Chim
 tu hú là loài chim không ấp trứng và cũng không nuôi con. Loài chim này
 chỉ đẻ trứng vào tổ chim khác. Ở Việt Nam tu hú thường đẻ vào tổ sáo 
sậu rồi mặc kệ cho sáo sậu ấp trứng nở và nuôi hộ con mình. Lý do đơn 
giản khiến tu hú không gửi trứng vào tổ loài chim khác mà chỉ làm khổ 
sáo sậu là vì tu hú rất giống sáo sậu, chỉ khác nhau ở tiếng hót (mà quả
 trứng thì không biết hót). Khi trứng nở thành chim con rồi lớn lên và 
biết hót thì lúc đó sáo sậu mới biết không phải là con mình. Thế nhưng 
khi đó thì mọi sự đã muộn.
Tu
 hú có tên tiếng Anh là Asian Koel, còn tên khoa học là Eudynamys 
scolopaceus, thuộc họ Cucu (Cuculidae) được tìm thấy ở Nam Á, Trung Hoa 
và Đông Nam Á. Từ "Koel" có gốc từ tiếng Hindi, còn gốc tiếng Phạn là 
"Kokila" (theo văn chương Phạn vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên 
loài chim này được gọi là Anya-Vapa có nghĩa là "lớn nhờ người khác 
nuôi"). Đặc điểm của loài tu hú là loài đẻ nhờ (không bao giờ làm tổ mà 
chỉ tìm các tổ chim khác để đẻ). Vì vậy chim tu hú non được các loài 
chim khác nuôi dẫn đến nhiều trường hợp chim con lớn gấp nhiều lần chim 
cha mẹ nuôi). 
Khi đẻ, tu hú chỉ đẻ một trứng duy nhất của nó trong tổ 
của nhiều loài chim khác nhau, kể cả tổ của các loài chim nhỏ. Thường 
con tu hú trống có nhiệm vụ bay vờn quanh tổ để thu hút sự chú ý của 
chim chủ nhà và cố tình dụ cho chim chủ nhà bay ra khỏi tổ đuổi mình (để
 bảo vệ trứng) nhằm đánh lạc hướng cho tu hú mái có cơ hội đẻ một quả 
trứng của mình vào tổ. Một nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy sau khi chim 
chủ của tổ chim đẻ trứng đầu tiên được một ngày rưỡi thì tu hú tìm cách 
đẻ trứng vào đó. Trứng tu hú thường nở trước 2, 3 ngày so với trứng của 
chim chủ nhà nhưng để bảo đảm trứng của mình được chăm sóc, tu hú mái ác
 độc thường ăn trứng hoặc làm hư hại trứng của chim chủ nhà rồi mới đẻ 
trứng của mình vào. Chim tu hú Á châu là loài ăn tạp, chúng ăn tất cả 
các loại côn trùng, sâu bướm, trứng và các động vật có xương sống nhỏ 
cũng như ăn cả trái cây.
Đó là nói chuyện chim. Chuyện Việt Nam cho tới bây giờ vẫn lắm điều chẳng khác gì chuyện tu hú.
Năm
 1954, hiệp định Geneve ra đời. Nhiều thanh niên trong hàng ngũ kháng 
chiến chống Pháp (không ngờ cuộc kháng chiến đó của họ đã bị CS lợi 
dụng) theo lệnh trên, đã cưới vợ vội vã, gấp rút như kiểu cưới chạy 
tang. Sau đó, cũng theo lệnh cấp trên, họ rời bỏ người vợ mới cưới hay 
người họ mới yêu để tập kết ra Bắc. Ra ngoài Bắc rồi, nhiều người lập 
gia đình mới nhưng lại vẫn theo lệnh đảng và nhà nước ngoài Bắc, trở về 
Nam chiến đấu, họ tìm và được người vợ, người yêu khi xưa tận tình giúp 
đỡ, che chở, nuôi giấu. Hơn thế, cái trứng “tu hú” trước kia gửi trong 
bụng vợ (hay người yêu), được sự bảo bọc của xã hội miền Nam, cũng sẵn 
lòng làm chuyện đó. Bởi thế CS mới phát động được cái gọi là “chiến 
tranh nhân dân”, nhất là ở những vùng xôi đậu. Bởi thế mới có chuyện con
 cái của đảng viên tập kết lớn lên trong miền Nam, cũng được học hành tử
 tế, cũng được phép phục vụ trong hàng ngũ quân cán chính miền Nam, và 
nhiều kẻ đã len lỏi vào tận những cơ quan, đơn vị nòng cốt của chế độ 
Cộng Hòa và chỉ lộ mặt sau ngày 30/4/1975! Bên cạnh đó cũng phải nhắc 
đến số đảng viên được lệnh theo chân đoàn người di cư vào Nam sau ngày 
hiệp định Geneve 1954, để rồi trong 21 năm chiến tranh, cũng là những 
phần tử nằm vùng hoạt động cho miền Bắc.
Thế
 rồi ngày 30/4/1975 đến. Nhiều người dân miền Nam di tản kịp thời, được 
định cư ở các nước Âu Mỹ, và tiếp theo sau đó là những đợt thuyền nhân, 
bộ nhân lũ lượt bỏ quê hương, rời gia đình họ hàng vượt biên vượt biển 
đi tỵ nạn. Lại một lần nữa trong hàng ngũ tỵ nạn lại đầy dẫy những kẻ 
“ra đi theo chỉ thị”. Con cái những kẻ này trưởng thành, học hành, thành
 tài tử tế là nhờ sự che chở, giúp đỡ của các nước tự do, như thể chim 
tu hú lớn lên trong tổ chim sáo sậu và những đứa con ấy khi lớn lên, lại
 tiếp tục công việc của cha mẹ được đảng và nhà nước CSVN giao phó là 
hòa trộn vào tập thể tỵ nạn, xúi giục gây mâu thuẫn, bất hòa để cái cộng
 đồng tỵ nạn ấy càng ngày càng suy yếu đi. Và trên hết là làm sao để nắm
 quyền lãnh đạo những hội đoàn, đoàn thể trong cộng đồng, dần dần lèo 
lái cộng đồng -và lớp trẻ con cái những người tỵ nạn chân chính rời xa 
lý tưởng mà cha mẹ đã phải liều mình hy sinh cố tìm ra sự sống trong cái
 chết của thuở ban đầu!
Công
 việc chống Cộng mỗi ngày một khó khăn. Đối phương ở xa chưa làm gì được
 mà nội bộ, đồng bào, chiến hữu từng cùng thân phận tỵ nạn đã xào xáo, 
chia rẽ. Mười hội thì ít ra cũng năm, sáu thể nào sau một thời gian hoạt
 động hăng say, đoàn kết gắn bó keo sơn cũng phân làm hai, cố dành bằng 
được vai trò “chân chính”, không ngại ngần thóa mạ, chụp mũ những người 
mới hôm trước còn là chiến hữu nay trở thành “tay sai VC”, là “nằm vùng” 
Ai nói phải quấy thì chụp ngay cho cái "nón cối". Chuyện buồn cười (và 
đắng cay ấy) như thế cứ liên tiếp xảy ra, hết lúc này đến lúc khác, hết 
nơi này tới nơi khác. Vì nếp sống tự do và nguyên tắc tôn trọng đa số 
của các nước định cư chỉ phù hợp với một nền sinh hoạt chính trị dân chủ
 kiểu Tây Phương, dựa trên truyền thống phong tục đã có lâu đời; nhiều 
người có lòng nhưng vì tự trọng đành ngậm ngùi rút lui, từ giã mọi sinh 
hoạt để mặc cho kẻ khác tha hồ nhảy múa.
Tình
 thế lại càng trở nên khó khăn hơn cho những người còn có lòng, có chí 
tranh đấu cho một đất nước Việt Nam tự do dân chủ không Cộng Sản kể từ 
khi Hoa Kỳ và các nước Tây Phương theo chủ nghĩa tư bản bãi bỏ cấm vận, 
bắt tay với chế độ cầm quyền ở Việt Nam để làm ăn. Giao thương ngày càng
 tăng dẫn theo một làn sóng “tu hú” mới từ trong nước ào ạt đổ ra hải 
ngoại để “đẻ trứng” vào những chiếc tổ mà đoàn “sáo sậu tỵ nạn” đã dày 
công xây đắp.
Thử
 nhìn ở nước Úc và các quốc gia khác trên thế giới thì thấy ngay ! Với làn sóng du học sinh và lấy chồng
 lấy vợ (thật lẫn giả) ngày càng gia tăng; chuyện thực tế phải đến đã 
đến là thành phần người tỵ nạn thật sự trong cộng đồng người Việt định 
cư ở nước ngoài càng lúc càng hao hụt đi nhiều. Điều này khiến cho cuộc chiến 
nhằm đạt được tự do, nhân quyền và dân chủ cho người dân tại quê nhà vẫn
 còn đầy khó khăn. Chế độ CSVN trong bao năm qua vẫn không bao giờ lơ là
 việc tấn công vào thành trì tỵ nạn hải ngoại bằng đủ mọi phương cách 
qua việc ban hành và nỗ lực thi hành nghị quyết 36.
Sau
 thời kỳ hoạt động mạnh mẽ -cả về chính trị lẫn quân sự- của những năm 
đầu ngay sau 1975, nhiều tổ chức đảng phái của người Việt tại hải ngoại 
đã đóng góp khá nhiều vào cuộc đấu tranh chung. Nhưng đáng tiếc trong 
khoảng gần 2 thập niên trở lại tới nay, rõ ràng tình hình đã diễn biến 
theo chiều hướng bất lợi hơn cho khối người Việt tỵ nạn ở hải ngoại. 
Trong thời gian đó, một bên là lớp người tỵ nạn ban đầu (thế hệ thứ 
nhất) ngày càng già yếu, hao hụt dần, lý tưởng “chống Cộng” mỗi ngày mỗi
 bớt đi mà chiến thuật  “đẻ nhờ” của tu hú vẫn được CSVN tận tình khai 
thác. Họ đem “trứng CS” gieo khắp nơi, bất cứ lúc nào thuận tiện ở bất 
cứ nơi đâu có người Việt định cư. Ba mươi năm qua, nhất là từ khi phải 
mở cửa từ năm 1990 đến nay, việc du lịch, du học hay lập gia đình giữa 
trai hải ngoại, gái trong nước (hay ngược lại) đã thành chuyện bình 
thường. Nhưng có ai dám nói chắc rằng trong những cuộc hôn nhân ấy không
 có trường hợp CSVN dùng để tiếp tục gửi người ra nước ngoài? Gửi “cái 
trứng” ra ngoài, cái trứng đó được người Việt ở hải ngoại chăm sóc; hay 
nói cho đúng hơn là “cái trứng” đó được xã hội các nước khác nuôi nấng 
bảo bọc; với việc gửi trứng đó, CSVN có thiệt thòi gì ? Khi trứng phát 
triển, trưởng thành bắt đầu làm việc, để cung phụng lại nơi được coi là 
nguồn gốc, nơi đã gửi chúng ra nước ngoài, đó là điều Hà Nội không trông
 mong gì khác hơn.
Chưa
 kể, khi nhà cầm quyền CSVN trước bờ vực sụp đổ vì kinh tế kiệt quệ, 
phải chọn con đường “mở cửa kinh tế” để vừa cứu vãn chế độ, vừa thu hút 
được lòng hám lợi của tư bản ngoại quốc và đặc biệt, không ít bọn “ăn 
cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, bọn chỉ vì đồng tiền sẵn sàng quay lưng 
180 độ, phủ nhận ngay chính những gì chúng từng mạnh miệng khi vừa định 
cư để trở về ôm chân những lãnh tụ CS, những kẻ mà mới hôm trước chúng 
còn đả đảo! Người Việt tỵ nạn ở Úc trong hai thập niên qua đã lần lượt 
chứng kiến tận mắt, nghe tận tai những vụ “trở cờ, đón gió”ấy. Và đáng 
buồn thay, những khuôn mặt phản bội ấy đa số là những kẻ từng cũng có 
thời là quân nhân, là công chức VNCH, từng cũng có thời là Chủ tịch Cộng
 đồng, Chủ tịch Cựu quân nhân… Vậy mà lần lượt “cóc chết ba năm quay 
đầu…” hết lời ca tụng “đất nước đổi mới, đời sống kinh tế phát triển”, 
liếm sạch những thứ mà chúng trước đó đã nhổ !
Cũng
 vẫn chuyện “tu hú đẻ nhờ để rồi chiếm cả tổ sáo sậu” trong cộng đồng 
người Việt tỵ nạn tại Úc càng lúc càng có nhiều điều xác nhận rằng “công
 sức xây dựng cộng đồng đến mức phát triển như ngày nay” đang dần dà có 
nguy cơ về tay CS. Bao năm nay chúng ta nói nhiều đến chuyện CSVN ra sức
 xâm nhập vào cộng đồng về mọi mặt. Nếu chịu khó nhìn kỹ một chút thì 
không khó gì để không thấy. Trong mọi lĩnh vực, từ truyền thông, văn hóa
 đến xã hội, giáo dục; sau gần 40 năm định cư cộng đồng người Việt tỵ 
nạn tại Úc đã xây dựng được rất nhiều cơ sở và dần dà phát triển càng 
ngày càng lớn mạnh. Thế nhưng có bao giờ chúng ta băn khoăn rằng “những 
cơ sở ấy tương lai sẽ do ai quản trị, ai điều hành và đường lối hoạt 
động có còn giữ nguyên vẹn như ban đầu là phục vụ, đáp ứng nhu cầu của 
người Việt tỵ nạn và tiếp tục công cuộc tranh đấu cho một nước Việt Nam 
thật sự dân chủ, tự do, cho người dân được hưởng mọi quyền làm người ?
Những
 cơ quan truyền thông Việt ngữ - cả của tư nhân lẫn của chính phủ lập ra
 để phục vụ cộng đồng Việt tỵ nạn- đã có bao nhiêu bộ mặt mới? Bao nhiêu
 gia đình chỉ vì thích nghe tiếng Việt, đã mở cửa cho các chương trình 
truyền hình của nhà nước CSVN tiếp vận qua vệ tinh xâm nhập vào nhà 24 
trên 24 giờ mỗi ngày? Bao nhiêu lớp học Việt ngữ dạy cho trẻ con tại Úc 
bằng giáo trình do Bộ Giáo dục CSVN soạn thảo? Những đoàn thể xã hội đã 
có thêm bao nhiêu thành viên mới, không ít người là những kẻ đến Úc theo
 diện di dân-đoàn tụ gia đình hay doanh nhân, và trong số đó bao kẻ là 
cán bộ, viên chức nhà nước CSVN tìm đủ mọi cách tẩu tán tài sản làm ăn 
bất chính? Biết bao nhiêu tu sĩ “quốc doanh” chễm chệ trong các cơ sở 
tôn giáo mà người tỵ nạn đã chắt bóp công sức bao năm xây dựng? Bao 
nhiêu kẻ-đã và sẽ-là người hưởng thụ những dịch vụ chăm sóc phụ nữ, 
người già-do chính phủ tài trợ, giúp đỡ cho các hội đoàn đoàn thể trong
 cộng đồng lập ra, với sự đóng góp của biết bao nhiêu người hằng tâm 
hằng sản vô danh? Như thế nếu không gọi là “tu hú xâm lăng chiếm tổ sáo 
sậu” thì gọi là gì ?
Nhưng
 quan trọng hơn, có ai nghĩ đến thế hệ tương lai con cháu chúng ta lớn 
lên chúng lâm cảnh “trông gà hoá cuốc”, kẻ thật tưởng người gian… và 
ngược lại, trông kẻ gian mà cứ ngỡ là người ngay thẳng để rồi như “Cô bé
 quàng khăn đỏ” bị chó sói ăn thịt mà vẫn cứ tưởng là mình được người bà
 kính mến yêu thương ? Đến khi đó thì cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác
 đã sang trang. Và khi đó thì thế hệ thứ nhất này chắc chắn không thể 
nào ngậm cười nơi chín suối được.
Việt Luận. 


Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar