Trong những lễ hội dân gian, người Việt xem trọng nhất là Tết. Tết là phong tục truyền thống của người Việt từ xa xưa cho đến ngày nay. Dân gian vẫn thường phân biệt là Tết ta và Tết Tây chứ không ai nói là tết Tàu vì chỉ dân tộc Việt Nam mới có chữ “TẾT” mà thôi, Hán ngữ không có chữ tết nên Tết là của Việt Nam chứ không phải của Tàu. Thật vậy, trong Kinh Lễ viết Tế-Sạ. Tết mà Khổng Tử, người thầy muôn đời của người Trung Quốc đã giải thích với học trò:"Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là "Tế-Sạ". Điều này chứng tỏ rằng người Trung Quốc không có tết và Kinh Lễ là của người Việt cổ nên tên gọi tết cổ của người Thái là chi Âu Việt trong Bách Việt cũng gọi Tết là Thê-Sa.
Tết là ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và sắc dân ở khắp miền Đông Nam Á. Ngày nay, các công trình nghiên cứu đã xác định cư dân Đông Nam Á cùng chung chỉ số sọ, cùng một mã di truyền DNA, nên là những chi tộc Việt trong Bách Việt. Chính vì vậy, tất cả đều ăn tết, chữ tết cùng một nguồn gốc với chữ Tết của Việt tộc. Đồng bào Nùng cũng đọc là tết (nèn tết=năm tết), đồng bào Mường cũng ăn “Thêt”= ăn tết như đồng bào Việt, đồng bào Thái thì có lễ mừng năm mới gọi là Thêts. Thêts khal là mùa tết, những ngày tết, khal text là ngày tết. Đồng bào Chàm cũng có tết mà họ gọi là “Tít” vào lễ tháng năm của lịch Chàm cổ, “băng tít” là ăn tết, kTêh là lễ hội lớn nhất trong năm của người Chàm. Người Mon cũng ăn tết mà họ gọi là Ktêk. Người Khmer cũng có lễ hội “Chêtr” là Tết mừng tháng 5 theo cổ lịch Khmer là tháng gió mùa bắt đầu thổi ngược lại, tháng của mùa gió nồm ở Đông Nam Á tùy theo nơi, từ cuối tháng tư đến cuối tháng năm. Ấn Độ cũng có chữ “Chetr” để chỉ tên tháng tư và tháng năm là 2 tháng giao mùa từ mùa nắng sang mùa mưa trong lịch Ấn Độ cổ. Đặc biệt ở Népal cũng ăn tết trong “Lễ đầu năm” cổ truyền của người Népal và người Munda cũng có lễ ăn mừng mùa mưa đến gọi là “Teej”* như các quốc gia nông nghiệp trong Bách Việt.
Đặc biệt, truyền thuyết dưới dạng truyện cổ tích Việt Nam về lễ Tết lưu truyền trong dân gian từ bao đời nay gắn liền với ý niệm cha Trời, mẹ Đất. Ý niệm về Đất Trời được thể hiện qua hình tượng Bánh Chưng bánh dày ngay từ thời vua Hùng thứ tám (Sách sử xưa viết là vua Hùng thứ sáu vì không kể Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân, chỉ tính từ vua Hùng thứ nhất. Thực ra phải nói là vua Hùng thứ tám mới đúng theo quốc phổ ghi trong Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư và phù hợp với niên đại lịch sử. Truyện kể rằng, vua Hùng thứ tám sau khì nhờ Phù Đổng Thiên Vương “Cậu bé nhà Trời” phá tan giặc Ân đã chọn người con thứ 9 là Lang Liêu để truyền ngôi. Tương truyền trong khi 21 người anh em đi tìm sơn hào hải vị để đến tết dâng lên vua cha cúng tiên vương cho tròn đạo hiếu thì Lang Liêu do mẹ mất sớm, gia đình nghèo nên chỉ biết dâng lên vua cha cặp bánh chưng hình vuông và bánh dầy hình tròn. Lang Liêu là người con hiếu thảo, biết thương người đang buồn rầu lo nghĩ rồi tủi thân vì mẹ mất sớm nên không ai phụ giúp nên “Thần nhân” hiện ra mách bảo Lang Liêu rằng: “Trong trời đất, không vật gì quý hơn gạo vì gạo là để nuôi dân, người ta ăn mãi không bao giờ chán. Nếu con lấy gạo nếp nấu sôi lên rồi đem quệt cho thật nhuyễn, nặn thành hình tròn để tượng trưng cho trời gọi là bánh dầy. Lấy gạo nếp trắng tinh đem vo sạch, cho nhân thịt và đậu xanh vào giữa rồi lấy lá dong xanh gói rồi đem nấu chín gọi là bánh chưng”. Vua Hùng thấy Lang Liêu là người biết tri ân Trời Đất, ông bà Tiên tổ, lại biết thương yêu đồng bào nên chọn chàng lên ngôi kế vị vua cha. Từ đó, dân gian Việt có tập tục là đến ngày lễ tết thì làm bánh dầy cúng trời đất, gói bánh chưng để cúng ông bà tiên tổ. Ý niệm vuông tròn biểu trưng cho trời đất và sự hoàn thiện, tuyệt mỹ nên dân gian thường chúc nhau “Mẹ tròn con vuông” mỗi khi sinh đẻ. Tinh hoa của minh triết Việt chỉ ra rằng cuộc sống phải hội đủ 2 yếu tố Âm dương mới đầy đủ viên mãn. Đó chính là “Đạo” vì phải có cả âm dương mới là đạo. Đạo Trời, đạo Đất và cũng chính là đạo người (nhất âm nhất dương chi vị đạo).
Trong văn học thường viết Tết gắn liền với chữ Nguyên Đán là Tết Nguyên Đán. Truyền thuyết xa xưa kể lại rằng Đế Chuyên Húc, ông vua Việt cổ thời cổ đại gọi tháng giêng là NGUYÊN, gọi mồng một là ĐÁN rồi ghép lại là Nguyên Đán tức mồng một tháng giêng. Tầm nguyên ngữ nghĩa của hai chữ Nguyên Đán sẽ cho ta thấy rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng của Tết Nguyên Đán. Nguyên là mới bắt đầu, Đán là một chữ tượng hình, ở bên trên là chữ nhật chỉ mặt trời, bên dưới là chữ nhất thay cho mặt bằng phẳng khiến chúng ta liên tưởng mặt trời từ từ lên cao, tượng trưng cho một ngày mới bắt đầu. Nguyên Đán là ngày đầu năm đầu tháng giêng Âm lịch. Do đó, Tết Nguyên Đán là ngày đầu tiên của tiết đầu của một năm mới.
Từ thời cổ đại cho tới Nhà Hạ vẫn lấy ngày mồng một tháng giêng là ngày Tết của người Việt cổ. Nhà Hạ ăn tết nhằm cung dần, dựa theo nông lịch tức tiết đầu xuân lúc khởi đầu có sấm. Khi tộc Thương (Hán tộc) đánh đuổi Nhà Hạ (Việt tộc) khỏi Hoa Bắc thì Hán tộc chọn ngày 1 tháng 12 âm lịch là Tết Nguyên Đán, đến triều Chu chọn ngày 1 tháng 11 âm lịch, triều Tần chọn ngày 1 tháng 10 âm lịch cho cả Trung Quốc. Mãi đến thời Hán Vũ Đế chịu ảnh hưởng của văn hoá Bách Việt phương Nam nên chọn lại ngày 1 tháng giêng là Tết Nguyên Đán. Ngày nay, Trung Quốc lại chọn ngày 1 tháng 1 Dương lịch tức Tết Dương lịch của Tây phương làm ngày Tết Nguyên Đán nhưng dân gian phần lớn là người gốc Việt cổ vẫn “Ăn Tết” vào ngày mồng 1 tháng giêng. Duy chỉ có dân tộc Việt Nam trước sau như một vẫn bảo lưu truyền thống “Nông lịch” của người Việt cổ lấy ngày mồng một tháng giêng Âm lịch là ngày Tết Nguyên Đán còn gọi là Tết Ta để phân biệt với Tết Dương lịch 1 tháng 1 Dương lịch là Tết Tây.
Đối với người Việt, cái Tết có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống. Thật vậy, ngoài cái giờ phút thiêng liêng chuyển đổi của đất trời qua “Giao thừa” sang năm mới, mọi người trong gia đình mỗi người đều mang một tâm trạng riêng, nhớ tới những người thân đã khuất còn hiển hiện quanh đây, trong không khí ấm cúng của gia đình đêm ba mươi tết. Trên bàn thờ với đĩa ngũ quả khói hương nghi ngút, đan quyện linh hồn những người đã khuất với kẻ còn sống đang tưởng nhớ tới họ. Tết nhất cũng là dịp gia đình đoàn tụ xum vầy, cháu con dù đi làm ăn xa đến đâu nếu có phương tiện vẫn trở về mái ấm gia đình, để hàn huyên tâm sự chia xẻ những khó khăn trong cuộc sống.
Hàng năm cứ vào những ngày cuối tháng chạp (tháng 12 ÂL), ai cũng nao nao trong lòng về ngày Tết sắp đến. Qua ngày hai mươi là Tết đến nơi rồi, không biết năm nay những người thân xa quê hương ai sẽ về đón Tết, ăn Tết với gia đình? Để chuẩn bị vui đón cái tết đúng ý nghĩa của nó, gia đình nào cũng phải trang hoàng nhà cửa, sửa soạn bàn thờ Gia Tiên với đĩa “Ngũ quả” gồm 5 loại trái cây là trái sung, trái mãng cầu, trái dừa, đu đủ, xoài nói lên ước vọng tâm tư dân dã miền Nam. Cầu (mãng cầu) trời khấn phật cho vừa (dừa) đủ (đu đủ) xài (Xoài). Người Việt miền Bắc thì trong đĩa ngũ quả phải có một chùm quả Sung ước mong sự sung túc cho gia đình.
“ Mỗi năm hoa Đào nở,
lại thấy ông Đồ già ..
Nghiên mực tàu giấy đỏ,
bên phố đông người qua…
Ngày xưa dân gian thường nhờ ông Đồ viết đôi câu đối để chúc tụng, cầu mong tài lộc hạnh phúc theo ý của mỗi người: “Hoa tay thảo những nét, Như Phượng múa Rồng bay”. Năm nay “Đào lại nở” nhưng ít thấy ông Đồ xưa nên chúng ta phải nhờ mấy “ông Thư pháp trẻ” viết vài chữ, vài câu gọi là mừng xuân. Giới trẻ thì trước tết đã rủ nhau đến hiệu sách chọn mua thiệp Xuân để gửi chúc tết đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp với những lời chúc mừng nhân dịp Xuân về.
Ngày 23 tháng chạp là ngày ông Táo lên trời. Đêm giao thừa 30 tháng chạp, ông Táo lại trở về trần gian với gia đình vào thời điểm “năm cùng tháng tận” mang lại hy vọng cho gia chủ sang năm làm ăn may mắn phát tài phát lộc. Vào dịp cuối năm, gia đình nào cũng lo sơn quét nhà của đón Tết nhưng cũng không quên ra thăm viếng sửa sang sơn quét những ngôi mộ của người thân, đó chính là lúc tâm hồn người ta chùng xuống chạnh nhớ ông bà cha mẹ, nhớ những ngày tháng đã qua trong cuộc đời trong tâm thức mỗi con người. Lễ Tết còn thể hiện tình bà con nghĩa làng nước, gia đình này bàn với gia đình kia mổ chung một con heo, nấu chung nồi bánh chưng, bánh tét để được ngồi bên nhau canh nồi bánh kể chuyện râm ran cả một quá khứ tuổi thơ hiện về ngập tràn tâm tưởng.
Trước Tết nhà nào cũng lo đi sắm Tết, mua cho con trẻ bộ áo mới để mặc tết. Đúng giờ Giao thừa, gia đình đứng trước bàn thờ gia tiên để khấn vái ông bà Tiên Tổ phù hộ cho mọi người. Trong không khí trang trọng đặc biệt của ngày Tết, trên bàn thờ khói hương nghi ngút, con cháu lần lượt chúc tuổi các bậc trưởng thượng ông bà cha mẹ được sống lâu trăm tuổi, rồi ông bà cha mẹ lại mừng tuổi cho con cháu mau khôn lớn, học hành thành đạt … Sau đó, gia đình anh chị em rủ nhau đến chùa lễ Phật hoặc đến nhà thờ nhưng không quên tập tục dân gian xưa là bẻ một cành cây có lá non gọi là “Hái lộc” mới đem về nhà cho sang năm gia đình được nhiều may mắn, tài lộc.
Truyền thống dân gian Việt là “Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy” đã nói lên đạo hiếu của bổn phận làm con và truyền thống “Tôn sư trọng đạo” của người Việt. Ngày mồng một tết, sau khi chúc tuổi thọ cha mẹ, dân gian còn phải đến chúc tết các bậc trưởng thượng trong dòng họ rồi chúc tết bà con cô bác, hàng xóm láng giềng. Đi đến đâu, vào nhà nào cũng được tiếp đón linh đình nồng hậu hơn mọi ngày với nay đủ món ngon vật lạ ngày tết.
Ngoài ý nghĩa tâm linh của ngày tết, dân gian Việt thiên về cuộc sống tình cảm nên xem ngày tết như là một dịp để quên đi những vất vả gian truân của cuộc sống, quên đi những buồn phiền hiềm khích năm cũ đẻ vui vẻ đón tết, ăn tết. Không một ai trong chúng ta lại không nhớ đến nỗi vui mừng khi nhận những bao tiền “Mừng Tuổi” “lì xì” màu đỏ rực thời còn nhỏ dại của người thân mừng tuổi cho những đồng tiền mới tinh. Người Việt Nam chúng ta không ai có thể quên được không khí tưng bừng nao nức của ngày tết với câu đối đỏ, những bức tranh tết đỏ rực, những câu đối chúc tụng, những tràng pháo đỏ treo trên cây nêu hoặc trên cao để đúng giờ giao thừa nổ liên hồi để xua đuổi tà ma nên đêm ba mươi dân gian còn gọi là “đêm trừ tịch”. Tiếng pháo nổ dòn giã vang rền, có nơi còn múa lân để chúc mừng gia chủ khiến lòng người ai ai cũng hoan mừng chờ đón giây phút thiêng liêng trọng đại đó để “Tống cựu nghinh tân”, đạp cái xấu xa xui xẻo năm cũ để đón mừng một năm mới tràn đầy hy vọng. Làm sao có thể quên được những đôi môi mọng đỏ của các cô gái khi cắn hạt dưa. Cái thú ngồi cắn hạt dưa đến rát cả lưỡi mà vẫn cắn không biết chán, những tiếng cười ròn rã, những câu truyện râm ran suốt cả đêm. Tết nhất với đủ mọi món ăn nào là thịt mỡ dưa hành, giò chả rồi bánh chưng, bánh tét tha hồ mà ăn đến ngán ngẫm ê hề.
Nói đến Tết không ai không nhớ đến bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên vào những ngày cuối năm với cái tết dân gian thấm đậm truyền thống Việt: “Nêu cao, pháo đỏ bánh chưng xanh, thịt mỡ dưa hành …” của không khí ngày tết ở làng quê: “Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột. Loẹt loè trên vách bức tranh gà ..! Bên cạnh những tấm lòng chân thật còn có những lời chúc “Đầu môi-chót lưỡi” của những phường giả dối nên thi sĩ Tú Xương đã mỉa mai cay đắng:
“ Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu …!!!”
Mỗi lứa tuổi đón tết một cách khác, trẻ em thì vui mừng mong đợi ngày tết với những ước mơ đơn giản đời thường với bao tiền lì xì mừng tuổi, bộ quần áo mới và bánh thịt phủ phê năm ba ngày tết. Tuổi thanh xuân thì ngao du đây đó xa nhà, có người lo làm ăn sinh kế nên phải xa nhà tha hương nơi đất khách quê người, chợt một lúc nào đó cảm thấy hụt hẫng thiếu vắng một cái gì khiến tâm tư lắng đọng nhất là những chiều cuối năm nắng hanh vàng vọt bên thềm khiến lòng ta xao xuyến:
Chiều cuối năm gợi nhớ,
Trở về mái nhà xưa …
Ngập tràn bao kỷ niệm,
Thương biết mấy cho vừa ..!
Chiều cuối năm gợi nhớ,
Một thoáng buồn xa đưa …
Những người thân thương cũ,
Chờ ai đón Giao thừa ..?!
(Phạm Trần Anh)
Thi sĩ Thế Lữ cũng đã trải qua những ngày tết xa nhà nơi gác trọ mới cảm thấy một nỗi buồn thấm thía:
Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ ran ...
Rũ áo phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang ..!
Với tuổi già thì những ngày cuối năm biết bao nhiêu buồn vui cuộc sống đủ để trầm ngâm về thế thái nhân tình, về cõi nhân sinh riêng mình chứng nghiệm! Nhìn bàn thờ khói hương nghi ngút, nhớ những người thân đã qua đời, những bạn bè không còn nữa, chậm rãi vuốt chòm râu bạc nhấp một hớp rượu rồi khề khà ngâm vịnh:
“ Nén hương khói toả thờ Tiên Tổ,
Chén rượu ngâm nga chúc bạn bè ...!”
Vào tuổi “Thất thập cổ lai hi”, với cái nhìn thấu suốt toàn diện cuộc đời sau bao năm thể nghiệm cuộc sống để cuối đời nhận chân được qui luật muôn đời của con tạo xoay vần, của sinh lão bệnh tử nên bình thản chấp nhận tuổi già xồng xộc đến, chờ đón cái chết một cách ung dung tự tại như bài kệ “Cáo tật Thị chúng” của thiền sư Mãn Giác:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai ..
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai ..
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai ..!
Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa tươi ..
Việc đời qua trước mắt,
Trên đầu già đến rồi …
Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng mãi,
Đêm qua sân trước một cành mai ..!
PHẠM TRẦN QUỐC VIỆT