Cứ tưởng là đất nước có nhiều thay đổi, cũng bằng anh bằng chị, chẳng
thua kém ai, ở Việt Nam sướng nhất, cái gì cũng có, v.v… Đó là những điều mà kẻ
có tiền (bất chính) huênh hoang, thiển cận, chỉ nhìn vào bản thân mình, tự so
sánh với chính mình, với cái ngày ăn cơm độn mì, khoai lang.
39 năm cái gọi là "hoà bình", với sự ngu xuẩn cộng với lòng kiêu hãnh đắc thằng, Đảng Cộng
Sản Việt Nam (ĐCSVN) đã đưa cả nước xuống bờ vực của đói rét. Các nhà nghiên cứu
phương Tây đánh giá rằng, vào nửa sau của thập kỷ 80, có 3 triệu người bị đói ở
nông thôn, 12 triệu người không đủ ăn. Đảng đã phải giật mình choàng tỉnh để tự
“cởi trói”, “đổi mới”. Cứ xét từ năm 1986, từ giai đoạn ấy, đầu tư nước ngoài
FDI, đầu tư ưu đãi phát triển ODA, đầu tư ngân sách, tiền kiều hối gửi về khoảng
10 tỷ USD/năm, phải tới hàng trăm tỷ USD đổ vào mảnh đất chỉ hơn ba trăm ngàn
hai trăm km2 trong hơn hai thập niên, thì không thay đổi mới là lạ. Nhưng nếu
các dự án, công trình không bị rút ruột từ 10-40%, không có những con tàu nát
của Vinashine hay ụ nổi sắt vụt của Vinalines, không bị bộ máy tham nhũng, lãng
phí chèn ép, thì sự thay đổi còn có thể nhiều hơn gấp bội.
Nhưng tất cả những thay đổi, suy cho cùng, cũng chỉ khá hơn cái thời khốn khó
trước năm 1986. Trừ một bộ phận quan chức và đám ăn theo giàu lên nhanh chóng,
ăn xài hoang phí nhờ trục lợi từ hệ thống chính trị đầy bất công, còn lại đa số
người lao động vẫn chật vật kiếm cơm qua ngày. Người nông dân vẫn lam lũ trên
ruộng đồng và học sinh miền núi vẫn cơm không đủ no, áo không đủ mặc.
Nhìn ra thế giới, sau hơn hai thập niên mở cửa, rồi tham gia WTO, Việt Nam
vẫn nằm ở đáy của các tiêu chuẩn phát triển.
Theo các chuyên gia World Bank năm 2008, với tốc tộ tăng trưởng hiện có (7%),
Việt Nam phải mất rất lâu nữa mới đuổi kịp các nước trong khu vực Đông Nam Á:
158 năm với Singapore, 95 năm với Thái Lan và 51 năm với Indonesia. Trong khi
tăng trưởng giảm sút từ năm 2011, năm 2013 chỉ còn 5,2%, mà người ta sẽ đứng một
chỗ để chờ Việt Nam đuổi theo chăng?
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) công bố trong năm 2013, chỉ
số năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam xếp hạng 70 trên 148 nền kinh tế,
tăng 5 hạng so với năm 2012.
Mặc dù Việt Nam tăng 5 hạng, từ 75 lên 70, nhưng vẫn còn khoảng cách rất xa
so với Singapore (thứ 2), Malaysia (thứ 24) hay Thái Lan (thứ 37). Tăng hạng
nhưng Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các quốc gia đứng trong nhóm giai đoạn thứ
nhất, tức là giai đoạn cạnh tranh nhờ các yếu tố cơ bản, giống như nhiều nước Châu Phi.
Nền kinh tế có sức cạnh tranh không chỉ dựa vào một số yếu tố cơ bản mà sự
cạnh tranh phải nhờ hiệu quả/hiệu suất công việc và trí tuệ sáng tạo. Theo WEB,
Việt Nam chưa được xếp vào giai đoạn chuẩn bị chuyển tới giai đoạn hiệu quả,
chưa nói tới giai đoạn sáng tạo, khác với Philippines, Sri Lanka, Brunei… đã
được xếp như thế.
Thông điệp của báo cáo của WEF cũng cho thấy thể chế tốt và sáng tạo là hai
yếu tố quan trọng tạo ra năng lực cạnh tranh của quốc gia. Cả hai vấn đề này ở
Việt Nam, thể chế và sáng tạo đang rất yếu kém.
Về thể chế, Việt Nam được xếp hạng 98 thế giới, đứng thứ 9 trên 10 quốc gia
của khu vực ASEAN, chỉ hơn mỗi Myanmar, nhưng chỉ về mặt lý thuết chứ thực chất
Myamar đang chuyển mình đi vào lộ trình dân chủ. Trong cuộc điều trần UPR ngày
5/02/2014 tại Genève, đại diện Myamar đã kiến nghị Việt Nam thúc đẩy dân chủ,
tôn trọng pháp quyền và nhân quyền.
Một thể chế chính trị độc đảng, chính phủ không được thiêt lập từ bầu cử tự
do, đảng cầm quyền hoạt động ngoài vòng pháp luật, định hướng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa siêu thực, là gánh nặng nhất làm trì trệ sự phát
triển.
Về sáng tạo, Việt Nam xếp hạng 85 thế giới. Chất lượng giáo dục rất quan
trọng cho hai yếu tố này, nhưng tương tự như những năm trước đây, giáo dục và
đào tạo bậc cao của Việt Nam lại bị xếp hạng ở tận thứ 95.
Ngoài ra, mức độ sẵn sàng áp dụng công nghệ mới của Việt Nam xếp hạng
102.
Thành tích nghiên cứu ứng dụng của Việt Nam còn quá khiêm tốn so với các nước
trong khu vực. Về bằng sáng chế, ở đây được hiểu là bằng sáng chế Mỹ (US patent)
bởi uy tín của nó. Trong 5 năm gần đây nhất 2006-2010, Việt Nam chỉ có 5 bằng
sáng chế, thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á. Singapore là nước
có nhiều bằng sáng chế (BSC) nhất, 2.496 bằng, gấp khoảng 3 lần nước đứng thứ
hai về thành tích này, Malaysia.
Thống kê của USPTO cho thấy trong các nước Đông Nam Á: 1. Singapore ( 4,8
triệu dân): 2.496 BSC; 2. Malaysia (27,9 triệu dân): 877 BSC; 3. Thái Lan
(68,1 triệu dân): 206 BSC; 4. Phillipines (93,6 triệu dân): 143; 5 BSC;
Indonesia (232 triệu dân): 74 BSC; 6. Việt Nam (89 triệu dân): 5 BSC.
Thời gian qua, Việt Nam đã thu hút được khá nhiều đầu tư nước ngoài FDI phần
nhiều cũng từ những lợi thế về quy mô thị trường (thứ 36) và thị trường lao động
(thứ 56). FDI góp đến khoảng 20% vào GDP của cả nước, riêng năm 2014 số vốn đăng
ký là 22 tỷ USD, một cứu cánh cho nền kinh tế ảm đạm. Tuy nhiên sự đóng góp cho
ngân sách và thuế của khu vực này rất hạn chế.
Theo kết quả điều tra gần 2.000 nhà đầu tư nước ngoài của Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trong hai năm liền, lý do hàng đầu khiến các nhà đầu
tư nước ngoài chọn Việt Nam là chi phí giá lao động rẻ, được ưu đãi về thuế và
đất đai hay ổn định chính trị.
Nhưng đáng lo ngại nhất là trong 10 lý do hàng đầu để các nhà đầu tư chọn
Việt Nam, không có yếu tố nào thuộc về chất lượng điều hành của chính quyền (như
cải cách thủ tục hành chính, kiểm soát tham nhũng, bảo vệ quyền tài sản, bảo hộ
đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ.
Trong khi đó, qua phân tích từ điều tra, chính chất lượng điều hành, quản lý
là nhu cầu hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài có chất lượng cao, công nghệ
tốt, mang lại nhiều giá trị gia tăng.
Tại phiên họp của Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng
lực cạnh tranh vào ngày cuối cùng năm 2013, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đưa ra
nhiều thông điệp và cam kết. Nhưng đấy là những câu khẩu hiệu sáo rỗng không
mang tính khả thi.
Nợ công, theo các chuyên gia đạt mức 95% GDP là một con số nguy hiểm cho một
nền kinh tế nhỏ bé như của Việt Nam, nợ doanh nghiệp nhà nước hơn 60 tỷ USD
không tính vào nợ công, nợ xấu trên tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng đã đạt
146,5 nghìn tỷ đồng (6,94 tỷ USD) trong năm 2013, tăng 23,73% so với năm 2012,
cứ mỗi quý phải trả 1 tỷ USD cả gốc lẫn lãi (khoảng 25 – 26 ngàn tỷ đồng), bất
động sản đóng băng với khoản nợ gần 10 tỷ USD , hệ thống ngân hàng mất lòng tin
nghiêm trọng… Chỉ xoay xở trong mớ những chỉ số này đã là nan giải, nói gì đến
phát triển.
Từ năm 2004, khi mà các chỉ số kinh tế đang cao, nhìn nền kinh tế theo định
hứơng xã hội chủ nghĩa, nhà báo Ba Lan Maria Kruczkowska đi Việt Nam về đã dự
báo “Việt
Nam: con rồng không bay“. Đến tháng 7/2012 tờ Foreign Policy đánh giá ”Phép
lạ với Việt Nam kết thúc”. Đến tháng 10/2012, tờ Newsweek mô tả “Từ hổ đến mèo:
Kinh tế Việt Nam trật đường rầy”. Các dự đoán đều chính xác. 2013, một năm khó
khăn, bế tắc. 2014, năm Giáp Ngọ, kinh tế Việt Nam chỉ có thể là… con ngựa
gỗ!
Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar