Chuyện lạ đời chưa từng xảy ra.
Hình như cho đến nay, chưa hề có một cuộc lễ nào của Công Giáo, mà Ban Tổ Chức phải ra thông cáo thận trọng dặn dò các tín hữu đi tham dự thánh lễ: “đừng mang theo những gì không cần thiết”, như trường hợp lễ nhậm chức Phó Tổng Giám Mục Hà Nội của Đức Cha Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn ngày 07-05-2010 vừa qua. Nay thì Ban Tổ Chức có thể thở phào nhẹ nhõm, vì đã không có gì đáng tiếc xảy ra. Ta hãy thử xem có thể học được gì từ buổi lễ khác thường này.
Chiên chứ không phải cừu
Sở dĩ đã không có gì đáng tiếc xảy ra vì giáo dân Việt Nam vốn có tinh thần kỷ luật rất cao. Ngay cả lúc xảy ra những vụ dầu sôi lửa bỏng như Thái Hà hay Tam Toà, họ vẫn biết tự chế. Nhưng cái mới, cái lạ là ngày nay giáo dân, tuy là những con chiên, nhưng không còn chấp nhận là những con cừu, ai nói gì cũng nghe, ai bảo sao cũng được. Cứ đọc bao nhiêu bài viết trên mạng trong thời gian vừa qua thì thấy rõ. Những khi cần, và có dịp để bày tỏ ý kiến, giáo dân không còn sợ nữa. Và họ có dư thừa sáng kiến để bày tỏ nguyện vọng của mình, tình cảm của mình. Lễ nhậm chức Giám mục Phát Diệm của Đức Cha Nguyễn Năng đã là một ví dụ. Nay đến lễ nhậm chức Phó Tổng Giám Mục Hà Nội của Đức Cha Nhơn. Trước mặt tiền nhà thờ chính toà Hà Nội, ta thấy một biểu ngữ nền đỏ chữ vàng Hân hoan chào mừng Đức Tân TGM Phó Phêrô. Biểu ngữ này chắc chắn là của Ban Tổ Chức. Nhưng tội nghiệp cho cái biểu ngữ đó: nó mới lẻ loi làm sao, đơn độc làm sao, giữa một rừng biểu ngữ nền vàng chữ đỏ:
– Tôn vinh Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt
– Chúng con yêu mến Đức Tổng Giu-se
– Chúng con đồng hành với Đức Tổng Giu-se
– Đức Tổng Ngô Quang Kiệt mới là người chủ chăn đích thực
– Đức Cha Giu-se Ngô Quang Kiệt mãi mãi là Tổng Giám Mục của chúng con
– Tinh thần Ngô Quang Kiệt bất diệt, v.v…
Được biết là trước lễ nhậm chức này, đã có một thỉnh nguyện thư với trên 15,000 chữ ký (nếu có thời gian và điều kiện để gom chữ ký, chắc con số này sẽ tăng lên rất nhiều lần). Nội dung thư này là xin Đức Giáo Hoàng đừng chấp nhận đơn xin từ chức của Đức Cha Ngô Quang Kiệt, nhưng tiếp tục giữ ngài lại trong chức vụ Tổng Giám Mục Hà Nội. Nghe đâu có vị quan chức người Việt bên Vatican nghe biết sự việc, đã vội bắn tiếng: làm như thế là chống đối Toà Thánh! Đúng là trò nhát con nít, vì bày tỏ nguyện vọng và chống đối là hai việc khác nhau. Và những con người nặng óc giáo sĩ trị, thì chỉ muốn giáo dân mãi mãi là những trẻ vị thành niên, và rất sợ những tín hữu trưởng thành. Nhưng điều đáng ngạc nhiên, mà lại rất đáng mừng, là hôm nay giáo dân, rõ ràng nhất là tại Hà Nội, không chỉ biết vâng lời, nghĩa là tuân lệnh, nhưng còn biết đối thoại, biết bày tỏ ý kiến của mình, biết đề đạt nguyện vọng của mình.
Trên bậc thang quyền bính, thì giám mục, đến linh mục, rồi mới đến giáo dân. Nhưng những gì ta chứng kiến trong cuộc lễ hôm nay cho ta hiểu tại sao Đức Cha Lê Đắc Trọng, về cuối đời, lại nhận định: giáo dân hơn linh mục, linh mục hơn giám mục. Giá mà nhận định này cũng là nhận định nếu không phải của mọi giám mục, thì cũng là một số nhiều nhiều, và nhận định đó được đưa ra sơm sớm trước khi gần nhắm mắt, thì phúc cho Giáo Hội biết chừng nào !
Dấu ấn Ngô Quang Kiệt
Câu hỏi đặt ra là do đâu mà Đức Tổng Kiệt lại được giáo dân ngưỡng mộ, kính yêu đến như vậy. Ngài không thuộc hàng khoa bảng, bằng cấp cùng mình, không phải là người có tài hùng biện để thu hút, mê hoặc người nghe. Năm năm làm Tổng Giám Mục Hà Nội là thời gian quá ngắn để đáng được lưu danh bằng cách đặt tên mình cho một công trình kiến trúc như hội trường tại một Trung Tâm Mục Vụ. Thế nhưng cứ nhìn rừng biểu ngữ được giương cao, nhìn những tấm hình của ngài được các tín hữu ôm trước ngực một cách vừa kính cẩn, vừa trìu mến, ta có thể hiểu được dấu ấn Đức Tổng Kiệt để lại trong óc, trong tim người giáo dân Hà Nội sâu đậm đến mức nào. Có lẽ tấm biểu ngữ “Tinh thần Ngô Quang Kiệt bất diệt” đã gói ghém mọi lý do của lòng cảm phục sâu sắc và yêu mến thiết tha mà giáo dân Hà Nội dành cho ngài. Tinh thần Đức Tổng Kiệt được thể hiện qua cách ngài làm mục vụ: không quản ngại đến chia sẻ với người dân khi họ gặp khó khăn thử thách, chẳng hạn lúc xảy ra thiên tai, đến thăm viếng ủi an khi họ bị đập đánh, bị thương tật, mạnh dạn tuyên bố sẵn sàng thay thế cho ai vì nghe lời ngài kêu gọi cầu nguyện mà phải đi tù.
Liều chết vì đoàn chiên
Nhưng có lẽ quan trọng nhất là Đức Tổng Kiệt đã dám đứng về phía người nghèo, người bị lường gạt, bị bóc lột, bị áp bức, để dõng dạc tuyên bố trước bạo quyền: Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là ân huệ xin-cho. Tìm ra được một gương mặt quả cảm trong hàng ngũ lãnh đạo hôm nay là chuyện quá hiếm. Ngài không ngoảnh mặt lên trời mà nói sảng, không dừng lại nơi những lý thuyết cao xa, những nguyên tắc trừu tượng. Khi mục tử bất chấp hiểm nguy cho tính mạng, can đảm đứng ra bênh vực đoàn chiên, thì lòng kính trọng và ưu ái được dành cho ngài chẳng có gì khó hiểu. Mục tử không phải là kẻ chăn thuê, chính Đức Giê-su đã từng cảnh báo (Ga 10,12). Đức Tổng Kiệt đã thể hiện lời giáo huấn của Chúa Giê-su: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Nay ngài ra đi, nhưng tinh thần của ngài sẽ tồn tại mãi.
Lời người ra đi
Trong buổi lễ nhậm chức, Đức Tổng Kiệt là người giới thiệu Tân Tổng Giám Mục Phó. Nghe giọng nói đĩnh đạc, đanh thép của Đức Tổng Kiệt, ta không thể nghĩ đó là giọng nói của một người mệt mỏi vì mất ngủ triền miên. Lời giới thiệu của ngài ngắn gọn, nhưng đầy đủ những điều cần nói, và nói rất hay. Một áng văn tuyệt vời! Quá nhiều thiệt thòi và quá nhiều đau khổ, đó là nhận định của ngài về Tổng Giáo Phận Hà Nội. Tuy là gốc Bắc, nhưng ngài sinh trưởng ở miền Nam. Ra làm giám mục Lạng Sơn, rồi về Hà Nội, ngài có điều kiện để so sánh xã hội và nhất là Giáo Hội ở hai miền Nam Bắc. Nếu hỏi: Quá nhiều thiệt thòi, quá nhiều đau khổ do đâu, thì câu trả lời là quá rõ: là vì miền Bắc hơn miền Nam 30 năm xã hội chủ nghĩa (từ 1945 đến 1975). Đứa con trong gia đình chịu thua thiệt thì cha mẹ phải thương hơn, phải quan tâm chăm sóc hơn. Như thế nào? Thì đây câu trả lời: “Từ nay ngài (Đức Tân Tổng Giám Mục Phó) không chỉ đồng cảm hay đồng hành với anh chị em nhưng sẽ đồng sinh đồng tử với anh chị em, với giáo phận. Đây không phải là một kiểu nói bóng bảy của một người làm văn, mà là xác tín sâu xa, hơn thế nữa là kinh nghiệm xương máu của người mục tử sắp phải chia tay với đoàn chiên, và cũng là một lời cầu chúc, một lời nhắn gửi, nếu không nói là một lời trối trăn cho người đến thay thế.
“Chàng rể” mới
Chiếc nhẫn của giám mục biểu trưng sự gắn bó keo sơn của giám mục với giáo phận của mình, cũng như chiếc nhẫn cưới của cô dâu hay chàng rể. Trong Thánh lễ nhậm chức ngày 7 tháng 5, trông dáng dấp “chàng rể” 72 tuổi, bước chân nặng nề, vẻ mặt căng thẳng, mắt nhìn xuống đất, ta không thấy được vẻ tự tin của người chủ đi về nhà mình. Đọc bài chia sẻ của ngài, ta có cảm tưởng ngài đang đi dây: cố gắng thế nào cho khỏi ngã, khỏi té: một bài chia sẻ Lời Chúa mang tính kinh điển có thể áp dụng cho bất cứ dịp lễ nào. Trong hoàn cảnh khó khăn tế nhị hôm nay, ta không thể đòi hỏi ngài nhiều hơn nữa. Trước cũng như sau Thánh Lễ, nhìn ngài bước đi lầm lũi, trông thật cô đơn. Giá mà kỳ đại hội các giám mục tại Xuân Lộc tháng 10 năm 2008 mà các thành viên trong Hội Đồng, đứng đầu là Đức Cha Chủ Tịch, nghĩ đến giám mục cô đơn Ngô Quang Kiệt, thì ngày hôm nay, Đức Tân Phó Tổng Giám Mục Hà Nội đã không phải cô đơn như thế. Nhưng dù sao thì sự cũng đã rồi!
LM Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh.
onsdag 19. mai 2010
Abonner på:
Legg inn kommentarer (Atom)
Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar