để tạo những mối quan hệ mới, có rất nhiều cuộc hẹn được thiết lập, để tìm người đi chơi Giáng sinh, chơi Tết, hay thậm chí chỉ là một cuộc hẹn đi cà phê cuối tuần.

Mối quan hệ có đứng đắn thật không ?:

Lên mạng tìm bạn trai, tìm thuê chồng là một giải pháp hữu hiệu mà nhiều phụ nữ lựa chọn. Gần đây, những lời “chào hàng” mùi mẫn xuất hiện nhan nhản trên mạng, bởi thế, chẳng khó khăn gì cho các chị vào cuộc kiếm chồng...

Người "chồng" đó sẽ giúp bạn làm các công việc như: Sửa chữa đèn chiếu sáng, làm lại mái tôn, sửa đường ống nước, làm mộc... Thậm chí, hộ tống bạn đến những bữa tiệc hoặc dạ hội sang trọng, đi cùng để chọn và xách đồ khi bạn đi shopping, cùng đi uống cà phê, xem phim, trò chuyện và chia sẻ với bạn niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống... Nhưng tuyệt đối không có vấn đề về sex".

Kèm bên cạnh mẩu rao vặt ấy là đầy đủ địa chỉ và số điện thoại cung cấp dịch vụ cho thuê chồng. Và những dịch vụ này mọc lên, ắt hẳn sẽ có người cần đến nó, bởi "cung" thường đi kèm với "cầu"... Nhưng còn những “phát sinh” khác trong hợp đồng cho thuê lại là chuyện khó nói.

Bà chủ hãng cho thuê chồng là ai:

Trên báo Dân Trí, phóng viên báo này đã trực tiếp gặp được bà chủ “hãng cho thuê chồng”. Nữ phóng viên này tiết lộ cuộc gặp đó khá dễ dàng như sau:
“Tiếp tôi tại một quán cà phê sang trọng trên đường Phan Xích Long (quận Phú Nhuận, TP Sài Gòn) là Giám đốc Công ty TNHH SPN (có trụ sở ở quận 2) - bà P.T.T, là một phụ nữ có dáng quê mùa và chuyện trò cởi mở.

Tôi mở lời: 
- “Em có một con, chồng ly dị, em muốn thuê một ông chồng nào đó  về hàn huyên tâm sự cho đỡ buồn!”
- Bà T. vồ vập: “Chồng thì lúc nào cũng có, vấn đề là tiêu chuẩn ông chồng của em đưa ra thế nào?”
- “Thì chững chạc, có trình độ một chút”, tôi nói.
- “Ôi, thiếu gì em! Đến với chị thì ok hết!”.
Và, rất nhanh gọn, bà T ra giá: “100 ngàn đồng một giờ!”. Thấy tôi có vẻ băn khoăn “chuyện kia”, bà T vội vàng cam kết: “Không có sex đâu! Công ty đã có hợp đồng về chuyện này rồi!”.  

Ban đầu, yêu cầu “thuê chồng đi du lịch” của tôi bị từ chối thẳng thừng, vì bà T có phần đề phòng. Tuy nhiên khi câu chuyện đôi bên đã có phần cởi mở, bà T cho biết nếu thuê chồng đi du lịch thì phải có thoả thuận khác. Thoả thuận ấy chỉ xoay quanh vấn đề giá cả: 500 ngàn đồng/ngày, 2,5 triệu đồng/tuần. Thuê trọn tháng thì giá lại khác.

Đồng ý với nhau giá cả  xong, bà T đưa một loạt danh sách dài dằng dặc những người sẵn sàng làm lang quân hờ cho tôi.
Sau một hồi kén chọn, tôi quyết định chấm cho mình ông chồng làm bác sĩ (theo quảng cáo của bà T), tuổi đã tứ tuần.
Tôi hỏi nhà môi giới: “Anh này thì em ưng lắm, nhưng lỡ người yêu hay vợ ổng đánh ghen, tạt axít em thì sao?”.
Bà T cười trấn an: “Ông này đang độc thân! Yên tâm đi em ơi!”.

Buổi hẹn đầu tiên:

 Sau buổi gặp mặt với tôi, qua thư điện tử bà T gửi cho tôi “lý  lịch trích ngang” của hai “ông chồng” để  tôi lựa chọn. “Ông chồng” đầu tiên tên H.H được bà T giới thiệu là bác sĩ đang công tác tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Tôi xin gặp mặt nhưng bị khước từ với lý do ông này đang đi công tác. Xác minh tại Bệnh viện Chợ Rẫy, bác sĩ Đặng Vạn Phước - Phó Giám đốc Bệnh viện - khẳng định với tôi bệnh viện không có ai là bác sĩ H.H cả.

 “Ông chồng” thứ 2 có tên là Đ.N.T, theo lời bà T là Giám đốc kinh doanh cho Công ty mực in T.P. Tôi quyết định chọn ông này. Chỉ  một cú điện thoại, chẳng phải chờ đợi lâu, tôi đã được gặp “đức lang quân” của mình. Chúng tôi hẹn gặp nhau tại một quán cà phê trên đường Phan Xích Long.
Đúng hẹn, tôi đến quán cà phê đã thấy “chồng” ngồi đợi sẵn. Đó là một người đàn ông hơi mập, lùn và có giọng nói lý nhí rất khó nghe. Tôi hỏi là giám đốc sao có thời gian làm “chồng” thuê? Ông này nói: “Thì... kiếm thêm chút đỉnh!”.
Chuyện thuê chồng lan man một hồi đến “đoạn Z”.
Tôi hỏi thẳng: Nếu phục vụ “đến bến” thì phải trả thêm bao nhiêu so với hợp đồng cũ. Ông này úp mở rằng giá thì chưa rõ, do công ty quyết định. Nhưng trong “phi vụ” này, anh ta chỉ được hưởng từ 30 đến 50% hoa hồng. Ông chồng sắp thuê gợi ý sau này nếu tôi cần T “làm chồng” nữa thì cứ liên hệ trực tiếp với ông ta, ông sẽ chỉ thu của tôi bằng một nửa so với bà T.

Bà P.T.T.T - Giám đốc Công ty SPN - thừa nhận là Công ty mình có dịch vụ cho thuê “chồng”. Bà T cho rằng có cử người đi gặp khách hàng đang tìm hiểu dịch vụ của công ty mình, còn chuyện đi khách sạn là do hai người này...  tự thỏa thuận với nhau, họ phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật!

Câu chuyện đi thuê chồng giản dị như thế. Còn “chuyện kia” có hay không là do đôi bên thỏa thuận. Người đàn ông làm nghề cho thuê thường giấu nhẹm nghề nghiệp của mình. Đó cũng là chuyện thường tình. Chỉ khi nào thân mật lắm mới biết tường tận cuộc sống của nhau. Người cho thuê và người đi thuê đều thế cả.

Hai cuộc tìm chồng “kiểu mẫu” theo lời kể của người đi thuê:

Hồng Anh - 28 tuổi, công ty truyền thông Bách Nhật (Hà Nội) cho biết: "Cứ hai tuần một lần, mẹ tôi gọi điện thoại hỏi xem "có gì mới chưa". Ở quê, bằng tuổi tôi là các bạn đã có con bồng, con bế. Nhân dịp, mẹ ra ăn cưới, tôi mới nghĩ ra kế, thuê chồng... hờ để khỏi bị mẹ nhắc nhở. Tôi liền vào trang web: Henhotrua... làm quen với một người 30 tuổi, làm ở một công ty X, sau hai lần cà phê, người này đồng ý làm "chồng hờ" của tôi.

Anh ấy kể, trước tôi, anh ấy đã làm chồng hờ cho một vài người nên khá quen với kiểu này. Giản dị chỉ là làm chồng "giả vờ" thôi, sau khi "diễn" khá đạt, tôi phải “bồi dưỡng” cho anh ta 500.000 đồng. Mẹ tôi có vẻ yên tâm, vì đã được nhìn thấy "con rể tương lai", từ đó không điện thoại giục tôi nữa. Còn tôi, thì có thời gian tìm hiểu mối quan hệ khác một cách nghiêm túc để tiến tới hôn nhân".

Ngoài tìm chồng hờ để cha mẹ yên lòng, nhiều quý cô tìm đến dịch vụ này để tìm sự chia sẻ, tìm bạn tâm giao. Chị Hoàng Anh (khu đô thị Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội) cho biết: "Nhiều người quan niệm rằng, các mối quan hệ trên mạng đều là ảo và không đáng tin cậy, nhưng với tôi, nó không hẳn như vậy. Tôi đã tìm được một người chồng hờ tốt bụng, giờ trở thành người bạn thân của tôi.
Khi nào có chuyện buồn, tôi hay tâm sự với anh ấy, nhà có đồ điện hỏng, đường ống nước bị tắc, tôi cũng nhờ anh ấy đến sửa chữa. Tôi và anh ấy đều đã ly dị, cùng quen nhau trên mạng. Tôi thích một người cao to, lãng mạn nhưng anh ấy thì hơi nhỏ con, lại khô khan nên không thể yêu nhau. Chúng tôi chỉ dừng lại ở mức chia sẻ tình cảm bạn bè. Có việc cần thiết, chúng tôi nhờ nhau và cảm thấy thoải mái với mối quen hệ này...".

Tuy nhiên đó là theo lời “trần tình” của người đi thuê. Còn chuyện riêng tư bí mật chỉ có 2 người biết và thỏa thuận ngầm với nhau chỉ có trời biết. Bà chủ “hãng cho thuê” cũng đành chịu thua.

Coi chừng rơi vào bẫy:

Tuy nhiên ngoài những cuộc hẹn công khai và “nghiêm túc”, nhiều phụ nữ cũng gặp chuyện rủi ro khi tham gia vào việc... tìm chồng trên mạng. 

Hấu hết những người đàn ông đi làm "nghề" cho phụ nữ thuê làm chồng trên các diễn đàn hoặc web hẹn hò đều là công nhân hoặc người thất nghiệp, một số ít là sinh viên đang cần việc. Từ việc đóng vai "chồng tốt mã", có ông "chồng hờ" bất lương thực hiện từng bước chiêu lừa tiền, ép tình với những phụ nữ có danh phận, địa vị. Một phụ nữ tên Hoa (ở Ba Đình, Hà Nội, làm viên chức ở công ty xây dựng) bị chồng bỏ theo bồ nhí, cần "chồng hờ" để về quê "che mắt" họ hàng. 

Anh "chồng hờ" này đã đóng trọn vẹn vai trò của mình cứu với giá khá cao. Thế nhưng, sau đó, anh "chồng hờ" này trở mặt, liên tục đòi thêm tiền và doạ, nếu chị Hoa không chi, sẽ về tận quê loan tin cho họ hàng biết sự thật để gia đình chị xấu hổ. 

Trường hợp khác, có người thuê chồng nhưng lại bị vợ của "chồng hờ" cho người đến đánh ghen vì nghi "tòm tem" với chồng mình. Trường hợp khác, một góa phụ 40 tuổi giàu có, bị bà vợ của "chồng thuê” tạt luôn chai axít vào người vì nghi bà quyến rũ chồng mình.

Ngoài ra còn thứ dịch vụ bất nhân hơn là cho thuê người đi ăn xin. Một anh “chủ lò” đứng ra thuê những ông bà già đói rách mới từ nhà quê ra, những đứa trẻ gầy ốm quặt quẹo rồi đưa đến địa điểm dễ xin tiền nhất để “hành nghề”. Sau đó đến nộp lại cho “ông chủ”. Cái cảnh này không hiếm ở các thành phố lớn.

Cho thuê chồng ở nhà quê:

Quả thật tôi rất bất ngờ khi đọc được câu chuyện này ở tận miền Lục Tỉnh.
Vợ chồng anh Tám T ở xã Mỹ Phong – thành phố Mỹ Tho – tỉnh Tiền Giang ăn ở với nhau đã có vài mặt con nhưng không chịu làm ăn nên cảnh nhà trở nên nheo nhóc.
Cư dân ở xã này có tiếng là chí thú làm ăn, bởi nơi đây nổi tiếng khắp cả nước với nghề trồng hoa tết và nghề sản xuất sợi hủ tíu, bún, bánh từ bột gạo.
Tám T. không chấp nhận cảnh quanh năm làm lụng đầu tắt mặt tối trên ruộng rẫy. Lưng dài, vai rộng, lại thêm cái mã ngoài trắng trẻo điển trai, Tám T. tối ngày rong chơi ca hát, đàn đúm nhậu nhẹt chơi bời cùng chúng bạn và…cua gái, chiều chiều thường ra quán cà phê tán dóc. Bất ngờ anh gặp được một người phụ nữ tên B rất thú vị. Tôi chỉ kể tóm tắt câu chuyện khá dài này.

Vài ngày sau cô B. thẳng thừng thừa nhận, ngay lúc nhìn thấy Tám T. cô đã bị hớp hồn nên đến làm quen, cô B. nói thẳng cho Tám T. biết, cô lớn hơn Tám T. 3 tuổi và muốn chung sống với T., bất chấp chuyện anh này đã có vợ con.

Điều kiện đưa ra hết sức giản dị: mỗi tuần Tám T. về nhà cô B. làm chồng 3 ngày, được toàn quyền sử dụng xe cộ đắt tiền và các vật dụng trong nhà như một “chủ nhân ông” thực sự. Đổi lại, cô B. sẽ lo lắng cho Tám T. chu toàn và trả tiền “công làm chồng” mỗi ngày một triệu đồng. Cô B. yêu cầu Tám T. về bàn bạc với vợ con để cùng chấp nhận “hợp đồng thuê chồng”, nếu đồng ý thì thực hiện ngay lập tức.

Tám T. đem chuyện cô B. về hỏi ý vợ, chẳng ngờ bà vợ nghe vậy không thèm nổi cơm tàm bành như bao phụ nữ khác mà cười tươi rói, gật đầu đồng ý cái rụp, lại còn ra điều kiện: tiền công làm chồng phải đem hết về đưa cho vợ, trách nhiệm lo cho Tám T. từ nay thuộc về cô B.
Vậy là chỉ sau một đêm, Tám T. từ anh nhà quê thất nghiệp, không đồng xu dính túi trở thành “giáo sư ngoại ngữ”, ba ngày trong một tuần mang giày da láng bóng, áo bỏ trong quần bảnh bao, đi xe gắn máy đời mới bóng lộn cặp kè bên bà “giáo sư ngoại ngữ” lớn hơn mình 3 tuổi.
Những ngày không làm chồng thì Tám T. về nhà vợ lớn nằm khểnh hoặc lăn lóc với đám bạn hữu bên bàn cà phê, sóng nhậu. Nếu cô B. có nhu cầu tăng thêm thời gian “thuê chồng” bất ngờ, vợ Tám T. sẵn sàng chấp nhận, nhưng những ngày như vậy thì…tiền công tăng gấp đôi theo kiểu “làm ngoài giờ”.

Chuyện Tám T. làm nghề “chồng thuê” xứ Mỹ Phong ai cũng dị nghị. Cười Tám T. một nhưng họ cười người vợ của anh “chồng thuê” tới mười. Mấy bà già trầu ở làng Mỹ Phong nói, xưa nay chưa thấy người đàn bà nào như vợ Tám T. Nhưng ai nói gì mặc họ, vợ Tám T. luôn tự hào là nhờ cho thuê chồng mà gia cảnh ngày càng khấm khá, mua sắm được nhiều tiện nghi sinh hoạt đắt tiền, lúc nào cũng có tiền rủng rỉnh trong túi để ăn xài, chưng diện… Chị ta “ngồi xổm” lên dư luận.

Vài chuyện tôi kể với bạn đọc đúng vào ngày Tết Nguyên Đán này cho vui thôi nhưng bạn cũng đã thấy được chuyện đạo đức luân lý ngay ở nông thôn đã suy đồi tới ngoài sức tưởng tượng của người Việt chúng ta. Làm thế nào chấn hưng đạo đức không phải chỉ vài năm mà làm được. Cái nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ sự băng hoại của toàn xã hội vài chục năm nay, cuộc sống đầy gian dối khiến con người đã quá quen với sự tranh đua khốc liệt bất cần đạo lý. Có lẽ cả thế kỷ sau mới có hy vọng phục hồi vết thương quá sâu nặng này.
Văn Quang.