Ngay sau khi chiến tranh VN kết thúc chưa được bao lâu, khi “phe thắng cuộc” còn đang ngây ngất trong “hào quang chiến thắng” và thế giới còn đang nhìn vào đảng cộng sản VN với ít nhiều khâm phục thì người dân, chủ yếu là từ miền Nam, bắt đầu ồ ạt bỏ nước ra đi…
Mặt trái của tấm huy chương lộ ra dần dần
theo những thông tin, hình ảnh về những thuyền nhân bị hãm hiếp, bị
cướp bóc tàn nhẫn hay vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển sâu trong quá
trình chạy trốn khỏi nước Cộng hòa XHCN VN đi tìm bến bờ tự do, được
đăng tải rộng rãi…
Một trong những cuộc di dân lớn nhất trong thế kỷ XX bắt đầu và kéo dài nhiều năm sau đó.
Điều đáng nói là cho mãi đến bây giờ, gần 40 năm sau, người Việt vẫn đang tiếp tục tìm đường ra đi, bằng cách này cách khác.
Người nghèo thì chủ yếu đi bằng con đường
bán sức lao động, dưới danh nghĩa đi lao động hợp tác, còn gọi là “xuất
khẩu lao động”-một trong những khái niệm mới có dưới chế độ ưu việt của
đảng ta. Khi các nước thuộc khối XHCN cũ còn tồn tại, thì VN “xuất
khẩu” người lao động sang các nước này, và khi khối XHCN bị sụp đổ thì
lại “xuất” sang môi trường các nước tư bản, lên đến hàng chục ngàn người
mỗi năm.
Cách làm này đã đem lại cho nhà nước VN
một món ngoại tệ không nhỏ hàng năm, cộng với số tiền của kiều bào gửi
về, khiến VN mấy năm gần đây liên tục lọt vào danh sách các quốc gia có
lượng kiều hối cao trên thế giới. Thực chất, đây là nạn buôn người một
cách công khai và VN cũng đã bị nhiều tổ chức nhân quyền trên thế giới
cảnh báo về điều này.
Người viết bài này đã từng tiếp xúc, trò
chuyện với nhiều người đi xuất khẩu lao động tại một số quốc gia ở Đông
Âu như Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan… Hầu hết đều có hoàn cảnh khó khăn, phải
cầm cố ruộng vườn nhà cửa, vay nợ ngân hàng để có tiền đóng cho các công
ty môi giới lao động. Vì vậy khi sang đến nơi họ phải “cày” ngày “cày”
đêm, ăn uống sinh hoạt hết sức tằn tiện, vừa dành tiền trả nợ, nuôi gia
đình, tiết kiệm mong để dành được chút vốn sau này về nước làm ăn.
Dù làm việc vất vả, sống eo hẹp nhưng vẫn
còn là… may mắn. Cực khổ, rủi ro hơn nhiều là những người đi sang nước
khác bằng hộ chiếu du lịch rồi ở lại làm lao động “chui”.
Chẳng hạn, có rất nhiều người đi du lịch
sang Nga rồi nhờ đường dây đưa sang Đức sang Tiệp, đi đường bộ, đường
rừng. Biết bao nhiêu hiểm nguy bất trắc rình rập, còn với phụ nữ thì khó
mà thoát khỏi nạn bị cưỡng hiếp dọc đường, không phải chỉ một lần.
Vì không có giấy tờ, họ chỉ có thể làm
việc cho những người chủ Việt, bị bóc lột nặng nề trong những điều kiện
vô cùng tồi tệ mà không kêu cứu được ai.
Đôi khi chúng ta lại đọc thấy những tin
tức như một xưởng may ở Nga bị cháy (tháng 9.2912), nhiều công nhân VN
bị chết, hóa ra đó là một xưởng may hoạt động bất hợp pháp và các công
nhân có thể đã bị đưa đi xuất khẩu lao động “chui”; hay “Một người Việt ở Nga bị bắt vì sử dụng 700 lao động Việt như nô lệ” (Vietinfo), “Cảnh báo rủi ro lao động Việt Nam đi làm việc chui ở Philippines” (Báo mới), “Góc khuất về người lao động VN ở Angola” (VOV)…
Ngay các nước Bắc Âu như Na Uy, Đan Mạch,
Thụy Điển… bây giờ cũng có nhiều người đi du lịch rồi ở lại. Nhiều cặp
vợ chồng bỏ lại con nhỏ cho ông bà nội ngoại nuôi, biền biệt làm ăn cả
chục năm chưa về nước là chuyện bình thường!
Liều lĩnh hơn nữa, mới đây báo chí VN đưa
tin nhiều người đi du lịch theo tour rồi bỏ trốn, chấp nhận vứt luôn cả
hộ chiếu, sống hoàn toàn không giấy tờ trên nước người. (“Khắp nơi cảnh giác du khách Việt: xuất ngoại rồi bỏ trốn”, VietnamNet).
Tất cả cũng chỉ vì quê hương không còn là “chùm khế ngọt” nên con người phải tha hương nhọc nhằn kiếm sống.
Nhiều cô gái trẻ ở nông thôn, đặc biệt là
vùng đồng bằng sông Cửu Long thì chọn con đường đổi đời bằng những cuộc
hôn nhân thông qua các tổ chức môi giới, với những người chồng đến từ
Đài Loan, Hàn Quốc. Những cuộc hôn nhân vội vàng chớp nhoáng, lệch pha,
mà bản thân các cô gái và gia đình chỉ nhận được một món tiền rẻ mạt, đa
phần không tìm được hạnh phúc. Thậm chí kết thúc bằng cái chết.
Từ chuyện một cô dâu Việt mới bước qua
tuổi 20 chưa lâu (sinh năm 1993) bị người chồng Hàn Quốc bóp cổ đến chết
mới đây, báo Dân Trí có bài “Sự sỉ nhục nhìn từ những cô dâu Việt bị giết”.
Bởi đây không phải là lần đầu tiên, các
bậc cha mẹ khi tiễn con gái đi lấy chồng xa cứ nghĩ là đời con mình sẽ
sung sướng vì được lấy chồng “ngoại”, chẳng bao lâu sau đã phải đón con
về trong những bình tro cốt giá lạnh. Những cái chết tức tưởi, bị đánh,
bị đâm, hay quẫn trí quá mà nhảy lầu tự sát ôm theo con…
Vậy mà theo bài báo: “Phụ nữ lấy
chồng Hàn Quốc, Đài Loan bị đánh đập, hành hạ, bị giết, nhưng tỉ lệ thấp
hơn và ít rủi ro hơn lấy chồng Trung Quốc. Tình trạng lấy chồng Trung
Quốc, sau đó bị ngược đãi, bị làm vợ tập thể, bị sang tay và vứt ra
đường khá phổ biến.
Cuối năm 2013, ba cô dâu Việt Nam là
Tô Thị Hà, Trịnh Thị Hoa, Mai Thị Sư được điều trị tại Bệnh viện thần
kinh thành phố Phúc Châu, tỉnh Kiến Phúc – Trung Quốc. Cả ba người đều
là nạn nhân của lấy chồng Trung Quốc, bị đày đọa nhiều năm cho đến khi
thân tàn thì đuổi khỏi nhà…Có nhiều trường hợp bị đẩy vào động mại dâm,
bị khai thác như súc vật cho đến khi bệnh tật, bị chết hoặc điên dại.”
Đó là chưa kể đến những cô gái Việt bán
phấn buôn hương trong những địa điểm ăn chơi cho đến những ổ chứa gái rẻ
tiền trên đất Thái, Phi, Cambodia, Malaysia…
Nếu như các cô gái nông thôn ở phía Nam
hoặc các tỉnh sát biên giới phía Bắc thường lấy chồng Đài, Hàn, Trung
qua con đường môi giới thì các cô gái ở các thành phố lớn, có ăn học, có
nhan sắc, nhất là có chút tiếng tăm nếu hoạt động trong giới showbiz
Việt như người mẫu, ca sĩ, diễn viên… lại có xu hướng lấy chồng ngoại
quốc hoặc Việt kiều từ Mỹ và các nước phương Tây.
Nói vậy không có nghĩa là mọi cuộc hôn
nhân có yếu tố “ngoại” đều tính toán, vẫn có những cuộc hôn nhân xuất
phát từ tình yêu, do cả hai đều có cơ hội và thời gian chọn lựa hơn.
Nhưng với một tỷ lệ không nhỏ và ngày càng tăng những cuộc hôn nhân như
vậy trong giới showbiz vẫn khiến người ta tự hỏi phải chăng cái quốc
tịch của các đức ông chồng (và cả các cô vợ) là một ưu điểm lớn?
Những người gia đình trung lưu, khá giả
thì đầu tư cho con cái đi du học tự túc rồi tìm cách ở lại. Trước kia
cha mẹ thường cho con đi học sau khi tốt nghiệp phổ thông, nhưng càng
ngày người ta càng cho con đi sớm hơn, từ khi mới lớp 9,10, 11. Riêng ở
Hoa Kỳ, hiện tại “VN đứng thứ 8 về số du học sinh ở Mỹ” “với hơn 16.000 sinh viên tại các trường đại học và cao đẳng trên toàn nước này” (VNExpress).
Nhưng không phải cuộc đầu tư cho con đi
học nào cũng thành công, nếu không có sự chuẩn bị tốt về ngoại ngữ, kiến
thức, một nền tảng giáo dục tốt từ gia đình và một mục đích rõ ràng.
Những cô cậu học sinh, sinh viên hoặc theo không nổi, học là phụ chơi là
chính, sau này về nước chỗ làm đã có cha mẹ “dọn” sẵn, điều này dễ thấy
với dạng con ông cháu cha. Hoặc dễ chệch hướng, sa ngã.
Đám quan chức và những kẻ thủ lợi nhiều
nhờ chế độ này, miệng thì chửi bới Mỹ và các nước “tư bản giãy chết”
nhưng hỏi ra đều đã tính đường “hạ cánh an toàn” cả. Phần lớn đều có con
cái, nhà cửa, cơ sở kinh doanh ở Mỹ hay một nước phương Tây, có trương
mục trong các ngân hàng uy tín nhất thế giới. Đám này sướng từ trong
nước đến khi ra nước ngoài vẫn tiếp tục nhàn nhã nhờ vào những đồng tiền
mà chúng tham nhũng, ăn cướp từ nhân dân.
Và vẫn chưa hết, cảnh vượt biên bằng
đường biển, đường bộ…Úc là một trong những điểm đến được nhắm tới trong
những năm gần đây cùa thuyền nhân Việt và các nước khác. Nhưng với chính
sách mới cứng rắn của chính phủ Úc, người Việt vượt biển sẽ không bao
giờ được định cư ở Úc mà nếu được xét là người tỵ nạn thực sự, họ cũng
chỉ được định cư tại đảo Papua New Guinea mà thôi.
Đất nước như một con tàu lớn đang chìm
dần trong khi những người cầm lái thì vẫn tiếp tục mù quáng, chưa tỉnh
thức, buộc lòng nhân dân, mạnh ai nấy phải tìm cách nhảy ra khỏi con tàu
đắm vậy.
Như một câu hát của nhạc sĩ họ Trịnh: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi…” (bài “Một cõi đi về”).
Có lẽ chỉ đến khi chế độ này sụp đổ và thay đổi theo hướng tự do dân
chủ, mới hết cảnh người Việt bỏ nước ra đi, hết những bi kịch đầy máu và
nước mắt đằng sau những cuộc trốn chạy khỏi thiên đường XHCN VN.
Song Chi.
Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar