onsdag 22. juni 2011

VNCH - Biết Mới Tiếc …


VNCH - Biết Mới Tiếc …

Sau 36 năm Miền Nam rơi vào tay cộng sản, ngày nay không chỉ những người sinh sống tại Miền Nam Việt Nam trước đây, không công nhận lá cờ đỏ sao vàng của đảng cộng sản Việt Nam mà ngay cả những người trong nước cũng không tôn trọng lá cờ này mặc dù đó là lá cờ đang tung bay khắp lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Người Việt hải ngoại tôn trọng lá cờ vàng ba sọc đỏ, không chỉ thuần túy vì đó là lá cờ của Việt Nam Cộng Hoa, của chính phủ Miền Nam Việt Nam mà vì đó là một biểu tượng cho một quốc gia mà đáng lẽ dân tộc Việt Nam phải có, một chính phủ tự do dân chủ, một nền kinh tế thịnh vượng, một xã hội công bằng bác ái mà lá cờ đỏ và cái chính phủ Việt gian cộng sản ngày nay tại Hà Nội sau 36 năm làm chủ đất nước đã chứng minh những điều ngược lại.

Dĩ nhiên, lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ mà những người sinh sống tại Miền Bắc không quen mắt, không chấp nhận dù họ có thù ghét chế độ cộng sản mà họ đang sinh sống đến tận xương tủy. Người ta không thể chấp nhận một biểu tượng mà người ta không biết, không hiểu, không có những kỷ niệm đẹp, không hy sinh xương máu để bảo vệ nó. Nhất là khi chỉ một sớm, một chiều, những người Việt Nam không chấp nhận Cộng Sản đã mang theo lá cờ vàng trên đường lưu vong, dù phải trải qua những nơi địa ngục trần gian là những nhà tù của cộng sản, và đã phải để lại sau lưng quê hương yêu dấu, mảnh vườn nhỏ, mái nhà ấm cúng, con sông hiền hoà, sau khi đã được chứng kiến chủ nghĩa xã hội cộng sản tiêu biểu cho văn hoá, đạo đức, luân lý Việt Nam phân hoá dần dần trước mắt. Việt Nam Cộng Hoà mặc dù là một xã hội chưa hoàn bị nhưng đã hình thành được mọi cơ cấu của một xã hội văn minh, công bình và dân chủ. Người Việt sống tại Miền Bắc đói khổ, đã phải hy sinh mọi thứ cho nhu cầu chiến tranh theo sự tuyên truyền của cộng sản nên có thể nói hầu hết đều không biết gì về Việt Nam Cộng Hoà.

Việt Nam Cộng Hòa không phải là Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ… mà là xã hội Miền Nam Việt Nam xây dựng trên căn bản giáo dục. Đó là những cô bé, cậu bé đến trường mỗi buổi sáng, mặc đồng phục với nét mặt tinh anh trong sáng của tuổi thơ. Đó là những cô nữ sinh áo trắng dễ thương và ngoan ngoãn, thuần hậu trong gia đình. Đó là những thầy, cô giáo sống và hãnh diện với thiên chức của một bậc thầy và được mọi người trong xã hội kính trọng. Trước 1975 Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo nhiều chuyên viên với tiêu chuẩn quốc tế, văn bằng của VNCH được chính phủ Hoa Kỳ, Pháp và nhiều quốc gia khác công nhận tương đương hoặc gần tương đương. Nghề thầy do đó không phải là một thứ… “chuột chạy cùng đường mới vào sư phạm” như ngày nay. Nhưng trong ký ức của tuổi trẻ miền Nam Việt Nam thì Việt Nam Cộng Hoà là những con đường ngợp bóng lá me, các nam sinh đi theo nữ sinh mỗi khi tan học nhưng không dám có một cử chỉ sàm sỡ, một lời nói vô lễ. Phải nhắc đến điều này vì những kỷ niệm đẹp của thời thiếu niên thường ghi sâu trong ký ức người ta suốt đời:
Lời ru nào níu được
Lúc những cánh me xanh
Bay mềm con lộ nhớ
Em sau khung cửa đạn soi
Sách ngăn tầm mắt đời ngoài lộ cao
Khi không lòng bỗng dạt dào
Sông tôi cạn nước nguồn nào bỗng đi
(Bài cho người trong vườn dược thảo, thơ Du Tử Lê)

Cuộc chiến càng thảm khốc thì lại có biết bao thanh niên theo tiếng gọi của núi sông lên đường nhập ngũ để bảo vệ một hậu phương bình yên trong đó có cha, có mẹ, có anh, có em, có cái gia đình nhỏ bé của mình. Đó là lý tưởng. Đó là những chàng trai anh hùng của thế hệ. Hàng trăm ngàn bài hát, bài thơ đã được viết ra trong giai đoạn này và cho đến nay vẫn còn là nguồn cảm hứng bất tận cho toàn nước Việt Nam thống nhất. Nó chính là “nhạc vàng” của văn hoá Việt:

Anh rót cho khéo nhé
Kẻo trúng nhằm nhà tôi
Nhà tôi ở cuối thôn Đoài
Có giàn thiên lý có người tôi thương.
(thơ Yên Thao)

Hay
Năm năm rồi đi biệt
Đường xưa chưa lối về
Thương người em năm cũ
Thương goá phụ bên song
(thơ Phạm Văn Bình)

Hình ảnh của những tân sinh viên sĩ quan trong quân phục đại lễ ngày tốt nghiệp ở Đà Lạt, ở Nha Trang, ở Thủ Đức là những hình ảnh tinh anh của dân tộc Việt, không phải là hình ảnh của “nợ máu với nhân dân” sau ngày 1975 đâu. Họ đã chọn binh nghiệp để bảo vệ từng tấc đất của quê hương đang bị dày xéo vì bom đạn gây ra bởi bọn lãnh tụ cộng sản vô thần. Bây giờ sau 36 năm nhìn lại, nhìn thế hệ thanh niên tan rã mệt mỏi, tương lai không lối thoát của Việt Nam thời cộng sản mà thương cho họ không biết là bao nhiêu. Thương tuổi thơ của những người không lý tưởng, chỉ nắm “cái đuôi của đảng cộng sản Việt Nam” mà nhìn ra thế giới bên ngoài và trở thành một thế hệ “vô cảm” đến rợn người. Đời sống chỉ còn là sự tranh đua để đạt được điạ vị trong đảng vì quyền đi với tiền. Bằng được mua bằng tiền chứ không cần học để có kiến thức. Trong một quốc gia nghèo đói vào hàng nhất thế giới nhưng có hàng nửa triệu “tiến sĩ ma” làm trò cười cho thế giới.

Xã hội Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 không phải là hoàn toàn trong sạch, không có bóng dáng của tham nhũng nhưng tham nhũng không phải là một chính sách để cai trị nước như đảng cộng sản Việt Nam ngày nay. Người dân Miền Nam sống hiền hoà trong tôn ti trật tự, trong đời sống hàng ngày, họ không phải đối đầu với cảnh sát, công an. Không phải bất cứ khi nào có việc liên hệ với chính quyền thì phải trả tiền cho công an từ xã, huyện, tỉnh đến trung ương. Khi vào bệnh viện, không có việc đút lót tiền thì mới có được giường nằm. Trẻ con học giỏi thì được xếp hạng cao, được cho đi du học dù là con nhà nghèo. Sĩ quan đánh trận oai hùng, gan dạ thì được thăng thưởng. Nhà cháy thì được cứu hỏa chữa cháy chứ không phải trả tiền mới được chữa cháy.

Về chính trị, Việt Nam Cộng Hoà là một nước dân chủ tự do thực sự mặc dù cũng có những khuyết điểm. Trước 1975 tại Miền Nam Việt Nam, chính phủ công nhận đối lập, cho biểu tình chống đối tự do nên từ những năm 1965 đã có nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ, chống Thiệu Kỳ, chống tham nhũng thoải mái của sinh viên học sinh, của nhân dân. Có những ông giáo sư đại học nhận mình là thành phần thứ ba, theo chủ thuyết xã hội chứ không phải là chủ thuyết Mác Lê công khai ra báo, viết sách, viết luận án đại học lên án chính phủ, lên án chiến tranh, nhưng lại ve vãn cộng sản vì lý luận ấu trĩ rằng chính phủ Miền Nam bị Mỹ giựt dây, muốn chấm dứt chiến tranh thì phải nói chuyện với Hà Nội. Kinh tế thương mại tự do không bị chính phủ kiềm chế, về an ninh xã hội người dân được luật pháp bảo vệ, cảnh sát công an ức hiếp nhân dân bị truy tố ra trước pháp luật ngay.
Xã hội Miền Nam tự do tạo môi trường để tinh anh phát tiết trên mọi phương diện. Ngày nay, sau 36 năm nhìn lại, đảng cộng sản Việt Nam vẫn không biết rằng khi giam hãm, đầy đọa hàng triệu người sống ở Miền Nam có liên hệ với chính quyền đem nhốt vào ngục tù, họ đã hủy diệt đi hầu hết những nhân tài về mọi mặt của đất nước, những trí thức khoa bảng mà có thể vài trăm năm sau, Việt Nam chưa thể có lại. Miền Nam Việt Nam không chỉ “sản xuất” có hai “thiên tài” là Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng đâu. Nhưng Việt cộng chỉ “chấp nhận’ có hai người này vì một anh thì trốn lính, sống hèn mọn trong sự che chở bao dung của chính phủ Miền Nam tôn trọng nghệ sĩ, còn người kia thì mang bệnh tâm thần. Cứ đếm lại số sách đã được xuất bản tại Miền Nam trong 20 năm từ 1954 đến 1975, từ khoa học đến chính trị, từ truyện ngắn, truyện dài, thơ văn đến âm nhạc rồi so sánh với 60 năm cộng sản CAI TRỊ Việt Nam thì sẽ hiểu.

Do đó, so với xã hội Việt Nam dưới thời Việt gian cộng sản thì xã hội Việt Nam Cộng Hoà là thiên đường, là con đường mà Việt Nam cần nhiều thập niên mới “back to the future” được. Những người Việt Nam sống tại Miền Nam trước 1975, biết rõ điều này. Lá cờ vàng và danh hiệu Việt Nam Cộng Hoà vì sao vẫn được họ sùng kính dù Việt Nam Cộng Hoà đã mất đi phần đất cuối cùng đã 36 năm.

Vì không được sống, không được trưởng thành, không được hoạt động chính trị, văn hoá hay sống đời quân ngũ của xã hội Miền Nam nên không có gì ngạc nhiên khi những người trí thức Cộng Sản thù ghét bọn cầm quyền cộng sản vì đã hất cẳng họ, đã đẩy họ ra khỏi nước, rồi vì hậm hực nên suốt ngày ngồi viết những điều phản đối bọn cầm quyền cộng sản nhưng vẫn vinh danh bác Hồ và “kẻ cả” xem cộng đồng Người Việt hải ngoại là những kẻ bại trận, lá cờ vàng là vô nghĩa nên không muốn đoàn kết để lật đổ chế độ độc tài cộng sản mà họ là một thành phần cốt cán trước đây. Sống nơi xứ sở tự do này, chúng ta nên tôn trọng họ. Thái độ không muốn đứng chung trong hàng ngũ với Người Việt quốc gia cũng là một điều dễ hiểu: bối cảnh lịch sử do đảng cộng sản Việt Nam từ 60 năm qua đã chia dân tộc và đất nước Việt Nam ra thành nhiều khối: trí thức, công nhân, cộng sản, quốc gia, vv…vv… Điều khó hiểu là những người cán bộ đảng trung kiên bị thất sủng như ông Nguyễn Minh Cần, ông Bùi Tín, ông Vũ Thư Hiên thường viết bài dạy Người Việt quốc gia, những công dân của Việt Nam Cộng Hoà chống cộng trong khi họ nhìn thấy trước mắt, cái đảng tạo ra họ, cho họ một vị thế, một tên tuổi, chính cái đảng đó đang làm tan rã đất nước và con người Việt Nam. Cái đảng bất nhân đó đang chia 85 triệu Người Việt ra làm hai khối: đại đa số quần chúng bình dân, không có phương tiện về an sinh xã hội, không có giáo dục, sống đời nô lệ phục vụ cho một thiểu số cán bộ tham ô mà ngôn ngữ Việt cộng gọi là “quan tham”. Cái đảng bất nhân đó đang đưa đất nước đến cái họa diệt vong trong tay Tàu Cộng.

Sau 1975, Người Việt Quốc Gia, những công dân của Việt Nam Cộng Hoà vì thất thế nên chúng gọi là “ngụy”, đày ải quân dân cán chính trong rừng già để chết dần chết mòn, gia đình ly tán, con cái thất học, nên bằng mọi cách Người Việt Quốc Gia phải ra đi và bằng ý chí cương cường quật khởi cuả dân tộc Việt Nam, khối Người Việt Tự Do, những công dân cuả Việt Nam Cộng Hoà đã chọn thế giới làm lãnh thổ, phát triển tài lực và trí tuệ, ngăn chận được sự tuyên truyền và bành trướng của bọn Việt gian cộng sản khắp nơi. Có mà nằm mơ, người ta cũng không thể nghĩ rằng những công dân Việt Nam Cộng Hòa trong điều kiện sinh sống dù lưu vong, dù trong lao tù cộng sản đã giữ vững được ý chí chống cộng đến thế. Thế hệ thứ hai của cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản, của những công dân của Việt Nam Cộng Hòa vẫn giữ được nguyên vẹn đạo đức và luân lý của Việt Nam. Trong mọi gia đình, những đứa trẻ không nói rành tiếng Việt hay nói tiếng Việt với giọng ngọng nghịu của người bản xứ nhưng đều là những đưá trẻ ngoan ngoãn vì chúng biết rằng cha mẹ chúng phải lưu vong, phải hy sinh nhiều để chúng được lớn lên ở một đất nước tự do, có cơ hội để phát triển trí tuệ, những điều chúng sẽ không có được nếu sống dưới một chế độ cộng sản, như Việt Nam cộng sản ngày nay, như Cuba, như Bắc Hàn, hay ngay cả Trung cộng…

Nhưng những người như ông Nguyễn Minh Cần, ông Bùi Tín đâu phải là ngụy. Các ông này là những “trí thức cộng sản” lớn lên trong lòng chế độ. Đáng lẽ các ông đừng hèn, hãy ở lại Việt Nam, hãy kêu gọi nổi dậy, hãy dẫn dắt toàn dân chống lại cái đảng cướp đã tạo ra các ông, hãy cho toàn dân biết ‘chúng” đã đi sai… đường cách mạng. “Con đường Bác đi” cuả các ông không lẽ lại là con đường bi đát, đưa hàng trăm ngàn gái Việt ra hải ngoại lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan, làm mãi dâm mới có cơm ăn? “Con đường Bác đi” không lẽ lại là con đường dâng nước Việt cho Tàu? Các ông hãy can đảm đứng dưới ngọn cờ do các ông lựa chọn miễn là các ông bảo vệ được dân, được đất nước khỏi rơi vào tay giặc là được. Hãy hành động như các chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã làm trước khi bị tước súng vì một thế cờ chính trị thế giới: họ đã đứng lên, đã anh dũng hy sinh, đã chống lại áp bức của chính quyền để bảo vệ dân, bảo vệ từng tấc đất Miền Nam để rồi đảng các ông đã lừa gạt dân Miền Bắc, đưa họ vào Nam, đem sinh mạng làm bia đỡ đạn để “giải phóng” một Miền Nam trù phú, một xã hội tôn ti trật tự, đạo đức văn hoá, luân lý cần được bảo tồn.

Thật ra, tháng 4, 1975, Người Việt Miền Nam đã quá mệt mỏi với một cuộc chiến không lối thoát giữa hai ý thức hệ tự do và cộng sản. Cái thành trì bảo vệ thế giới tự do đã không còn đứng vững sau khi tổng thống Hoa Kỳ Nixon qua gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Giữa một bên chiến đấu với viện trợ có điều kiện và một bên được viện trợ vô điều kiện (?) của khối cộng sản, sự chiến thắng khó lòng ở về phía VNCH.

Khi buông súng năm 1975, Người Việt Miền Nam đã muốn “Hãy để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” để hai miền cùng nhau xây nước và dựng nước chứ. Nhưng việc gì đã xãy ra sau đó, chắc Ban Biên Tập của Đàn Chim Việt, nơi phát tán những bài viết của ông Nguyễn Minh Cần và “người bạn trẻ” Tiên Sa chắc đã biết rõ hơn ai hết: hàng triệu quân dân cán chính Miền Nam bị đầy vào lò “cải tạo”, gia đình họ bị đẩy đi vùng kinh tế mới, cướp nhà, cướp của, con cái họ không được đến trường. Cho đến ngày nay, những người sinh sống tại Miền Nam vẫn còn là những công dân hạng hai trên đất nước mình.

Vì nghĩ rằng “Hãy để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” nên hàng triệu người Miền Nam đã buông súng, xếp hàng đi tù cải tạo vì nghĩ rằng một giai đoạn chiến tranh tương tàn đã đi qua, đi trình diện một tháng rồi về sống đời công dân của một quốc gia độc lập và thống nhất. Chuyện gì đã xảy ra cho họ, cho những người sinh sống tại Miền Nam sau 1975?

Không lẽ ngày nay, trong công cuộc cứu nước, khi không còn ở vị thế cầm quyền thì những công dân của Việt Nam Cộng Hoà không thể là một tiếng nói đối lập với cái nhà cầm quyền vô nhân đang cai trị đất nước Việt Nam hay sao? Chúng ta sẽ đấu tranh để những người dân của đất nước Việt Nam dân chủ và tự do có quyền lựa chọn cho họ một đảng phái cầm quyền, họ sẽ biểu quyết về một lá cờ tượng trưng cho đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay có 3 triệu đảng viên hầu hết là bọn thất học, tham ô. Cứ nhìn vào xã hội Việt Nam ngày nay thì thấy rõ. Cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản ở nước ngoài có 3 triệu người nhưng đồng thời họ cũng là công dân của những quốc gia tự do và dân chủ. Việc họ phải sống lưu vong ở hải ngoại không phải là một việc trốn chạy hèn nhát mà là hậu quả tất nhiên cuả một cuộc chiến tương tàn có kẻ thua, người thắng. Khi họ tập hợp để nói lên tiếng nói của Người Việt không chấp nhận chế độ cộng sản, một tiếng nói đối lập là một việc làm cần thiết khi Người Việt không thể làm được điều này ở quê hương. Tiếng nói đối lập này và lá cờ vàng trong giai đoạn này chắc hẳn là cần thiết cho công cuộc đấu tranh hơn là tiếng nói “lèm bèm” của những ông đảng viên thất sủng “chạy trốn” ra nước ngoài chứ?

Hy vọng bài viết này sẽ giải thích được phần nào tại sao Người Việt không cộng sản không thể “Để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” được. Vì đó là tương lai của đất nước Việt Nam. Đừng bàn cãi trên những trang giấy hay trên những trang mạng điện tử. Thực tế chứng minh cho hành động. Trong 60 năm, đảng cộng sản Việt Nam đã tàn phá đất nước và con người Việt Nam đến tận cùng đáy vực, khi các ông “trí thức cộng sản” đủ hết hèn để la làng (nhưng cũng phải núp đàng sau cái xác còn thở của “đại tướng”) về cái hoạ mất nước mà cũng chỉ như tiếng rên trong lăng Ba Đình cuả cái xác thối rữa chưa chôn thì chúng ta có cần bàn cãi thêm về cờ vàng hay cờ đỏ không? Ngược lại, chỉ trong 36 năm, cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản đã “bành trướng” điạ bàn hoạt động khắp năm châu, những khu phố Việt Nam sầm uất, vững mạnh hơn các ChinaTown của người Tàu, mỗi năm cộng đồng Người Việt gửi về nuôi thân nhân hàng chục tỹ đô la. “Chạy trốn, thua trận” mà làm nên nghiệp lớn như vậy trong khi bọn cộng sản Việt Nam thì co cụm lại trong các toà sứ quán, ra đường thì mắt la, mày lét sợ người dân bắt gặp. Lãnh tụ ngoại giao như tên Nguyễn Xuân Việt ở Jordanie thì hành xử như bọn đầu gấu, du đãng khiến thế giới phải bàng hoàng và người nữ công nhân 20 tuổi bị xúc phạm đã được Hoa Kỳ cho nhập cảnh vì lý do chính trị thì đủ hiểu.

Dĩ nhiên, ở đâu, xã hội nào thì cũng gồm đủ con gà, con công, con phụng đừng nhìn vào đàn gà của cộng đồng Việt Nam hải ngoại rồi kết luận tất cả chỉ là một đàn gà mà lầm to. Nhưng có một điều có thể coi như là chân lý “không thay đổi” dù bên này hay bên kia bờ Thái Bình Dương: đảng viên cộng sản thì anh nào cũng hèn, cứ phải dựa vào nhau để sống còn, để được làm “quan tham” bóc lột dân lành. Chúng đoàn kết theo đúng tôn chỉ “tranh đấu đến cùng với kẻ thù, chỉ hoà giải với nội bộ”. Trong khi nếu vì tương lai dân tộc thì phải tìm cách liên kết mọi người với nhau chứ. Ra đến hải ngoại vẫn còn sợ lá cờ vàng nhưng tiền bạc của cờ vàng thì đưa lên mặt mà hít hà. Khinh bọn “thất trận, giặc ngụy” bỏ chạy, nhưng lại sợ chúng nó trở thành một thế chính trị đối lập trở về nhưng vẫn ra chính sách ve vãn Việt kiều. Chơi với cái đầu “ngụy” thì không dám chơi chỉ muốn chơi với các “khúc ruột thừa” của họ?

Việt Nam Cộng Hoà phải sống mãi trong lòng người Việt không cộng sản là vì thế! Vì không muốn nhận sự nhục nhã là công dân của một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, muốn bảo vệ ngư dân cũng phải xin phép “thằng” Tàu cộng!

Chúng ta hãy hành động. Tự cứu mình và cứu những người khác nữa. Vì tương lai, xin tất cả hãy tìm cách liên kết với nhau trong tình dân tộc.

Đào Nương.

Một Bước Chuyển Thật Chăng ?



Một Bước Chuyển Thật Chăng ?

Biển Đông cuộn sóng, quân xâm lăng truyền kiếp lại đang táo tợn, dồn dập, thách thức sự tồn vong của đất nước và thách thức nhân phẩm mỗi người Việt Nam chúng ta.

Trong không khí vừa sục sôi sục căm giận vừa lo âu của dân chúng, bài báo Những bước đi có tính toán, (ký tên Tấn Vũ) xuất hiện trên Báo điện tử của ĐCSVN có thể xem là một bước ngoặt rất mới, rất có ý nghĩa trong quan điểm và thái độ của Đảng đối với sự xâm lấn của Trung quốc và với toàn bộ mối quan hệ Việt-Trung.

NẾU xin được nhấn mạnh chữ nếu) những lời này là nhận thức và quyết tâm thật sự của Đảng để biến thành hành động trong thời gian tới thì biết đâu đây chẳng là một tín hiệu đáng mừng về một sự chuyển đổi, cho thấy khả năng hồi sinh hiếm thấy của Đảng trong cuộc hồi sinh của Dân tộc, sẽ kết lại thành dinh lũy phòng thủ kiên cường khi Dân tộc đã đứng bên bờ vực.

Tại sao việc nói đúng sự thật và có dũng khí của một bài báo thôi lại đáng quan tâm đặc biệt như thế? Vì đó là báo Đảng, một Đảng mà cách xử sự trước họa xâm lăng từ phương Bắc lâu nay cứ mềm yếu triền miên, bưng bít sự thật, tôn kẻ xâm lăng làm láng giềng tốt, đồng thời đã có những bằng chứng về sự không song hành, không đồng bộ giữa lợi ích của Đảng và lợi ích Dân tộc. Tình hình đã đến nước khẩn trương như hiện nay thì thiết tưởng không gì tốt hơn là phải nói thẳng, nói thật với nhau mong góp phần làm sáng tỏ nhận thức chung trước những thời cơ và hiểm họa của đất nước.

1/ Sự khiếp nhược trường kỳ gây đau thương vĩnh viễn cho Dân tộc:

Tình hình xã hội lâu nay bị dồn nén đáng ngai. Anh láng giềng phương Bắc to xác nhưng tham lam và xấu thói bao năm nay cứ đeo cái mặt nạ “láng giềng hữu nghị” để xục xạo khắp đất nước ta, cài cắm khắp nơi, bủa vây tứ phía, xiết gọng kìm toàn diện…, nay đã đến lúc hắn chuyển thế trận, vứt phăng cái mặt nạ thân yêu giả tạo ấy cho đỡ vướng, để tiện việc hành xử một cách côn đồ cấp tập.

Dân đã nhìn thấy nguy cơ từ lâu và nóng lòng chờ đợi, trong khi những người cầm quyền thì đi đâu cũng đội lên đầu 16 chữ vàng , hớn hở tuyên truyền về hữu nghị và thắng lợi, nhộn nhịp phát triển nhiều hợp đồng, gia tăng nhiều mối quan hệ rất nguy hiểm, có ai lên tiếng báo động thì bảo “an ninh vẫn ổn định, chẳng có gì mới”, ai biểu tình giữ nước thì đuổi học, cho Công an bắt bớ, nhốt vào nhà tù…Quân đội không bảo vệ được ngư dân nghèo đánh cá trên lãnh hải của mình, lại bảo quân đội không can thiệp vào chuyện dân sự, quân đội trốn ở đâu khi tàu nước ngoài ngang nhiên xâm nhập hải phận nước mình để đánh phá, cướp bóc? Tất cả sự đầu hàng khiếp nhược ấy được núp dưới chiêu bài “chiến thuật mềm”, kiên trì đàm phán song phương, ngoại giao hòa bình, giữ tình hữu nghị làm vốn quý (!).

Vẫn biết cách ứng xử ở đời phải có cương có nhu, không quên ta là nước nhỏ. Nhưng điều khôn ngoan ấy không đồng nghĩa chút nào với sự khiếp nhược, đầu hàng.

Ông cha ta, thuở xưa nước ta còn nhỏ bé và nghèo lắm, nhưng đối với anh “kẻ thù truyền thống” phương Bắc ta đã biết phối hợp cương-nhu rất đúng quy luật. Bình thường thì xã giao hữu nghị, song cứ “kính nhi viễn chi”, chứ không được chui hẳn vào vòng tay của họ. Nhưng khi họ giở thói xâm lăng thì ta phải đổi ngay cách ứng xử, đi thẳng từ cấp độ 1 lên cấp độ 3 của sự kiên cường:

- cấp độ 1: dám đánh
- cấp độ 2: đánh thắng
- cấp độ 3: đánh thắng đến mức quân thù phải khiếp vía, phải trọng ta và phải sợ không dám bén mảng nữa. Ta chỉ trở lại giao hảo (đúng với tầm một nước nhỏ) sau khi đã đánh tan ý đồ xâm lược.

Nay xem ra sự ứng xử vừa qua của nhà nước CSVN (hãy nói từ sau cuộc chiến 1979 trở lại đây) thì thấy độ “kiên cường” luôn nằm ở dưới “cấp độ 1”, nên kết quả thật đáng buồn, đã không dám thắng thì không có chiến thắng đã đành, lại cứ thua từng phần. Kẻ địch tất nhiên chẳng những không sợ, không trọng mà còn khinh ta hèn, họ càng nuôi chí xâm lấn, mỗi ngày một táo tợn hơn. Kinh nghiệm của ông cha bị một lớp con cháu thời Cộng sản vận hành ngược lại nên kết quả cũng lộn ngược.

Còn hèn và nhục nào hơn khi báo chí “lề phải” không dám đưa tin biểu tình một cách xứng đáng mà còn bôi nhọ rằng đây là sự “tụ tập” chỉ đi ngang qua cơ quan của Trung quốc (như vô tình hoặc vì sợ sệt), và khi được giải thích thì đã tự giải tán? Người đưa tin như thế thật không xứng đáng là một công dân nước Việt chứ nói gì danh hiệu cao quý của một nhà báo? Còn hèn và nhục nào hơn mang danh Hiệu trưởng một trường mà cấm và đuổi học sinh viên đi biểu thị lòng yêu nước? Họ định “giáo dục” cho thanh niên điều gì đây, định dạy môn “cừu học” thay cho môn “công dân giáo dục” chăng? Tấm hình chụp em bé biểu tình chống Trung quốc ngày 12-6-2011 chẳng biết có gây cho các nhà giáo dục ấy một chút cảm xúc?

Sự nhu nhược quá mức chẳng những làm mình bị thua thiệt biên cương, tài nguyên, chẳng những làm nhục nhân dân, mà điều nguy hiểm hơn cả là sự khiếp nhược của nạn nhân đã nuôi dưỡng ý chí xâm lược của đối phương ngày một lớn hơn.

Chịu thua một lần là trút thêm khó khăn cho lần sau, và cứ thế ngày càng thêm khó. Khi sự leo thang lên đến nấc cuối cùng, thì mọi sự thương lượng đều đã muộn. Nếu để họ dồn đến đường cùng chẳng còn gì mà thương lượng, thì còn cách gì ngoài cách làm chiến tranh để tự vệ? Khi ấy kẻ hèn sẽ bị giết chết nhưng chết trong tư thế là kẻ tội phạm gây chiến. Hiện nay một mặt họ vu cáo “Việt nam xâm lược”, một mặt khiêu khích ở Biển Đông chính là cái bẫy như vậy, vừa thôn tính ta vừa đổ được tiếng ác cho ta. Bài báo nói trên của tác giả Tấn Vũ trên trang mạng ĐCSVN đã vạch rõ được mưu mẹo rất hiểm ác này. Thế là đã tỉnh. Tóm lại chính sự nhu nhược cũng góp phần vào nguy cơ nổ ra chiến tranh. Muốn ngăn chiến tranh không gì bằng phải cứng rắn ngay từ đầu.

Trung quốc đang tiến tiến hành một chế độ Thực dân kiểu mới cực kỳ hiểm độc. Chiến thuật của họ là cứ lao thẳng vào nơi ta hoàn toàn có chủ quyền (cả trên đất liền và lãnh hải), thế là biến nơi không tranh chấp thành nơi có tranh chấp. Có tranh chấp thì thương lượng song phương. Song phương thì họ dùng sức mạnh ép chia đôi vùng tranh chấp ấy, hoặc cùng khai thác. Cưa đôi 50-50 là công bằng nhá ! Cứ thế vết dầu loang sẽ dần dần biến tất cả biển trời của ta thành biển trời của họ.

Ta là nước yếu hơn, nhưng ta có lý lẽ, hợp công pháp quốc tế, nên phải tận dụng mọi thuận lợi để đương đầu với kẻ khổng lồ tham lam bất chấp. Trong lĩnh vực này Bộ Quốc phòng đã có những chủ trương rất khó hiểu. Dứt khoát không để mình bị đơn độc trước anh khổng lồ, nên cần những cuộc đàm phán đa phương và quốc tế hóa (chỉ sợ ai đó đã bán cho họ thật rồi thì về pháp lý khó mà đảo ngược).

Nước nhỏ muốn chống sự chèn ép của nước lớn buộc phải liên kết, nhất là liên kết với nước lớn khác. Tuyên bố “không liên kết với nước này để chống nước khác” thì nghe có vẻ hợp đạo lý nhưng là thứ đạo lý tự diệt, khác nào dâng đất nước cho kẻ thù. Liên kết để phòng thủ, để tự vệ chứ không tấn công ai, đó là quyền của mỗi dân tộc. Nếu dùng thứ đạo lý ngụy biện tự diệt ấy để khước từ liên kết với Hoa Kỳ thì sao lại chấp nhận “hợp tác chiến lược” với Trung Quốc, tức hợp tác chiến lược với chính kẻ xâm lược? Chính vì có mối liên kết chiến lược với Trung quốc nên Trung Quốc mới tuyên bố “Ai xâm phạm Việt nam cũng tức là xâm phạm Trung quốc, Trung quốc có nghĩa vụ can thiệp” ! Sao Đảng ta lại gửi trứng cho Ác như thế? Nếu lời tuyên bố kia là của Hoa Kỳ từ một hiệp ước phòng thủ thì Trung Quốc dễ gì dám gây hấn như hiện nay?

Đâu có phải cứ liên kết là nghĩa là hiếu chiến, là không yêu hòa bình, trái lại có liên kết đúng mới đề phòng được chiến tranh. Nếu có sự hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ trong lĩnh vực kinh tế-kỹ thuật-văn hóa-du lịch quanh vùng Cam Ranh thôi thì sẽ chặn được bàn tay gây hấn của Trung quốc mà chưa cần động đến súng đạn. Như vậy mới là yêu hòa bình và yêu nước, và giữ gìn được mọi tình hữu nghị nữa. Tại sao cứ tìm chính kẻ xâm lược để trao thân gửi phận? Đã tự gài nước mình vào thế kẹt đó thì có tuyên bố mạnh mẽ nghìn lần cũng vứt đi. Đến đây tôi thấy ý kiến của Cù Huy Hà Vũ mới là cứu nước và chính xác : liên kết với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại ! Chẳng trách Hà Vũ bị bắt ngay !

Nói ta phải tự kiềm chế để khỏi mắc mưu khiêu khích thì chỉ đúng một phần, còn như nói thế để bó tay thì không chấp nhận được. Họ dùng những phương tiện bán vũ trang hoặc vũ trang trá hình như “hải giám, ngư chính”, những hình thức dân sự trá hình để gây thiệt hại về người và của cho ta, thì ta chưa thể chính thức dùng hải quân can thiệp là đúng , nhưng chẳng lẽ ta là kẻ bị hại lại không nghĩ được hình thức đối phó nào hữu hiệu tương xứng hay sao? Khi đối chọi với những kẻ thù ngắn hạn như Pháp và Mỹ những tố chất biến hóa tài tình ấy trong ta có thừa, nay trước “kẻ thù lịch sử” Trung quốc, vừa là đồng chí vừa là anh em, thì những ưu điểm ấy biến đi đâu hết cả, để quanh đi quẩn lại cứ bắt Nguyễn Phương Nga quay mãi một điệu hát cũ. Khi “nắn gân” thì hai bên phải nắn gân lẫn nhau, ăn thua ở sức mạnh tinh thần hay sự bạc nhược chứ đâu nhất thiết phải dùng súng đạn?

Thực tiễn đã quá đủ để nhà giáo Hà Văn Thịnh kết luận: hãy vứt vào sọt rác cái tình “hữu nghị” vẫn rêu rao với 16 chữ vàng. Tôi xin thêm: Và vứt luôn vào sọt rác cả cái “chiến lược mềm” đầu hàng, khiếp nhược mà một thế lực trong Đảng lâu nay vẫn viện ra để trấn áp mọi tiếng nói yêu nước tỉnh táo trong và ngoài Đảng!.

Đối mặt với chủ nghĩa bành trướng bá quyền ngông cuồng, kiên định và ác hiểm của Trung quốc thì đối sách gọi là “khôn ngoan”, đặt hữu nghị lên trên, mềm dẻo trường kỳ… giữa hai đảng Cộng sản, chưa biết vô tình hay hữu ý, chỉ tiếp tay cho kẻ xâm lược, dẫn đến nỗi nhục nghìn đời, đau thương vĩnh viễn cho Dân tộc.

2/ Đồng hành cùng lợi ích Dân tộc.

2a/ Mấy lời xin thưa trước:

- Chủ nghĩa bành trướng hung hãn và hiểm độc ở tầm thế giới, như bài báo của Tấn Vũ vừa mạnh dạn phân tích, đã đặt đất nước Việt nam ta trước một thử thách muôn ngàn khó khăn. Muốn thoát khỏi mối hiểm họa có thể làm tiêu tán Dân tộc thì yếu tố tiên quyết không gì thay thế được là SỰ CỐ KẾT TOÀN DÂN TỘC THÀNH MỘT KHỐI ĐOÀN KẾT VỮNG CHẮC, giữa những khối quần chúng đa dạng trong Dân tộc với bộ máy đang cầm quyền đất nước mà thực chất là đảng Cộng sản.

- Muốn có sự đồng thuận vững bền để cùng lo một việc quá lớn thì LỢI ÍCH CỦA ĐẢNG PHẢI HOÀN TOÀN NẰM TRONG LỢI ÍCH DÂN TỘC nếu Đảng còn muốn tồn tại, hơn thế tồn tại như một lực lượng lãnh đạo.

- Yếu tố quyết định tiếp theo của sự đoàn kết là phải thành thực để TIN CẬY nhau, không thể nghĩ một đằng nói một nẻo, rồi nói một đằng lại làm một nẻo khác nữa.

- Vì hiểu nhu cầu sinh tử của một khối đoàn kết là phải thật thà trung thực nên tôi xin mở lòng mình bằng sự nói thật, mặc dù tôi biết rõ mình đang sống trong một môi trường mà sự NÓI THẬT hoặc là điều cấm kỵ, điều liều mạng, điều ảo tưởng, điều điên rồ mất trí, hoặc là một kẻ bất thường đáng nghi, một kẻ ngớ ngẩn đáng chê cười !

Khó mà tìm ra một người nói thật, nhất là nói thật chính trị, nói nửa câu cũng phải uốn lưỡi,lựa lời. Những sự thật tôi viết ra đây có điều đã thành nhận thức chung, có điều mới là lượm lặt chưa thể sàng lọc kỹ càng, chỉ như một gợi ý tham khảo, nhưng tất cả đều là sự thật.

Mỗi người đọc tôi đây coi tôi là loại gì tùy ý, chỉ một câu tôi tự nhủ lòng: Sống mà không còn nói thật nữa thì sống làm gì? Cứ nói quanh co suốt một đời thì khổ lắm, Một dân tộc không thể cố kết nhau bằng sự nói thật thì dù đông đến trăm triệu người cũng chỉ là một đám hỗn độn, rời rạc. lừa đảo lẫn nhau, làm mồi cho chủ nghĩa lưu manh cơ hội hủy diệt. Cú nói thật đi, vượt qua cơn vật vã nói thật nhất định sẽ đến một thế giới tốt đẹp hơn.

2b/ Về lòng tin hiện nay :

- Dân tin Đảng không? Khi chưa cầm quyền, Đảng ở một phia với dân, dân tin lắm, và yêu nữa. Từ khi nắm quyền, người có quyền cứ triển khai các mục tiêu “xây dựng Chủ nghĩa Xã hội” đến đâu là khổ dân đến đấy. Con SÂU tham nhũng nào càng bự thì càng ca ngợi Mác Lê, càng nói đạo đức Bác Hồ. Đảng viên bên dưới còn nhiều người tốt nhưng càng lên cao sự tốt càng giảm đi. Nhà văn Phạm Đình Trọng cứ mở Tivi nhìn thấy ông Tổng Bí thư hoa chân múa tay là phải nhìn thấy “nỗi ngán ngẩm ngày thường”, dân chúng cứ nhìn thấy mặt quý vị lãnh đạo là muốn tắt Tivi. Vậy là có tình trạng Dân rất ngán Đảng.

- Đảng tin Dân không? Người dân giải thích vì sao Đảng bị Trung quốc o ép mà khi Dân đứng về phía Đảng biểu tình chống Trung quốc thì Đảng cho Công an bắt bớ, chính vì Đảng đề phòng Dân hơn đề phòng kẻ thù xâm lược, để cho chúng biểu tình lỡ chúng chống Đảng thì sao? Giữa hai cái xấu Đảng phải chọn cái ít xấu hơn là bá quyền Trung quốc.

- Xã hội hiện nay đang chịu 2 áp lực lớn: Trong nước thì kinh tế suy thoái, giá cả leo thang, tài chính kiệt quệ. Ngoài Biển Đông thì Bành trướng o ép. Người ta lo sợ khả năng Đảng sẽ bán bớt Biển Đông để lấy tiền vực kinh tế trong nước, thế là “lấy khó khăn giải quyết khó khăn”, phải đề phòng bọn bán nước dám tán tận lương tâm thế lắm !

- Trước cảnh tượng hàng ngàn dân chúng vược qua nỗi sợ Công an để biểu thị lòng yêu nước chống quân bành trướng, có người thì hồ hởi, mong cho số người tham gia đông hơn nữa cho bọn bành trướng biết lòng dân Việt nam. Nhưng có người thũng thẵng đưa lời can: Đông vừa vừa thế thôi, đông quá Đảng sợ Dân chủ, sợ bạo loạn, sợ mất chủ nghĩa Xã hội, Đảng lại mời các đồng chí Trung quốc sang dẹp loạn thì xe tăng nó nghiền dân mình ra bã! Nghe mà đau lòng.

Khi sự nghi kỵ đến mức như thế thì việc xây dựng một khối đoàn kết “vững như thép gang” đủ sức chống xâm lăng từ nước khổng lồ quả thực không đơn giản. Nhưng tôi dám nói hết những sự thật này vì tôi không tuyệt vọng trước những tâm trạng ấy.

2d/ Những liên kết do lợi ích:

Tại sao Bành trướng Trung quốc xâm lấn đất nước mình mà đảng CSVN cứ phải bám lấy Trung quốc? TS Nguyễn Thanh Giang thì giải đáp bằng cả một một bài viết dài giải thích: Vì theo Tàu tuy mất nước nhưng còn hơn theo Mỹ thì mất ghế ! Ghế quan trọng vì gắn với lợi quyền.

Dân quán nước thì chẳng cần lý luận chỉ đọc Bút Tre:

Từ hồi sụp đổ Đông Âu
Đảng Ta không bám Đảng Tàu thì toi !

Đề tài cái ghế Chuyên chính Mác Lê gắn với lợi quyền thống trị thế nào thì đã quá phong phú, đầy những dẫn liệu từ thâm cung bí sử, chẳng cần nói lại ở đây.

Tôi chỉ xin nói thêm một điều là nạn NGOẠI XÂM (bành trướng Trung quốc) và NỘI XÂM ( đàn SÂU tham nhũng, độc tài, cửa quyền, áp bức dân chúng) ở nước ta vốn cùng một nguyên nhân phát sinh.

Ảo tưởng Mác-Lê ở quy mô một nước là “chủ nghĩa tập thể”, ở quy mô quốc tế thì sinh ra “thế giới đại đồng”, tất thẩy cứ muốn tập trung vào một khối lớn để tự quản lý lẫn nhau, và tin như thế là chẳng còn kẻ thống trị nữa, quyền lực sẽ tự tiêu vong.

Nhưng tập thể hóa mà không có cơ chế Dân chủ và Pháp trị thì kẻ cầm đầu là Đảng của vùng ấy sẽ tự tung tự tác, lạm quyền mà sinh ra “một bầy SÂU nhỏ SÂU to”, rồi thành kẻ những NỘI XÂM chiếm mất quyền làm chủ của dân, dân có nước mà cũng như mất nước.

Ở quy mô “quốc tế đại đồng” mà coi nhẹ biên giới quốc gia (trong gia đình đại đồng Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn gọi Anh cả Liên xô và Chị hiền Trung quốc), thì nước lớn sẽ nuốt nước bé sinh ra nạn bá quyền Cộng sản như Liên xô, Trung quốc. Việt nam bị chui tụt vào vòng tay của bà “chị hiền Trung quốc” chính vì bị mê hoặc bởi cái ảo tưởng đại đồng phi quốc gia ấy, nay đã ngập sâu từ mấy chục năm, “chị hiền” tham lam đâu có chịu nhả “thằng em” ra.

Ai cũng biết một câu tuyên ngôn cơ bản nhất của đảng Cộng sản là: Ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có lợi ích gì khác ! Và quả thực đã có thời kỳ lý tưởng, có những nhân vật lý tưởng đã trung thành với đạo đức ấy, nhưng suốt dặm đường dài mấy ai thoát khỏi sự nhào nặn của con quái vật Lợi Quyền?

Ngày nay lực lượng Công An thì nêu khẩu hiệu “Chỉ biết còn Đảng còn mình” !. Lực lượng Quân đội thì trước hết phải trung với Đảng rồi mới đến Dân, coi Quốc hội trước hết của Đảng rồi mới “cũng là của Dân” !. Chỉ chừng ấy thôi đủ minh họa cho độ chênh giữa giữa dòng ưu tiên Lợi ích của Đảng và dòng ưu tiên Lợi ích của Dân. Dân tộc là thể ổn định và trường tồn, lợi ích Dân tộc là mặc nhiên khách quan. Đáng lẽ lợi ích của Đảng phải theo đó mà phù hợp, nếu có phù hợp cũng ở vị trí thứ hai, phát sinh. Nhưng cả hai lực lượng vũ trang đều đưa yếu tố thứ hai thành thứ nhất, xếp lợi ích Dân tộc thành yếu tố thứ hai phải thích nghi theo ! Chừng nào lợi ích của Đảng còn xếp lên trên thì không bao giờ có khối đoàn kết dân tộc chân chính, nếu có cũng chỉ là khiên cưỡng, áp đặt, buông sự áp đặt ra là vỡ. Chính vì thế Đảng luôn tự hào tuyên bố về khối đoàn kết do Đảng lãnh đạo mà thực chất trong lòng vẫn sợ, vẫn không dám tin vào lời tuyên bố bố ấy của mình, cứ phải nuôi một bộ máy khổng lồ để giám sát dân.

Ảo tưởng “đại đồng” nơi quốc tế hay “tập thể hóa” nơi quốc nội của Mác-Lê đều là một cơ chế phi dân chủ, à uôm, phi luật pháp, là cái ổ phát sinh nạn độc tài và tham nhũng ở những cấp độ khác nhau. Muốn giải phóng nhân dân khỏi độc tài quốc nội hay giải phóng nước Cộng sản nhỏ Việt Nam ra khỏi bá quyền Cộng sản Trung quốc đều cần dùng đến DÂN CHỦ và PHÁP TRỊ (cả luật quốc tế) mới “giải nô” được. Riêng Trung quốc gốc gác đã có máu bá quyền Đại Hán, sau lại được sự tiếp tay của tư tưởng bá quyền Cộng sản nên thành bọn bá quyền bình phương, nó đang bành trướng nhanh như thổi, trở thành hiểm họa cho cả thế giới.

Bầy SÂU trong nước và bá quyền Cộng sản Trung hoa chính là chị em sinh đôi, cùng một mẹ đẻ ra, mang cùng dòng máu gia trưởng Mác xít phi dân chủ và duy lợi, gắn kết với nhau cũng là tự nhiên. Chỉ cần khảo sát mấy năm gần đây, những hiện tượng cho thấy Lợi ích của Đảng không phù hợp với Lợi ích Dân tộc cũng không ít. Tuy vậy những con SÂU nào chưa nguội hẳn dòng máu Dân tộc thì máu của nó còn là máu pha, vẫn còn cơ hội tìm về lợi ích Dân tộc, nhất là có lúc nó nhận ra có bám theo “chị hiền” thì cũng cam phận tôi đòi vong bản.

Trong hai đợt biểu tình chống Trung quốc xâm lược năm 2007 và 2011, những người có tư tưởng dân chủ đều mừng vì nhân dân đã thức tỉnh trước nguy cơ bị xâm lăng và thức tỉnh nhận ra vai trò công dân phải làm chủ đất nước của mình, các anh em đó coi cuộc biểu tình là sự hồi sinh của dân tộc sau bao năm im ắng, chìm đắm. Họ tiếc rằng cơ hội ấy không phát triển tiếp được để đẩy mạnh những tiến bộ xã hội. Nhưng lực lượng “chỉ biết còn Đảng còn mình” lại coi các cuộc biểu tình ấy là điều xấu cần trấn áp, và họ mừng là đã trấn áp được để nó không phát triển ra. Cùng một sự việc nhưng người của Dân thì gọi nó là cơ hội và tiếc rằng chưa phát triển, người của Đảng thì coi nó là tiêu cực và mừng rằng đã dẹp được yên. Vậy “cơ hội vàng” của bên này lại chính là “thảm họa đen” của bên kia và ngược lại. Ước vọng ngược nhau bởi quyền lợi trái ngược nhau. Nếu còn như vậy thì không thể có những thời cơ hay thảm họa chung cho cả Đảng và cho Dân tộc. Hai dòng lợi ích trái chiều nhau làm sao có thể tạo nên khối đoàn kết để chống xâm lăng. Sự bất hòa ấy chính là thời cơ vàng cho kẻ xâm lược.
Xem như vậy đủ thấy bức tranh liên kết lợi quyền còn nhiều dằn vặt vô cùng phức tạp.

d/ Mấy lời tóm lại:

Chủ đề mà tác giả Tấn Vũ qua bài Những bước đi có tính toán, đã gợi cho tôi dòng suy nghĩ miên man về số phận dân tộc mình, trước hiểm họa của mưu đồ bá quyền Cộng sản-Đại Hán quá ư tàn bạo và nham hiểm, mà nguy thay, họ đã đi được một bước khá dài.

Làm gì đây để cứu Dân tộc ra khỏi nguy cơ? Muốn làm gì trước hết cũng phải tìm sức mạnh ở khối đoàn kết toàn dân tộc. Đảng thì bảo khối đoàn kết ấy luôn luôn có rồi, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng theo tôi một khối đoàn kết vững chắc, đồng tâm, đủ sức đương đầu với hiểm họa hiện nay chưa có. Chẳng những chưa có mà muốn hình thành được cũng còn muôn vàn khó khăn.

- Làm sao đặt lợi ích của Đảng nằm dưới và hoàn toàn phù hợp với lợi ích Dân tộc?

- Làm sao để ngày càng nhiều người biết thành tâm và dũng cảm nói sự thật, sống với sự thật?

- Làm sao toàn dân biết thức tỉnh nhìn nhận đúng nguy cơ và sức mạnh của Dân tộc mình?

- Làm sao biết tạm gác lại mọi khác biệt để tập trung đối phó với lực lượng ngoại bang xâm lược?

Chưa thể một lúc giải quyết hết mọi nguyên nhân tận gốc. Nhiều việc còn phải gỡ dần. Tự nhiên tôi thấy hai chữ ”đồng bào” thật quá thiêng liêng, người trong một nước.

Để đất nước lần này rơi vào tay kẻ Bành trướng phương Bắc thì mọi việc đánh dấu chấm hết, không chỉ những chiến công gần đây mà những trang sử vàng chống Bắc thuộc suốt 4000 năm cũng đổ xuống sông xuống bể, những Hưng Đạo Vương, Nguyễn Huệ sẽ khóc giống nòi, dân tộc này sẽ mất hết quyền tự chủ, “mỗi việc mỗi lời” cũng để cho người ta “dắt tựa trâu bò”!

Nạn Bắc thuộc mới do bá quyền Đại Hán và bá quyền Cộng sản chập lại thì muôn đời không thoát khỏi.

Lời cuối tôi khẩn thiết đề nghị các cấp cầm quyền hãy trả lời sự “nắn gân” dân tộc anh hùng chúng ta bằng sự biểu dương truyền thống đoàn kết giữ nước, để khỏi làm nhục cha ông chúng ta. Ít nhất là tiếng nói xứng đáng của báo chí, là sự bình đẳng xứng đáng của quý vị mỗi khi làm việc với đối tác Bắc phương, là sự dừng ngay việc xâm lấn kinh tế, văn hóa, dân cư của họ đang triển khai trên khắp đất nước, và một sự trả lời rất có ý nghĩa là thả ngay, ít nhất 2 người: Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày mà tinh thần yêu nước chống xâm lược của họ đã thành tiêu biểu. Nếu được trả tự do trong tình thế này tin chắc họ hiểu ý nghĩa thiêng liêng của nghĩa cử, và biết phải làm gì để đáp ứng xứng đáng lòng yêu nước, bảo vệ đất nước mà mọi người mong đợi.

Bài viết của Tấn Vũ trên báo Đảng, cùng với những phát biểu mới mẻ gấn đây của Lê Đức Anh, Nguyễn Tấn Dũng về tinh thần chống xâm lấn, giữ vững chủ quyền, bảo vệ đất nước liệu có thể báo hiệu một bước chuyển gì chăng?

Có thể tôi đã mở lòng ra như một kẻ vô duyên, hay như “gái góa lo việc triều đình”.

Nhưng từ đêm nay tôi không còn xấu hổ với dòng máu đang chạy trong huyết quản tôi, không còn phải cúi mặt mỗi khi nghĩ đến những thế hệ sẽ ra đời sau tôi mấy chục năm, mà số phận họ thế nào tôi chưa thể hình dung được.

Chỉ biết, xin các bạn hãy cùng tôi cầu chúc cho những thế hệ Việt hậu sinh ấy được muôn ngàn lần tự do và hạnh phúc.

Hà Sĩ Phu.

CHÁO TÓC



CHÁO TÓC.

Trên hai mươi năm rồi còn gì ! Thế mà tôi không bao giờ quên nổi kinh hoàng xảy ra nửa khuya hôm đó.
Cả gia đình đang yên giấc, bổng nghe tiếng xe hơi từ lộ chính chạy vào, thắng gắp trước cửa nhà, nhiều tiếng chân người nhảy xuống, sau đó tiếng đập cửa mạnh và dồn dập. Có tiếng quát lớn:
- Chủ nhà mở cửa !!! Công An huyện cần làm việc.

Nhạc gia tôi tuổi ngoài thất tuần, hai tay rung rung nâng cây song hòng, cửa mở, năm tên công an bước nhanh vào với bốn khẩu A.K. cầm tay, tên đứng đầu với khẩu K. 54 bên hông hất hàm hỏi lớn:
- Tên Ánh có ở nhà không ?

Từ buồng ngũ bước ra, tôi trả lời:
- Tôi có mặt đây!
- Mời anh lên xe về công an huyện, chúng tôi cần làm việc với anh.

Quơ vội cái bồng bột, trong đó vài bộ áo quần, thuốc uống, dầu xanh, chén muỗng, đủa,..kem và bàn chảy đánh răng.

Tôi bước lên và ngồi xuống sàn, xe lao vút đi và chỉ nhìn thấy nhạc gia tôi hom hem bưng cây đèn dầu lửa, hai đứa con trai tôi ôm chân mẹ và nhà tôi vội đưa tay lên lau nước mắt. Công an đẩy tôi vào phòng giam chấn song sắt, ngọn đèn vàng mờ trên trần, đóng mạnh khung cửa sắt và khóa lại.

Căn phòng vuông vức, độ bốn thước nhốt mỗi mình tôi. Thu mình vào góc phòng, nằm xuống nền xi-măng, đầu gối lên bồng bột, trăm ngàn dấu hỏi lần lượt hiện ra trong đầu, tôi chịu thua, không hiểu tại sao mình bị bắt, khẩn cấp giữa đêm khuya. Thân phận người lính chế độ cũ bị cộng sản ngược đải còn thua một con vật. Mua một con chó để làm mồi nhậu, ngã giá xong mới bắt con mồi dẩn đi, còn chúng tôi vui buồn gì công an muốn bắt chỉ mang còng đến bắt thôi!

Từ nhà tù lớn cho toàn dân miền Nam, những ngày lễ lớn, kỷ niệm chiến thắng, sinh nhựt lảnh tụ, họ đem cất chúng tôi vào phòng giam-nhà tù nhỏ. Trước khi thiếp đi, tôi còn nghe rõ tiếng hô dõng dạc:
-"Tất cả vào hàng ! Phắt.. Tư lịnh đến ! Khai quân hiệu!...Bế quân hiệu ! "

Và giờ nầy, bên kia nửa vòng trái đất là ban ngày, các cấp lảnh đạo chỉ huy của tôi chắc đang rót những chai rượu đắt tiền vào ly cạn, bên tiếng nhạc lời ca ! mĩm cười vui sướng vì cả gia đình an toàn lên máy bay với hành lý là những va li đầy vàng, đô la và vật dụng đắt tiền. Ai công hầu ai khanh tướng, giờ mình ta đau thương.

Giấc ngũ chập chờn kéo dài được bao lâu không biết, tôi choàng ngồi dậy khi nghe tiếng người quát lớn:
- Anh kia, lên làm việc.

Tôi bị dẩn đi theo một hành lang ngắn, bước vào phòng có bảng ghi trên khung cửa: "Phòng Chấp Pháp". Vừa ra lịnh ngồi xuống ghế, tên Thượng úy công an hất hàm hỏi tôi
- Anh mang túi gì đó?
- Quần áo lao động, thuốc uống và đồ vệ sinh cá nhân.
- Bộ anh biết sắp bị bắt sao mà chuẩn bị kỹ càng thế?

Tôi cười héo hắt:
- Dạ ! trong năm, nhiều lần bị tập trung nên sẳn sàng như vậy. Anh em chế độ cũ chúng tôi ai cũng có cùng tâm trạng như thế!

Bật lửa đốt thuốc, ngữa mặt nhả khói lên trần nhà, tên Thượng úy hỏi tôi:
- Anh biết anh bị bắt về tội gì không?

Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn:
- Quả tình tôi vô cùng ngạc nhiên, tại sao công an huyện lai bắt tôi ?

Tên hỏi cung mặt hầm hầm, xô ghế đứng phắt dậy, đập tay mạnh xuống bàn:
- Anh đừng đóng kịch nữa! Anh và tên Phong đã giết đồng chí Mười Thụ! Bắt được tên Phong hắn khai anh là đồng lõa của hắn. Đã đi cải tạo, anh biết rõ đường lối khoan hồng của đảng. Anh thành thật khai báo sẽ được khoan hồng.

Tôi không nao núng:
- Cả tuần nay tôi không rời khỏi nhà, tôi đâu biết ông Mười Thụ là ai? Tôi có thù oán gì đến đổi phải giết ông Mười Thụ! Xin cán bộ cho tôi gặp anh Phong để đối chất.

- Được rồi! Có bằng chứng rõ ràng, anh đừng trách chúng tôi nặng tay với anh nhé!

Tôi bị biệt giam suốt một tuần ở Công an huyện, không được thăm nuôi và tiếp xúc với bất cứ ai. Mỗi đêm công an đánh thức tôi dậy, đi làm việc, hỏi cung, cật vấn đủ điều. Tôi khai quen biết anh Phong ở trại cải tạo Xuyên Mộc thuộc tỉnh Đồng Nai do Phong còn độc thân, ba Phong bị đau bao tử nặng nên gửi đồ thăm nuôi nhờ vợ tôi mang giùm vào trại trao đồ tiếp tế cho Phong. Chúng tôi quen biết nhau như thế. Trước năm 75 Phong là sỉ quan biệt kích dù, còn tôi phục vụ ở tiểu khu không hề quen biết nhau. Thỉnh thoãng đi chợ Phong có chạy lên thăm tôi, chúng tôi có nhậu với nhau đôi lần. Cách đây một tháng Phong cho biết sắp đi xa, làm nghề bốc vác đã làm Phong khạc ra máu.

Tôi làm tờ khai trên mười lần và lần nào tôi cũng không quên câu kết:
- " Nếu sau nầy cách mạng khám phá ra tôi gian dối hoặc đồng lõa trong vụ giết ông Mười Thụ tôi xin chịu tử hình".
Họ thả tôi về và thông báo từ nay tôi không được rời khỏi nhà bất cứ ngày đêm, khi công an cần làm việc tôi phải có mặt ngay, họ bắt tôi ký tên và lăn tay.

Sau đó ngưòi biết chuyện tường thuật vụ án lại cho tôi biết: Mười Thụ, trưởng ban tổ chức Tỉnh Ủy, do học liên xô, đổ bằng tiếùn sỉ, học vị mà một giáo sư tên tuổi phát biểu: "Chỉ cần dắt một con trâu sang Liên xô, hai năm sau chúng ta sẽ dắt về một Phó tiến sỉ"

Mười Thụ được chánh quyền cấp cho một ngôi nhà nền đúc tới ngực, tịch thu của gia đình địa chủ. Đêm xảy ra án mạng, Mười Thụ ở nhà một mình, hung thủ đâm và rọc bụng, ruột gan Mười Thụ tuôn ra đất, đầu Mười Thụ bị xởn một mớ tóc, hung thủ đào dưới góc cột lấy của cải vàng bạc nhiều lắm.

Công an tỉnh phối hợp với công an huyện nghiên cứu điều tra hiện trường. Họ khám xét chuồng trâu, Phong biệt tích, đặc biệt trên bàn thờ ba Phong, ảnh đã được mang đi, một dỉa đựng mãng tóc của Mười Thụ và trên lư hương bằng lon sửa bò, dấu tro nhang đốt còn mới tinh. Công an tỉnh kết luận thủ phạm giết Mười Thụ là Phong tên biệt kích ác ôn, mang nhiều nợ máu với cách mạng.

Lệnh truy nả kèm theo ảnh của Phong được thông báo toàn quốc. Có kẻ xấu miệng nói rằng: "Sở dỉ công an truy nả thủ phạm khẩn trương như vậy, một phần vì Mười Thụ Phó bí thư Tỉnh ủy, trưởng ban tổ chức đảng… Nhưng phần tối quan trọng là hung thủ đã đào và mang đi một ô rất lớn chứa nhiều nử trang gồm: vàng, cẩm thạch, kim cương, đọc xong biên bản dàn Tỉnh ủy có nhiều đồng chí chảy nước bọt".

Thời gian qua đi, vụ án Mười Thụ cũng đi vào lảng quên vì người dân "chạy ăn từng bửa toát mồ hôi" còn thời gian rãnh rỗi đâu mà nghĩ với ngợi.

Đầu năm 91, tôi lên công an huyện chứng hồ sơ cho cả gia đình đi diện H.O. sang Hoa kỳ. Sau khi trao xấp hồ sơ ký xong, chánh văn phòng công an huyện nói với tôi:
- Sau nầy phá được án đồng chí Mười Thụ, nếu anh có dính líu, nhà nước ta sẽ bảo Mỹ dẩn độ anh về đây để truy tố anh ra tòa án nhân dân, anh liệu hồn đấy!

Tôi cúi nhìn xuống chân mình để dấu nụ cười, ngước lên nhìn tên cán ngố tôi trả lời từ tốn:
- Thưa cán bộ, trong trại cải tạo chúng tôi học thuộc nằm lòng: "Với sức mạnh của ba dòng thác cách mạng, đảng và nhà nước ta là lương tri của lòai người, chủ nghĩa Mac-Lê bách chiến bách thắng, sẽ giải phóng luôn cả nước Mỹ, sẽ đưa thế giới đến đại đồng. Đưa gia đình sang Mỹ, tôi sẽ cố gắng lo cho con cái học hành đỗ đạt. Nếu nước Mỹ chưa được cách mạng giải phóng, tôi sẽ dẩn con cái tôi về xây dựng Xã Hội chủ nghĩa ưu việt"

Tên công an chánh văn phòng tỏ vẽ hài lòng, tươi cười bắt tay tôi:
- Hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau ở Hoa kỳ!

Ôm mớ hồ sơ ra tới cỗng, khát nước, khô môi, tôi cố đánh lưỡi phun một mớ nước bọt xuống đất.

Thời gian trôi đi, đúng là bóng câu qua cửa sổ, gia đình tôi sang Mỹ mới đó đã mười bốn năm rồi. Chuyện ở Mỹ là chuyện dài, biết rồi, khổ quá nói mãi. Vậy tôi không còn ca bài ca con cá sống vì nước nữa đâu.

Chiều thứ bảy, mang tờ báo mới ra ngồi băng cây trước nhà, mặt trời ngã về tây, thế đất cao gió mát, hoa tulip nở rộ, đưá con gái mang ra cho tôi ly cam vắt, tôi đọc báo khi chiều xuống chầm chậm êm đềm. Một chiếc taxi màu vàng đỗ trước nhà, người đàn ông tay xách va li bước xuống, ta vẩy, cười tươi mừng rỡ với tôi:
- Đại ca khỏe không ?

Tôi gở kiếng, nheo mắt nhìn, chợt la lớn:
- Ồ ! Phong đó hả? Trời ơi ngọn gió nào đưa Phong đến đây?

Tôi bước ra, Phong đặt va li xuống đất, chạy đén ôm tôi:
- Mừng gặp lại anh ! Hai mươi mấy năm rồi còn gì !

Chúng tôi vào nhà, tôi nêu thắc mắc:
- Sao chú biết anh ở Tiểu Bang nầy, tìm đến hay vậy?

Phong vổ nhẹ vào vai tôi:
- Tháng rồi anh có lên Seattle ra mắt sách phải không? Bạn em có dự và mua gởi cho em. Ngạc nhiên và vui mừng vô cùng khi thấy hình và địa chỉ của anh in sau bìa sách, Em ở thành phố Buffalo Tiêủ Bang New York, đến thăm anh chị không báo trước, tạo bất ngờ để anh chị ngạc nhiên chơi.

Nhà tôi từ sau bếp bước ra ngạc nhiên và hân hoan chào Phong. Tắm xong, tôi và Phong ngồi vào bàn ăn.
Dỉa thịt gà xé phai trộn bắp chuối và tô cháo bốc khói thơm lừng. Nhà tôi cầm chén định múc cháo, Phong ngăn lại và nói:

- Cám ơn chị! Em chỉ ăn gỏi và uống bia, từ ngày ba em mất, em không bao giờ ăn cháo nhất là cháo có nêm tiêu. Hốp một ngụm bia, Phong tiếp:

- Hôm nay, hai anh chị là người thân duy nhứt, em kể tình cảnh đau thương của gia đình em.

Em là cháu ngoại của Ông Hội Đồng Cang, má em mất sớm, ba em cai quản của hương quả gồm: Một nhà năm gian to, nền đúc tới ngực và mấy chục mẫu vườn ruộng. Sau năm 75 Cộng sản cưởng chiếm miền Nam, em đi tù, công an địa phương tịch thu hết đất đai, ba em chỉ còn ngôi nhà.

Ba năm sau, họ đuổi ba em ra mình không vì hai tội: Gia đình địa chủ bốc lột; con trai là sỉ quan biệt kích dù ác ôn, gay nhiều tổn thất và nợ máu với quân giải phóng.

Nhà họ cấp cho Mười Thụ, Phó bí thư Tỉnh ủy, kiêm trưởng ban tổ chức đảng. Ông nội Mười Thụ là phu xe kéo cho ông ngoại em. Sau nhiều lần van xin ba em được cho lại cái chuồng trâu cột mù u ngoài mé ruộng, cách nhà thờ giòng họ ba trăm thước. Ba em đã lớn tuổi sức khỏe yếu kém và sống trong nghèo túng. Ngày nọ nhận được thơ em từ trại cải tạo Xuyên Mộc gởi về xin tiếp tế đồø ăn và thuốc uống.

Thương con, đường cùng liều mạng nửa đêm khoét vách vào nhà Mười Thụ chiếm đoạt, định vào đào dưới chân cột trước bàn thờ lấy đi ô vàng, cẩm thạch, hột xoàng… gồm của cải giòng họ và đồ sính lễ của mẹ em. Hành động của ba em giữa đêm khuya cũng như Doctor Jivago của văn hào Boris Pasternak bò ra cưa hàng rào cây nhà ông nội để lấy củi đun nước sôi đở đẻ cho vợ mình, nếu vệ binh phát hiện sẽ bắn chết vì tội: "Tôi ăn cắp của tôi"

Ngoài dự đoán của ba tôi, Mười Thụ cuối tuần mới về, ở nhà chỉ có vợ hắn và ba đứa con nhỏ. Nhưng khi ba tôi luồn vào, vừa định đứng dậy thì một họng súng K.54 lạnh ngắt ví vào màng tang và ánh đèn pin chiếu vào mặt. Mười Thụ trói ba tôi, bảo đi lại bàn tròn và ngồi xuống ghế, hai tay bị thúc ké sau lưng. Mười Thụ nhai từng tiếng:
- Mầy khoét vách vào nhà tao(sic) định làm gì?

Ba tôi rung giọng:
- Thưa ông Mười, khổ quá không có tiền định vào nhà xin lại bộ lư đồng, đem bán có chút đỉnh đi thăm nuôi con.

Mười Thụ nghiến răng:
- Thăm cái thằng biệt kích ác ôn đó phải không? Cái ngử đó sẽ chết rục xương trong tù, không có ngàu về đâu. Thứ quân đầy nợ máu phản cách mạng.

Quay ra sau, Mười Thụ ra lịnh cho vợ, đang ngạc nhiên đứng nhìn ba tôi bị trói:
- Bà nấu cho tôi tô cháo nêm hành và quậy hột gà vào nhanh lên.

Mười Thụ hằn hộc chỉ vào mặt và chữi ba tôi là thứ xấu xa, bốc lột nhân dân lao động, ngồi nhà mát ăn bát vàng, lười lao động, gặp khó khăn chỉ biết ăn trộm mà thôi! Lủ người chúng bây chỉ sống chật đất. Vợ Mười Thụ bưng tô cháo bốc khói lên, Mười Thụ bảo đâm tiêu thêm vào và mang ra cho y cái kéo. Mười Thụ chồm qua bàn, dùng kéo xởn một nắm tóc trên đầu ba tôi và cắt từng đoạn ngắn, dùng muỗng trộn lên đều cho tóc hoà trong cháo. Nhìn thẳng vào mặt ba tôi, Mười Thụ nói:
- Tao cho mầy chọn: Một, tao giao mầy cho công an với tội danh đêm khuya mầy định vào nhà ám sát tao. Hai, mầy ăn hết tô cháo nầy tao sẽ thả mầy và không cho ai biết về việc trộm đạo của mầy cả.

Ba tôi suy nghĩ thật lâu, nhục nhã vì bị xởn đầu, nếu biết mình ăn trộm thì tội cho giòng họ lắm! Ba tôi quyết định ăn tô cháo. Mười Thụ cởi trói cho ba tôi với nụ cười nham hiểm trên môi. Ăn xong tô cháo, Mười Thụ mở cửa cho ba tôi ra về. Trời vừa sáng hôm sau ba tôi cạo đầu.

Phong ngừng kể, đưa tay lên lau nước mắt, vợ chồng tôi ngồi lặng thinh, không tìm được lời nào chia xẻ cùng Phong. Uống một hơi cạn lon bia, Phong tiếp tục kể:
- Tuần lễ sau, ba tôi ngã bịnh, sốt cao và trong bao tử như có hằng vain con kiến lửa đang cắn, bụng đói, ăn vào càng đau thêm. Thuốc nam, thuốc gia truyền, xuyên tâm liên đã làm ba tôi kiệt sức.

- Đau quằn quại và túng thiếu trăm bề, vay mượn những tá điền cũ. Lần nào thăm nuôi ba tôi cũng cố gắng gởi đồ tiếp tế nhờ chị mang lên trại giùm.

- Ngày tôi được thả, ba tôi như bộ xương khô, hai hố mắt sâu quắm. Tôi vay tiền chở ba tôi đi bịnh viện, soi X. quang. Bác sỉ cho biết toàn thể mặt dạ dày bị nhiều cọng tóc đâm vào bưng mủ thành ghẻ như vỏ mít. Mấy năm nay ba tôi đau đớn vô cùng, suốt ngày đêm chỉ ăn cháo loãng cầm hơi.

- Một buổi chiều, mặt trời vừa lặn, tôi đang đốt đèn, giọng khào khào ba tôi tôi bảo tôi ngồi xuống chiếc giường tre, ra dấu đở ông ngồi dậy, thều thào, ông nói:

- Con phải trả thù cho ba!

Sau khi kể hết đầu đuôi câu chuyện bị Mười Thụ bắt ăn hết tô cháo và nói rõ cây cột bên trái sát bàn thờ nhìn ra sân có chôn một ô lớn vòng vàng, cẩm thạch, kim cương. Nói xong ba tôi mệt lắm, chồm ra mép giường ói một vũng máu và tắt thở trên tay tôi.

- Chôn cất ba tôi xong, mộ nằm trên nền chuồng trâu, tôi ra chợ huyện vào kho lúa xin một chân bốc vác. Thỉnh thoãng về thăm nhà, đốt nhang trên mộ cho ba tôi.

- Vợ chồng Mười Thụ than phiền tôi thường vắng nhà, phía sau ruộng không có người nên kẻ gian thường dùng chài lưới bắt nhiều cá vồ.

Lần nào về thăm nhà tôi đều mua bánh kẹo cho mấy đứa nhỏ, đồng thời tôi kiếm chuyện lân la để biết đường đi nước bước của Mười Thụ. Tình cờ được vợ Mười Thụ cho biết ngày mùng hai, y thị và mấy đứa nhỏ về đám giỗ bên ngoại, ba bưả mới về. Mười Thụ về giữ nhà một mình. Khuya hôm đó, sau khi vợ con Mười Thụ xuống đò đi rồi, Phong lên gỏ cửa nói lớn cho Mười Thụ biếùt đã bắt được hai thằng chày trộm cá vồ, đang cột chúng ngoài gốc so đủa dưới triền ruộng.

Tiếng Mười Thụ hưng phấn từ trong nhà vọng ra:
- Tụi bây kể như chết mẹ với tao rồi!

Mười Thụ tay bưng đèn dầu, tay xô cánh cửa cái vừa mở. Nhanh như sóc, tôi thọt cây mác vào bụng dưới Mười Thụ, dùng hết sức bình sanh hai tay câu cây mác, Mười Thụ hỏng giò, bụng xé một đường dài, ruột gan tuôn hết ra ngoài. Sau khi kêu được mấy tiếng hộc hộc hộc như con heo bị thọc huyết. Tôi đạp Mười Thụ té xuống và đâm tiếp mấy nhát vào tim, máu ra lai láng thành vũng dưới nền nhà. Xong đời một tên cộng sản gian ác, tập kết mang về từ mạn ngược, trung du ..Bắc Việt, lối giết người dai dẳng, đau đớn, tàn bạo mà hung thủ chẳng tội tình gì !
Tôi xởn một mớ tóc Mười Thụ bỏ vào túi quần, đào lấy ra từ chân cột một ô vàng nặng gồm nhiều lượng vàng… dây chuyền, kiềng, nhiều vòng đeo tay nạm cẩm thạch và kim cương. Tôi chạy nhanh về nhà để mớ tóc Mười Thụ vào trong diả, đặt trên bàn thờ ba tôi, đốt nhang và khấn vái:
–Thưa ba, con đã trả được thù cho ba rồi, xin ba phò hộ cho con vượt biên suông sẽ.

Tôi lấy hình ba tôi xuống hôn, nhét vội vào ba lô cùng mớ quần áo và ô vàng. Tôi băng đường ruộng rời khỏi nhà giữa đêm khuya. Nâng lon bia lên, tay trái vổ nhẹ vào vai Phong tôi nói trong xúc động.
- Anh chị thành thật chia buồn trước thãm cảnh gia đình chú, tội nghiệp bác trai quá đi thôi!

Anh xin kể tiếp những sự việc liên quan đến sau đêm Mười Thụ bị giết.
Tôi kể cho Phong nghe công an huyện bắt giam tôi một tuần lễ để điều tra như tôi đã kể đầu câu chuyện.
Nghe xong, Phong từ tốn nói:
- Lúc ở tù , chị gian nan gồng gánh mang đồ tiếp tế thăm nuôi giùm em, lúc em giết kẻ thù, anh chị bị liên can ở tù cả tuần! Thật em có lỗi và mang ơn anh chị nhiều quá!

Dùng cơm xong, rót cho Phong tách trà và Phong kể tiếp:
- Trưa hôm đó, em qua tới Cần Thơ bán một lượng vàng, em trả tiền hào phóng để xuống ghe của hai vợ chồng trẻ lên biển Hồ mua cá làm mắm. Sang đến Campuchia em tốn hai lượng vàng để trốn dưới hầm tàu buôn đến Thái Lan. Cảnh sát Thái dưa em vào trại tập trung. Sáu tháng sau em được phái đoàn Mỹ phỏng vấn, em còn đầy đủ giấy tờ cùng hình ảnh nhảy toán với cố vấn Mỹ, do ba em chôn dấu. Phái đoàn chấp thuận cho định cư ở My, em ở thành phố Buffalo Tiểu Bang New York, vẫn còn độc thân, cu ky một mình.

Nhân dịp nầy, em mời anh chị cùng các cháu mùa hè nầy sang chơi một chuyến, từ nhà đến thác Niagara chỉ một giờ lái xe. Anh chị giúp em làm cử chỉ đẹp để đền ơn đáp nghĩa với anh chị coi !
- Vợ chồng tôi hứa sẽ sang thăm chú.

Phong ở chơi với gia đình chúng tôi ba ngày, hôm đưa Phong ra sân bay, bắt tay chúc chúc gia đình tôi nhiều may mắn và phát đạt, với ánh mắt long lanh Phong nói:
- Anh xem cộng sản tàn ác đối với nhân dân miền Nam mình như thế nào? Tù đày, kinh tế mới rừng thiêng nước độc, cướp ruộng vườn, nhà cửa. Mở chiến tranh sang Campuchia biết bao thanh niên chết, cụt chân tàn phế. Và chỉ với một tô cháo trộn tóc no đủ làm gia đình em lụi tàn luôn. Ba em chắc đã ngậm cười nơi chin suối khi em đã trả được thù chop ông. Cộng sản nếu bắt được, chắc chúng nó sẽ bằm xác em cho vịt ăn lắm. Bắt tay tôi lần nữa, Phong quay long bước nhanh vào cầu thang máy bay.

Trên đường lái xe một mình trở về nhà, hình dung hằng vạn đoạn tóc ngắn đâm vào bao tử ba Phong, đớn đau tột cùng ! Bổng dưng tôi rùng mình và nhớ đến câu nói của một triết gia:
" Hai con lừa chữi nhau, nếu ta nghe được tiếng lừa. Câu thậm tệ nhứt của con lừa nầy chữi con lừa kia là: "Mầy là đồ người"!

Chiều xuống thật nhanh, xa lộ đã lên đèn sáng trắng như một dòng sông, chảy miết về phía trời xa.

Trích trong tập truyện Đêm Lạc Đạo.
Của nhà văn Tường Lam.

NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÊN TÀU 502



NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÊN TÀU 502.

Chuyến tàu di tản của dương vận hạm Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ sửa chữa, chở theo trên 5000 người, rời cầu tàu trong Hải quân công xưởng đêm 29 tháng 4 năm 1975 với bao nỗi khó khăn, hãi hùng, nguy hiểm. Hầu như trên mười năm sau đó, đã định cư ở Mỹ an toàn, nhiều đêm ngủ, thần trí tôi vẫn bị trôi theo cơn hốt hoảng kinh hoảng bởi chuyến đi này.Trong những giấc mơ kinh dị, tôi vẫn thấy rất rõ rừng người đặc nghịt trên sàn tàu. Bầu trời thì đen thẫm, ánh đèn xanh đỏ của những chiếc trực thăng vần vũ, nặng nề bay qua bay lại. Những đám cháy sáng rực bùng lên ở mấy góc trời.Kho xăng Nhà Bè trắng xóa, lấp lánh dưới ánh lửa đang cuồn cuộn bốc cao từ căn cứ Hải quân. Những tiếng nổ òa vỡ bên tai, kéo theo tiếng rít của những trái đạn rời nòng từ hai khẩu đại bác của đặc khu Rừng Sát. Con tàu ôm sát bờ lửa đạn ấy để vào nhánh sông Soài Rạp, bò ra cửa biển.

Sáng 30 tháng tư, con tàu liệt máy, buông trôi ở cửa sông. Biển ở trước mặt, sóng trắng xô xô từng đợt. Lại những đợt máy bay từ phía Saigon túa ra. Những chiếc trực thăng bay thấp, dọc theo hông tàu, thấp hơn chiều cao của đài chỉ huy chiến hạm. Cửa máy bay mở rộng. Chúng tôi thấy trong lòng máy bay chật ứ đàn bà , trẻ con. Mấy bà già hướng về chiến hạm, quỳ cúi gập người, chấp hai tay mà lễ. Trong khi đó, viên phi công rà được tần số của chiến hạm. Bằng một giọng nói đầy khấp thiết: “Anh em Hải quân ơi, cứu chúng tôi với. Chúng tôi được lệnh bay ra biển để đáp xuống tàu Mỹ. Nhưng tới điểm hẹn chỉ thấy biển mênh mông, tàu Mỹ đâu không thấy, nên phải quay về. Tàu tôi chỉ còn năm phút xăng. Xin cứu chúng tôi, gia đình tôi, mẹ tôi” Không cầm lòng được, hạm trưởng Nguyễn Văn Tánh và “Ban Tham Mưu” chấp nhận những khó khăn, bất trắc, đồng ý cho trực thăng đáp xuống sân chiến hạm. Sân chiến hạm đông đặc người, lùng nhùng những chiếc mền đủ màu căng ra che sương gió qua đêm. Nắng bắt đầu oi ả. Tất cả phải giải tỏa cấp kỳ. Mọi người xuống hết sân chiến xa. Sân tàu trống vắng. Chiếc trực thăng từ từ đáp xuống. Một chiếc. Lại một chiếc nữa.

Tới gần trưa 30 tháng tư, ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Cả tàu mấy ngàn người xốn xang, cuống quýt. Có những tiếng khóc vỡ òa đâu đó. Một buổi họp khẩn cấp để đi đến quyết định: Bằng mọi giá phải thóat khỏi lãnh hải Việt Nam. Phải ra đi cho bằng được. Toán thợ máy kết hợp lạ lùng cố sửa chữa. Máy tàu nổ, một máy. Tàu ra được ngoài khơi, lết đến gần Côn Sơn, gặp được hạm đội mình ở đó. Lệnh từ soái hạm HQ.3 chỉ thị cho HQ.16 tới kéo HQ.502 đi. Những đêm lừ đừ ở ngoài khơi, đoàn tàu vừa đi, vừa đợi nhau.Những chiếc ghe đầy ứ người sáp vào chiến hạm. Không thể làm ngơ, tàu thả thang dây, lại vớt thêm người. Đêm xuống, hải đăng Vũng Tàu lóe lên từng đợt như thách thức, như mời gọi, như vẫy tay giã từ. Bờ biển quê hương đấy mà giờ đã trở nên kinh khiếp, chia lìa, đớn đau. Ngày đêm qua làn sóng điện của đài Saigon, không còn là những giọng nói thân quen, mà là lời kêu gọi chát chúa: “... quân,S cán chính của ngụy quyền Saigon mau mau ra trình diện”.
Những ngày thiếu thốn, chật chội, chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm chỗ sống, chỗ khê, chỗ thiu chua.
Mấy ngày sau, bờ biển Phi Luật Tân hiện ra, núi non chập chùng đen thẫm. Lễ chào và hạ quốc kỳ VNCH lần cuối được diễn ra đơn giản nhưng vô cùng nghiêm trang và rất đớn đau. Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ bạc màu từ từ được kéo xuống cùng với hàng ngàn giọng hát, già trẻ, nam nữ cất lên, vừa hùng tráng vừa chất chứa nghẹn ngào. Những lời hát như trùm kín cả vùng trời biển nước mênh mông. Lời ca dứt. Những tiếng kêu khóc bỗng bùng vỡ. Nhìn đâu tôi cũng chỉ thấy những cặp mắt đẫm nước mắt. Trong những tiếng kêu khóc thảng thốt ấy, tôi thấy có tiếng kêu của một người đàn bà: “Ôi, con ơi, con ơi”. Trong tập bút ký viết về cụôc di tản này, tôi đã ghi lại tiếng kêu thảng thốt, lạ lùng này. Tại sao tôi lại không ghi những tiếng kêu khóc khác tràn ứ quanh tôi trên con tàu Thị Nại HQ.502 lúc đó. Tôi không trả lời được. Vì khi viết lại giây phút xúc động lịch sử này, tay tôi như chỉ tuân theo những gì mà thần trí tôi ghi dấu mà tự động viết ra. Viết như vẽ lại rất tự nhiên, không có lựa chọn nào. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu. Tình cờ tôi đã hiểu. Có những hình ảnh tuy mờ nhòa. Khi ẩn khi hiện, nhưng không bao giờ biến mất trong trí nhớ tôi. Tôi không bao giờ quên. Tôi nhớ lại rồi. Tôi nhớ thật rõ. Tôi hiểu tại sao tôi lại ghi lại tiếng kêu này. Xin hãy cho tôi từ từ nhớ lại.
Tôi bỏ chiếc xe hơi nhỏ ở ngoài cửa Hải quân công xuởng sát bên bệnh xá Bạch Đằng. Tôi đi đầu, hướng dẫn cả gia đình trên mười người thheo đoàn người lũ lượt chạy bộ dọc theo chiều dài Hải quân công xưởng. Vừa chạy vừa ngoáy cổ nhìn trở lại để kiểm soát đoàn “rồng rắn” của gia đình. Chỉ sợ có người bị lạc. Lạc là vô cùng khốn khổ, khó khăn. Tìm đến cầu tàu trước Bộ Tư lệnh hạm đội. Con tàu Thị Nại HQ.502 nằm đó, vị trí một. Bên ngoài còn ba con tàu khác cặp song song. Tất cả bốn con tàu xám ngắt, hướng mũi phía hạ đông. Người từ phía sau tràn tới. Như đã hẹn, tôi phải lên được ocn tàu này. Con tàu do bạn thân cùng khóa với tôi làm hạm trưởng.. Hải quân Trung tá Nguyễn Văn Tánh.Chúng tôi cũng đã hùn tiền mua thêm nhiều gạo,mì và thức ăn khô chất sẵn ở tàu này. Nước lấy tối đa. Lúc này thủy triều dâng cao, bắt đầu xuống. Người ken sát nhau như gạch trên cầu tàu nhích tới, nhích tơi. Cái thang dài độc nhất dựng dốc ngược bên hông tàu. Tôi biết khi khẩn cấp, chỉ cần thả hai mối dây là cái thang tự động tuồi xuống cầu tàu, lăn theo hai bánh xe ghi trên mặt đất, không một chút khó khăn. Tàu sẽ tách bến dễ dàng. Nhưng bây giờ rừng người đang ùn ùn tiến tới. Những quân nhân, trai tráng tìm mọi cách bám vào thành tàu mà lên. Gia đình tôi tất cả mười ba người, con số tình cờ không vui, trong đó có ông bà nhạc tôi ốm yếu, bốn đứa con nhỏ dưới mười tuổi. Chúng tôi không có cách nào khác ngoài cách leo cầu thang nhỏ, dốc ngược này để lên tàu. Tôi lên đầu tiên, bế trên tay đứa con út hai tuổi bụ sữa, nặng chĩu. Trên lưng đeo một ba lô quần áo và các thứ cần dùng. Một tay xách cái va li nhỏ đựng đầy giấy tờ. Bản thảo và hình ảnh. Rất nhiều hình ảnh. Cầu thang dốc và trơn, khiến tôi trượt chân. Cái va li trở nên nặng quá bung ra phía ngoài. Tôi buông tay nắm vội vào sợi dây cable, cái va li rơi tòm xuống nước, mất tăm. Hai tay ôm chặt thằng nhỏ trong lòng. Tôi cúi người xuống để ghì lấy mặt thang. Trong phút chông chênh đó có bàn tay ai rất mạnh giữ chặt lấy cánh tay tôi. Chỉ trong một sát na kinh khiếp đó, tôi gượng lại được và bò lên sàn tàu. Không biế cánh tay ấy của ai. Ai đã cứu bố con tôi. Đặt con xuống sàn tàu, tim tôi còn đập bập bùng hồi hộp. Tôi quay lại cùng các em tôi kéo vợ tôi, hai ông bà nhạc lên tàu. Kiểm điểm lại “quân số” gia đình. Đủ cả. Tôi quay lại cầu thang đứng chân trước chân sau thật vững trên sàn tàu. Một tay vịn vào hàng rào chắn, một tay chìa ra kéo những người đang trèo ngược thang lên. Bao nhiêu bàn tay tôi đã nắm. Có bao nhiêu bàn tay bè bạn thân quen, nắm chặt tay nhau kéo lên, buông ra với những nụ cười. Anh Trần Văn Tâm tức nhà văn Trần Quán Niệm, anh Nguyễn Hưng Quảng, anh Nguyễn Đa Phúc và bao nhiêu người nữa. Chúng tôi xúm nhau ở đó để tiếp tay, đỡ đần những người yếu đuối. Có bao nhiêu là những bàn tay già nua, hay non dại của những ai tôi chưa bao giờ gặp gỡ. Tất nhiên chúng tôi cũng đã chuyển , bế bao nhiêu con trẻ ở tuổi các con tôi. Lúc kéo người lên như thế, cũng là lúc tôi nhìn xuống khoảng trống giữa thành tàu và cầu tàu, tôi không còn thấy cái va li của tôi đâu cả. Nước đã cuốn nó đi trôi nổi ở góc kẹt nào. Khoảng trống dọc theo thân tàu chỉ độ bốn mươi phân thôi, là bề dày của trái độn cao su. Cái khe này hun hút đen thẳm dọc theo thân tàu dài hàng trăm thước. Dưới sâu là mặt nước, những làn sóng nhỏ, lấp lánh những ánh đèn trôi đi, trôi đi. Tôi bịết sức nước trông thế nhưng thật mạnh mẽ. Chân cầu tàu lù xù những vết sò hến, rác rưởi bám đầy. Nếu ban nãy tôi không có cánh tay nào bám lấy, ngã xuống đấy. Mới thoáng nghĩ thế toàn thân tôi lạnh buốt. Tôi nghĩ đến con tôi. Đứa con út của tôi.
Rời cầu thang trở lại với gia đình, tôi vừa quay gót , có tiếng người đàn bà thảng thốt kêu lên: “Con tôi, con tôi rơi rồi, ôi con ơi là con ơi”. Tôi quay phắt lại, người ta đen đặc, đang kéo người đàn bà vào sàn tàu. Ở phia cầu thang người vẫn cứ ùn tấn lên không dứt. Người đàn bà khốn khổ, mất con như mê đi, đang được mọi người xúm lại chữa chạy, dựt tóc, bôi dầu. Hình như không ai quan tâm đến số phận đứa nhỏ vừa rời tay mẹ rơi xuống cầu tàu, mật tăm. Vô phương cứu tìm. Mà ai còn thì giờ đâu để ngó xuống cái khe thẳm đó. Người càng lúc càng lên thêm, đứng đen đặc cả sàn tàu. Không ai biết, chẳng ai quan tâm đến cảnh huống bi thảm vừa xảy ra. Đêm mỗi lúc mỗi sâu. Nỗi khốn khỗcủa người mẹ mất con như bay theo, mất hút giữa đêm đen mỗi lúcmỗi thêm kinh sợ.
Lên được trên tàu, tìm gặp bạn tôi, HQ Trung tá Nguyễn Văn Tánh, hạm trưởng, anh nhường phòng của anh cho gia đình tôi. Tôi ngần ngại, nhưng anh bảo: “Tôi còn cái phòng nhỏ trên trung tâm hành quân”. Tạm yên tâm, tôi sát cánh cùng anh, tập họp tất cả quân nhân có mặt, tìm mọi cách đem tàu ra khơi. Người thì chật cứng ở sân boong chính, ở hầm chiến xa, và la liệt cả ở hành lang, mọi chỗ. Nhưng như anh Tánh sau này cho biết thì: “Nhân viên cơ hữu trên 100 nay thì chỉ còn có 9 người”. Tình trạng chiến hạm còn đang sửa chữa: “Hai máy chánh ráp xong nhưng chưa thử tại chỗ. Hai máy điện chưa được ráp song song. Bơm nước ngọt và bơm cứu hỏa chưa ráp. Bình cứu hỏa CO2 còn nằm trên hải quân công xưởng. Hai máy neo trước và sau bất khiển dụng. Sàn tàu cắt mở lối đem máy chánh lên chưa hàn lại”. Biết bao nhiêu trở ngại, khó khăn, nguy hiểm. Khi khởi động được máy thì tay lái bất khiển dụng. Dây cable lái bị cắt đứt. Nói ra không hết nguy khốn của cuộc đi này. Bao nhiều điều, bao nhiêu hình ảnh vẫn đầy ắp trong trí não tôi. Lúc mờ lúc tỏ, tiếng kêu đó không bao giờ mất được trong tiềm thức của tôi. Khi có những sự tương quan, hình ảnh ấy sẽ tự động hiện ra mà lý trí tôi không thể can dự vào. Và sự việc đã xảy ra rất tình cờ mới đây, gần 30 năm xa cách.
Trong một buổi gặp gỡ thu hẹp của mấy bà bạn cựu nữ sinh Trưng Vương của bà xã tôi tại San Jose, chuyện trò đang nổ như cái chợ, bỗng khựng lại khi tình cờ chị D.N. nói: “Thế ra gia đình tao cùng di tản trên con tàu HQ 502 với tụi mày à. A sao cả tuần lễ trên tàu mà mình không gặp được nhau. Ừ, người đông như kiến. Trên 5000 người. Khiếp thật!”. Anh Ng., chồng chị N. nói: “Khi ở trên tàu, tôi xung phong trong toán nhà bếp, nóng như cái hầm. Lúc có điện, lúc không. Cơm nấu suốt ngày mà không đủ. Lúc sống, lúc khê. Khi ra đi, đại gia đình chúng tôi có 20 người. Nếu kể cả thằng cháu P. bị rơi ở cầu tàu là 21. Bây giờ tổng số đã là 40”. Lòng tôi như có điện giựt.Cả một khung trời kinh khiếp đêm 29 rạng 30 tháng tư năm cũ hiện ra rõ ràng. Cái khe sâu dọc theo cầu tàu đen thẵm, lấp lánh những lượng sóng trôi đi, trôi đi. Tiếng kêu thảng thôt của người đàn bà: “Con tôi, con tôi rơi rồi, con ơi là con ơi”. Lạ nhỉ. Quả đất tròn thật. Tôi phải tìm gặp cho được người đàn bà ấy.
Bà Đ.T.L. qua điện thoại kể lể: “Một tay tôi cầm cái túi. Một tay tôi dắt thằng cháu P. bước lên cầu thang dốc ngược của con tàu. Người từ phía dưới cứ nống lên. Mà là người nhà mình cả chứ đâu. Gót giày tôi như kẹt vào khe cầu thang, chân tôi bỗng nghiêng đi lao chao muốn ngã. Thế là tôi buông tay thằng nhỏ ra. Nó rơi ngay xuống khe tàu, mất tiêu. Tai tôi như chỉ còn nghe tiếng cháu kêu: “Mẹ L. ơi”. Tôi kêu lên nhưng có ai giúp được gì đâu. Mà có ai thấy gì đâu mà giúp. Tay tôi bỗng trống không. Tôi được người ta kéo lên sàn tàu. Tôi mê đi chẳng biết gì nữa. Bên tai tôi cứ loáng thoáng tiếng kêu của nó. Từ đó nói ông bỏ qua đi cho, tôi cứ ngớ ngẩn chẳng còn biết gì nữa cả. Tôi nằm như chết ở sàn tàu, chả thiết ăn uống gì. Khi đoàn tàu sữa soạn vào cảng ở Phi Luật Tân, mọi người lên sân chính chào quốc kỳ lần cuối cùng, trong tai tôi vẫn vang vang lời kêu của cháu: ”Mẹ L. ơi!”. Vì thế trong giờ phút ấy, tôi bỗng òa khóc và kêu lên”.
Vẫn theo lời kể của bà L.: “Lúc ấy, cháu T.T.P được sáu tuổi rưởi. Cháu nhờ trời cũng chịu ăn, chịu chơi nên có da có thịt, chắc nịch. Mỗi khi trái nắng, trở trời, cháu cứ hay kêu: “Mẹ L. ơi, cứu P.”. Tôi không quên được tiếng kêu ấy của cháu ông ạ. Tiếng kêu ấy cứ vang vang trrong đầu tôi, hình như không lúc nào dứt. Lúc thức, lúc ngủ, lúc tụng kinh, không lúc nào tôi không nghe thấy tiếng kêu ấy của con tôi, nên tôi nghĩ con tôi còn sống. Vì thế suốt mấy chục năm, ngày nào tôi cũng thắp hương cầu Phật bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn phù hộ độ trì cho cháu. Sau này, chúng tôi trở lại đạo, hàng ngày lại cầu xin Đức Mẹ Maria che chở cho cháu. Tôi tin tưởng hoàn toàn vào đấng thiêng liêng và tôi tin rằng cháu vẫn còn sống, ông ạ”.
Vẫn lời kể của bà L.: “Rồi cách đây ít năm, người Việt Nam từ hải ngoại về nước mỗi lúc một đông. Tôi cũng về thăm lại làng xóm, thăm thân nhân. Trong câu chuyện qua lại giữa bà con, có ngời nhắc rằng: “Nếu chị tin là cháu còn sống, thì phải có người vớt được cháu. Chị thử đăng báo tìm xem thế nào. Không thiếu những trường hợp thất lạc con cái rồi người ta cũng tìm lại được đấy”. Thế là tôi nhờ đăng tin tìm cháu ở báo Tuổi Trẻ và có 6 người cùng tuổi với cháu liên lạc với tôi. Người thì ở ngay Saigon, người thì ở quê. Cũng là người tử tế cả. Có anh nói: “Thôi, con không qua Mỹ đâu. Đã có vợ con và sống ở đây quen rồi, mẹ có thương con thì cho con ít cây (vàng) con mua mấy mẫu ruộng”. Nghe thế biết thế, tôi cũng chưa có gì đích xác để quyết định cả. Trong 6 người nhận là con tôi, có một anh cao, giống thằng con tôi hiện ở Mỹ. Anh này hiện học nghề Đông y, chưa vợ con gì cả. Với tôi, anh ấy đối xử lịch sự, bình thường, không vồn vã mà chẳng đề nghị xin xỏ gì. Vì theo bà mẹ nuôi của anh kể lại thì: “Câu chuyện khá dài, nhiều uẩn khúc lắm”.
Vẫn theo lời kể của bà L.: “Bà này giàu có lắm. Trước 75 bà là dược sĩ, có tiệm thuốc tây rất lớn. À đã có 10 người con do bà đẻ ra. Nhưng trong hoàn cảnh tang thương của thời loạn lạc, có mấy người không nuôi được con đem cho bà, bà đều nhận hết. Bà săn sóc trên 10 đứa con, con đẻ cũng như con nuôi như nhau. Đứa nào học được bà cho đi học. Nhiều đứa thành tài là kỹ sư, bác sĩ. Có đứa lớn lên xin về nhà bố mẹ đẻ, bà cũng vui lòng, còn cấp vốn liếng cho để làm ăn. Có đứa làm ăn thất bại bò lên xin ở lại với bà, bà lại nhận nuôi nấng cả gia đình vợ con nó như xưa. Bây giờ trong thời đổi mới, bà đang kinh doanh về ngành du lịch. Bà mua cả một khu rừng, xây khách sạn, đắp núi non vườn cảnh. Trong đó có những nhánh sông bà cho xây cây cầu qua lại thật là đẹp. Nói ra có lẽ khó ai tin được. Thật cái nhà của tôi bên Mỹ không bằng cái nhà xe của bà ấy. Bà ấy nói với tôi rằng thằng Mỹ do một bà bán chè ở bến sông Saigon cho bà ấy. Thằng nhỏ này trôi trên sông Saigon, có một người lái đò vớt được, đưa lên bờ. Thằng bé bơ vơ khóc quá xá nên cho đứng tạm cạnh bà bán xôi chè, đợi bố mẹ nó tìm đến. Nhưng chả thấy bố mẹ nó đâu, bà hàng xôi tìm đến bà dược sĩ bảo rằng: bà làm phước nuôi dùm thêm đứa nhỏ này. Hỏi bố mẹ con đâu, nó nói trong nước mắt: Đi Mỹ rồi. Do đó bà dược sĩ mới đặt tên nó là Mỹ”.
Vẫn lời của bà L.: “Cái anh tên Mỹ này lớn lên trong gia đình bà dược sĩ. Dù không ai nhắc nhở nhưng anh ta vẫn tin sẽ có lúc anh ta phải qua Mỹ đoàn tụ với cha mẹ ruột. Thời gian vùn vụt trôi, gần ba mươi năm cơ hội chưa đến. Trong khi chờ đợi, anh ta quyết không lập gia đình, sợ lôi thôi khi đi đoàn tụ. Và để có được một nghề qua Mỹ không cần học lại, anh ta học nghề đông-y-sỹ. Bà dược sĩ nói với tôi rằng tuy là con nuôi, nhưng tôi thương thằng Mỹ như con ruột. Nó muốn gì, tôi không tiếc. Đấy cái cửa hiệu đông y đấy, rất khang trang, đủ mọi thứ thuốc, từ sâm nhung hảo hạng đến các thứ quế đắt tiền, thứ gì tôi cũng đặt mua đầy đủ. Nó vừa sửa soạn là thầy lang vừa làm người bào chế, rất mát tay, tuy chưa ra trường nhưng cũng đông khách lắm. Sang Mỹ chưa chắc gì có được một cơ sở vững vàng như thế. Nhưng nó tin là nó không ở đây lâu đâu. Thế nào nó cũng qua Mỹ đoàn tụ với bố mẹ ruột của nó. Nó muốn thế, tôi cũng sẵn sàng giúp nó được toại ý khi cơ hội đến. Nếu nó thật sự là con bà, bà chứng minh được nó là con bà, tôi sẽ cố gắng tìm mọi cách để nó về với bà.”
Vẫn lời của bà L.: “ Tôi trở lại Hoa Kỳ, tôi cứ nhớ cái thằng Mỹ này quá. Chắc chắn nó là con tôi. Nhưng bảo rằng chứng minh cụ thể thì tôi chưa có cách. Tôi có đem chuyện này hỏi ông bác sĩ gia đình. Ông bác sĩ nói rắng: “Dễ lắm. Nếu nó là con bà, chỉ đem đi thử máu, thử DNA là ra ngay”. Cái vụ thử nghiệm này là chắc rồi. Nhưng tôi lại không muốn làm thế. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, nhờ tôi thành tâm lễ bái, khẩn cầu, nên đấng thiêng liêng đã đưa đẩy cho tôi tìm thấy cháu. Bây giờ lại đem thử nghiệm thì có khác gì không tin vào đấng thiêng liêng nữa, nên tôi không làm. Nghe thế, ông bác sĩ ngồi thừ ra hồi lâu rồi hỏi tôi. Nếu nó là con bà, thì nó không giống ông bà cái tai, cũng phải giống cái tóc chứ. Bà nhìn nó bà có thấy nó giống ai trong nhà không?, chắc là phải giống ông nó nhà tôi. Khốn nỗi, ông nhà tôi sang Mỹ được ít năm thì mất. Ông mất cũng tại tôi một phần. Ông cứ cằn nhằn tôi bao nhiêu năm: “Sao đang nắm tay nó bà lại buông tay ra. Làm gì thì cũng phải có ý có tứ chứ. Nắm thật chặt tay thì nó đâu có rơi được”. Đành rằng thế nhưng tôi có muốn buông tay ra đâu. Trời xui đất khiến nó hóa như thế, chớ có người mẹ nào nỡ buông con ra cho nó rơi xuống sông, hở ông. Thế là bao nhiêu năm đằng đẵng xót xa, rồi ông ấy mất. Lúc mất hình như ông ấy còn gọi tên nó trong lúc lâm chung. Thế là bao nỗi cay đắng đổ cả lên đầu tôi. Thôi thì trăm sự tôi trông vào đấng linh thiêng, Đức Quan thế âm khi trước và bây giờ là Đức Mẹ Maria. Đêm nào tôi cũng thắp hương cầu khẩn.
Vẫn lời bà L.: “Tôi thẩn thờ đau khổ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến nó. Còn thằng em nó hầu như tôi quên bẳng, để mặc cho ông nhà tôi trông nom. Nhà tôi mất đi, trên bàn thờ bây giờ có hình ông ấy nữa. Hàng ngày khi đọc kinh, nhìn hình ông nhà tôi trên bàn thờ, tôi bảo: “Ông có khôn thiêng thì mách bảo cho tôi tìm tìm ra thằng P.”. Một hôm, em thằng P. đi đánh banh về, từ trong nhà tắm đi ra, nó ngồi trước mặt tôi, lấy khăn lông lau đôi bàn chân. Nó lau kỹ lắm, khiến tôi chú ý. Sao mà hai ngón chân cái của nó xòe ra như người Giao Chỉ ngày xưa. Tôi hỏi nó sao thế, nó bảo: Thì ngón chân con nó thế. Đi giày thì hai ngón chân cái nó ép lại. Để chân không nó lại xòe ra. Tôi trở lại Việt Nam, trở lại nhà bà dược sĩ. Bà vẫn ân cần, niềm nỡ đón tôi và vẫn một mực nói: “Tôi sẽ trả con cho bà với điều kiện bà phải chứng minh được nó đích thực là con bà”. Thì cũng là tình cờ thôi, hôm ấy, thầy lang Mỹ lội xuống khúc sông trước nhà, bơi, tắm.
Tắm xong, lúc ngồi ở nhà ngang, anh ta ngồi lau chân, trời ơi, hai ngón chân cái của thằng Mỹ cũng xòe ra như thằng con tôi, em nó ở bên Mỹ. Không sai được nữa rồi. Tôi bỗng bật khóc và kêu lên P. ơi, con ơi. Thầy lang trố mắt nhìn tôi. Bà dược sĩ cũng thảng thốt đứng lên. Ba chúng tôi ôm choàng lấy nhau, nước mắt chan hòa. Thằng P. ôm tôi và nói: “Con là P. của mẹ đây, mẹ L. ạ” Bà dược sĩ thì bảo: “Sao trước đây bà không cho tôi biết tên nó trước đây là P.”.
Vẫn lời bà P.: “Bà dược sĩ nói rằng hàng ngày chúng tôi kêu nó là Mỹ. Nhưng những khi đau ốm mê sảng, nó kêu lên: “Mẹ L. ơi, cứu P.”. Nhưng quả đúng 100% nó là con bà, bà dược sĩ lại hỏi tôi, vừa cười vừa nói: “Trong người nó có vết tích gì đặc biệt không?”, tôi đáp ngay: “Mông đít nó có một vết chàm”. Thế là hai chúng tôi lại ôm lấy nhau một lần nữa. Và lần này thì bà dược sĩ dành dọt nói: “Đúng thằng Mỹ đây khi bé nó tên là P., nó đích thực là con bà”. Tôi ràn rụa nước mắt xà lại ôm lấy P.. Hai mẹ con chúng tôi ôm nhau thật chặt. Tôi bấu vào vai nó. Tôi nắm chặt cánh tay nó. Không rời ra được nữa đâu. Và trong lúc xúc động này, tôi lại hốt hoảng kêu lên: “Ôi con ơi, con ơi”. Tôi buông P. ra, buông con tôi ra, rồi chắp tay đọc thầm một đọan kinh Tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời Phật. Nước mắt tôi tuông như mưa. Tôi quỳ xuống. Tôi vái tứ phương. Tôi gọi tên nhà tôi: “Ông ơi, tôi tìm thấy con rồi”. Hai mẹ tôi quay lại, thấy bà dược sĩ đứng nhìn chúng tôi, mếu máo với hai hàng lệ chảy. Chúng tôi, mẹ con tôi tiến tới, choàng tay ôm chặt bà vào lòng. Tôi nói: “Bà ơi! Bà là ân nhân của chúng tôi, bà mới thật là mẹ nó. Trời, Phật đã dẫn dắt nó là con bà”. Con tôi cũng nói: “Con xin đa tạ mẹ”. Thật chưa bao giờ tôi vui sướng như thế, mà cũng khóc nhiều như thế.Và cũng chưa bao giờ tôi tin tưởng mạnh mẽ như thế vào sự huyền diệu của các đấng thiêng liêng.”.
Cho đến khi chúng tôi viết những dòng này thì bà L. đã hoàn tất mọi thủ tục đưa người con trai tên P. sang Mỹ đoàn tụ với gia đình. Khi mọi việc đã xong, tên tuổi những người liên hệ sẽ được in đầy đủ trong bài viết.

Một kết cục đau lòng:
Bài viết này đã đã được đón nhận khá sâu rộng tại hải ngoại lẫn trong nước. Một tờ báo lớn hiện nay ở Saigon liên lạc với tôi qua email, xin phép in lại và đặc biệt muốn tôi cung cấp tên tuổi, địa chỉ của những người liên hệ đến câu chuyện để họ trực tiếp tìm hiểu, phỏng vấn như một vấn đề tượng trưng cho niềm vui trong-ngoài, giữa kẻ ở, người đi. Tôi đã từ chối vì nhiều lý do. Nhưng lý do gần nhất là ngay lúc ấy tôi linh cảm thấy trong câu chuyện này có nhiều uẩn khúc. Tôi trực tiếp liên lạc với người bạn của bà xã tôi, người đã trực tiếp cung cấp cho tôi những tin tức về câu chuyện. Bà ấy bảo: “Hãy từ từ ông ơi”.
Do đó tôi lắng lòng chờ đợi. Trong khi đó khá nhiều bạn bè, độc giả xa gần hỏi: “Khi nào thì anh con trai lạc mẹ ở Việt Nam sẽ đoàn tụ với mẹ, với em ở Hoa Kỳ?”. Tôi không trả lời được, nói gì đến việc viết ra điều ấy như đã loan nơi những dòng cuối bài viết.Nhưng hôm nay, những ngày cuối tháng 11 năm 2009, chúng tôi có mặt tại San Jose, gặp lại người bạn cũ, người đã di tản trên con tàu HQ 502 ngày nào, là người đã cung cấp cho tôi tin tức liên hệ đến Người đàn bà trên tàu HQ 502.

Bằng một giọng nói mạnh, đi thẳng vào vấn đề, bà ấy nói như sau: “Hỏng rồi. Láo hết. Chúng ta đã bị lừa. Một kịch bản rất tinh vi, kỳ lạ vượt ra ngoài suy nghĩ của chúng ta. Ngay khi Việt Nam họ cho người di tản về thăm quê hương, nói theo danh từ thời thượng là mở cửa, rất nhiều người Việt từ hải ngoại ù về để thăm thân nhân, trong đó không thiếu người thất lạc vợ con là những người hăm hở nhất. Biết bao nhiêu chuyện đoàn tụ gặp gỡ buồn vui đã diễn ra. Trong đó không thiếu người thất lạc con như cô L. nhà tôi đã đăng báo tìm con. Tin này loan đi như một phong trào rất sôi nổi. Trong không khí ấy có L. từ khi thằng nhỏ rơi xuống khe tàu , cô sống mà như người ngơ ngẩn, mất hồn. Lúc nào trong đầu cô cũng vang vang lời đứa con kêu thảng thốt: “Mẹ ơ...i” Tiếng kêu ấy như không bao giờ dứt. Trong chuyến về thăm Việt Nam, gặp lại anh em ruột thịt thì mừng sao cho xiết. Vì ông cụ nhà tôi có nhiều dòng con. Cô L. tuy là em tôi nhưng lại lớn hơn tôi mấy tuổi. Cô về Saigon gặp lại mấy ông anh bà chị từ Bắc vào. Những người đi kháng chiến từ những năm bốn lăm, bốn sáu. Sau chín năm ngoài đồng ruộng, họ trở về Hà Nội, thì hai cụ tôi và chúng tôi đã di cư vào Nam cả rồi. Sau bảy lăm, như ông biết đấy, đại gia đình chúng tôi rời Việt Nam trên con tàu HQ 502cùng với gia đình ông bà. Thôi thì ngàn vạn đắng cay với hai bàn tay trắng, chúng ta làm lại cuộc đời nơi xứ lạ mà lòng thì lúc nào cũng hoài vọng quê nhà. Cô L. nhà tôi thì đau khổ quá sức. Tiếng thằng con cứ văng vẳng trong đầu. Trong nỗi sầu đau cắt ruột ấy, thấy người ta đăng báo tìm thân nhân, người nhà chúng tôi ở Việt Nam bảo, cô hãy đăng báo xem sao, biết đâu thằng nhỏ có ai vớt được, mình tìm lại chuộc về. Chính người nhà mình đề nghị như thế. Họ còn nói, cô cứ về lại Mỹ đi, ở đây chúng tôi theo dõi cho. Khi có tin gì chúng tôi thông báo cho cô biết. Sự khởi đầu như thế và chúng tôi đã cung cấp các sự kiện ấy cho ông. Ông đã viết thành bài văn như báo chí đã đăng. Trong diễn trình này còn nhiều điều lạ lùng lắm. Giữa hy vọng luôn có những khúc mắc, khó khăn. Muốn giải tỏa khó khăn ấy là phải có tiền. Ấy là chưa kể hàng tháng cô L. nhà tôi đều hòa gửi về cho “thằng con lưu lạc” một số tiền là năm trăm Mỹ kim. Còn ngày tư ngày Tết, khi mua xe mua cộ, nào tiền làm thủ tục “bôi trơn”, cứ kìn kìn cô ấy gửi về liên tục bao năm trời. Cho đến lúc phải làm thủ tục đưa thằng nhỏ qua Mỹ, cô em nhà tôi và thằng em của nó bên Mỹ cùng về. Thằng em nó đòi cả hai anh em nó cùng đi thử DNA, thì “thằng anh ở Việt Nam” tìm cách từ chối rồi trốn luôn. Mọi việc đến lúc này mới vỡ lở ra, tất cả là một kịch bản được sắp xếp rất tinh vi. Người đứng ra đóng vai trò chủ chốt trong vụ này không phải ai xa lạ đâu mà là người em ruột của cô em nhà tôi. Thằng nhỏ đóng vai đứa con lạc là chính là con của người em cô L. trước hoàn cảnh này, cô L. như từ trên trời rơi xuống. Cô lạnh ngắt, ngơ ngác nhìn mọi người. Mọi người từ người em cô L. cho đến những anh em ruột thịt của chúng tôi, hiện là những người có chức, có quyền và có của nữa, tất cả không ai nói gì. Không phiền trách người đã tạo ra cảnh huống này. Mà họ lặng yên cũng phải. Vì đâu phải bây giờ họ mới biết đâu. Họ biết hết, biết rất kỹ từ những ngày đầu khi kịch bản hôm nay mới được thi hành, từ khi cô L. cho đăng báo tìm con cơ. Cô L. nhà tôi ngơ ngáo nhìn mọi người. Mọi người dửng dưng lạnh ngắt.
Hai mẹ con cô L. lặng lẽ dắt nhau về Mỹ, lặng lẽ sống trong nỗi đắng cay. Chúng tôi hơn lúc nào hết biết rằng cô L. đã thật sự mất đứa con từ tối hôm tháng 4 năm 1975 rồi. Và bây giờ khi kịch bản kia vỡ ra, không chỉ có cô L., mà tất cả chúng tôi, giòng họ chúng tôi ở Mỹ này, chúng tôi coi như mất hết tất cả bà con ruột thịt hiện sinh sống tại Việt Nam. Giữa họ và chúng tôi như không còn chút liên hệ huyết thống nào nữa. Họ là những người Cộng Sản thuần thánh. Họ là những người khác. Họ không có những rung động, suy nghĩ như chúng ta. Họ như một thứ sinh vật khác. Họ coi chúng ta như những sinh vật hạ đẳng, dễ tin, dễ bị lừa dối, nhẹ dạ. Và khi họ giăng được mẻ lưới, thu được lợi nhuận từ phía chúng ta, họ vui cười hưởng thụ và không có chút xót thương nào cho chúng ta cả.
Có thể tôi đã nhận định sai. Và tôi cũng mong là tôi sai. Mong lắm. Nhưng với nỗi đau của cô L. nhà tôi, của chúng tôi, thì tôi không suy nghĩ khác được. Người Cộng Sản Việt Nam không phải là người như chúng ta. Họ là những sinh vật khác, tôi không thể gần họ được”.
Người viết thấy lòng mình tê dại và không dám có ý kiến nào thêm. Rồi từ trong sâu thẳm của suy tư, những sự việc mới cũ, những người này người khác, kẻ ở quê nhà, người ở hải ngọai, chằng chịt qua bao nhiêu liên hệ buồn vui. Mọi việc đều khiến tôi phải nghĩ lại, dò xét lại. Sao lại có thể thế được? Thế nào là anh em, là máu mủ? Bao nhiêu hệ lụy, cái tốt cái xấu hòa hợp, chồng chất lên nhau. Sao lại như thế được nhỉ? Những giọt nước mắt lã chã tuôn rơi khi em gái tôi vượt bao gian khổ khi đi thăm ông anh giữa đi núi Sơn La. Tiếng gọi anh thảng thốt òa vỡ với nụ cười và tiếng khóc. Khi ông anh tôi ngồi ăn những miếng xôi, gắp những miếng thịt gà cho vào miệng, thì cô em tôi cũng òa khóc. Vì nhớ những ngày xưa bé dại, khi thầy mẹ tôi còn sống, trong ngày giỗ ông bà, chúng tôi cũng có những lần ăn giỗ như thế. Nhưng bây giờ thì khác. Anh tôi đang là một người tù ngồi ăn những miếng cơm ơn nghĩa. Rồi anh tôi được tha. Tha ra là ra đi đoàn tụ với con cái ở nước ngoài. Dù mới chân ướt chân ráo tới xứ người, anh đã có những thùng quà “anh gửi về biếu cô chú”. Sau đó là những đồng tiền “anh dành dụm chút tiền hưu gửi về để cô chú mua hương hoa cúng Thầy mẹ, và gọi là thẻ hương đem ra nhà thờ họ, nhà đình, nhà chùa” Nó là như thế, nhưng cô em tôi bảo “mấy trăm bạc anh gửi về ngày ấy to lắm, chúng em tằn tiện xài đuợc ba bốn tháng”. Những liên lạc thương yêu đùm bọc ấy là gì, phát xuất từ đâu, nếu không phải phát xuất từ máu huyết từ cha từ mẹ. Đó là tình anh em, máu thịt của mình, dù có cách xa nghìn trùng cũng không thể nào phai nhạt. Tình thương máu mủ đó đã tuôn chảy, qua lại, cưu mang lẫn nhau vượt ra những suy nghĩ giáo điều của thời cuộc. Có lẽ hàng triệu người Việt Nam đã cùng trải qua cảnh huống này. Trong giao tiếp, chúng ta là con người, chúng ta chắc không thiếu sơ sót, vụng về. Nhưng với tình thương ruột thịt, những sơ sót ấy hình như đều “chín bỏ làm mười” hết cả. Nhưng ở trường hợp cô L. sao lại thế? Thảm thương và tàn nhẫn như thế? Động lực nào đã khiến chị em ruột thịt trong nhà đối với nhau như thế?!.
Phải chăng đây là một trong những nỗi đau to lớn nhất của tất cả chúng ta sau cuộc chiến tương tàn. Ngoài nỗi tang thương, chia lìa, sống chết, ròng rã mấy mươi năm, dân tộc chúng ta đang đối diện với sự phá sản tận cùng của lương tri?

Lỗi ấy từ đâu?!

Cao Bá Tuấn.

ĐỀ PHÒNG BẤT TRẮC TRONG ĐÊM



NHẮC NHỞ NHỮNG CHO NHAU
ĐỀ PHÒNG BẤT TRẮC TRONG ĐÊM
NHẤT LÀ SỐNG MỘT MÌNH.

TIN RẤT QUAN TRỌNG !

Nên biết rõ một số điều cần thiết phải làm để tự cứu. Hảng dược phẩm BAYER đã chế tạo được loại ASPIRIN tinh chất tan ngay trong miệng. Loại thuốc mới nầy có kết quả nhanh hơn các viên aspin thông thường.

VÌ SAO PHẢI MANG THEO ASPIRIN BÊN MÌNH ?

Có nhiều triệu chứng khác cùng với thể hiện đau đớn ở cánh tay trái. Một trong những triệu chứng đó là cảm giác đau ở cằm (hàm), và còn là nôn mữa và xuất nhiều mồ hôi, tuy vậy những triệu chứng này xảy ra ít hơn.

CHÚ Ý: Có thể không cảm thấy đau ở ngực suốt cơn sốt tim. Phần đông (khoảng 60%) cơn sốc tim xảy ra lúc người ta đang ngủ và không thức dậy nữa. Tuy thế, trong lúc ngủ say người ta sẽ thức giấc nếu cơn đau ở ngực xãy ra.

Nếu điều trên đây xãy ra, phải lập tức nhai nát hai viên ASPIRIN và uống theo một ngụm nước.

Ngay sau đó:
* Gọi điện thoại cho HÀNG XÓM hay cho NGƯỜI THÂN GẦN NHỨT của mình nói rằng: "bị SỐC TIM hay NHỒI MÁU TIM (Heart Attack)".

* Nói thêm là đã uống 2 viên ASPIRIN rồi.

* Ngồi xuống cái ghế bất cứ cái ghế nào hay sofa gần bên cạnh cửa trước để chờ người ta tới cứu mình, nhớ là ĐỪNG CÓ NẰM XUỐNG!!!

Bác sĩ về tim mạch cho biết, nếu mỗi người khi nhận được e-mail nầy cũng gởi cho ít nhứt 10 người thì có thể sẽ có một nhân mạng được cứu sống về "heart attack". Tôi đã làm điều nầy rồi, còn bạn thì sao ?

Hãy chuyển ngay tin nầy, nó có thể cứu sống nhiều người!

Lê Nguyên.

CSVN HÈN VỚI GIẶC, ÁC VỚI DÂN




HẾT TÀU "LẠ" ĐẾN PHỐ "LẠ".

Về mặt lý thuyết, luật lao động của CSVN không cho phép các doanh nghiệp, các đơn vị, tổ chức sử dụng lao động phổ thông là người nước ngoài. Nhưng đó chỉ là lý thuyết, còn về thực tế thì tại Việt Nam hiện nay có trên 300.000 công nhân Hán Chệc là cháu con của Mao Xếng Xáng đang thường trú lưu niên tại các nhà máy và các công trường xây dựng. Chỉ riêng tại tỉnh Ninh Bình nơi có công trường xây dựng nhà máy sản xuất phân đạm Urea đã có số công nhân lao động phổ thông Hán Chệc lên đến trên 1.500 người.

Không phải ngẫu nhiên mà người dân xã Khánh Phú, Huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình đã đặt cho một đoạn đường của quốc lộ 10 chạy qua địa bàn cái tên nghe rất chi là hữu nghị trên tinh thân 4 tốt và 14 chữ vàng ấy là “Phố của người Trung Quốc”, bởi mỗi buổi chiều muộn, khi vũ trụ lên đèn, là hàng trăm, hàng trăm thanh niên Hán Chệc từ các ngả đường đổ xô về con phố này nơi có những hàng quán phục vụ đặc biết dành cho những người láng giềng tốt đến từ que hương của họ Mao. Một người dân địa phương cho biết: “Trước kia ở đây bình yên lắm, nhưng từ khi cái bọn Tàm Man này đến đây thì phố chợ ồn ào hẳn lên. Tối tối, nhiều thanh niên Hán Chệc cởi trần trùng trục uống rượu, cãi nhau, khạc nhổ, rồi trêu chọc, sàm sở với thiếu nữ địa phương qua lại trên đường”. Còn theo một công nhân Việt Nam đang làm việc tại công trường xây dựng Nhà máy phân đạm Ninh Bình thì ở đây cũng thường xảy ra xung đột giữa lao động Việt và lao động Tàu Man hoặc ngay cả giữa lao động Tàu Man với nhau.

Tiếp xúc với anh Nguyễn Hoàng Tâm, ngụ tại xã Khánh Phú, cho biết: “Ngay sau khi khởi công Nhà máy phân đạm Ninh Bình, vùng quê này đã đổi thay hẳn đi: Các nhà hàng, quán cóc, tiệm gội đầu, mát-xa, nhà nghỉ, đua nhau mọc lên như nấm để phục vụ các nhu cầu tươi mát thư giản cho những lao động Tàu Man. Mà những lao động Tàu man này thì, họ cứ kéo từng tốp mươi người, đánh độc một chiếc quần đùi, đi nghênh ngang trên đường, gặp con gái là thế nào cũng xông tới sờ soạn, bóp nắn, khiến không ít thiếu nữ địa phương đã bị hoang thai”. Anh Tâm kể thêm: “Có hôm, trong lúc đang tắm rửa, mấy thanh niên đùa nghịch, rồi gào thét, đuổi nhau tồng ngồng chạy ra phố, rồi tụt luôn cái quần lót của người chạy trước, chạy nhông nhông tồng ngồng, đánh phành phạch hết phố nọ đến phố kia khiến cả phố náo loạn lên!”.

Một người dân ở khu “phố Tàu Chệc” kể: “Cứ uống rượu xong là họ lại kéo từng toán vài chục người, nghênh ngang, xiêu vẹo trên đường, rồi dòm ngó vào nhà dân, trông rất khó chịu. Kinh khủng hơn, có lần họ còn tụt quần tiểu tiện giữa thanh thiên bạch nhật ngay trước nhà tôi và trước nhiều nhà dân khác. Chúng tôi bức xúc, thậm chí xua đuổi, nhưng những lúc như thế, bọn họ dừng lại gầm gừ, chửi lại mắng lại, nên ai cũng ngại, không dám va chạm với họ”.

Số lao động người nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn nhất là Hán Chệc tập trung chủ yếu ở hai ngành xây dựng và xi măng. Tại công trường xây dựng Nhà máy phân đạm Ninh Bình có tới 1.988 người Tàu Man đang làm việc. Trong đó, chỉ có 82 người giữ chức danh tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, 514 người làm kỹ thuật, còn lại là lao động phổ thông, họ đều làm những công việc bình thường như phụ hồ, kéo sắt, kéo cáp.

Lao động Trung Quốc đang làm việc tại Ninh Bình chủ yếu nhập cảnh qua đường du lịch rồi cứ thế ở lại làm việc luôn, nhiều người trong số họ tìm cách quan hệ với gái làng, để rồi sinh con đẻ cái và cứ thế là ở lại hợp pháp luôn. “Luật pháp vẫn chưa mở cửa đối với đối tượng lao động phổ thông nước ngoài nhưng dường như một dòng chảy lao động phổ thông lớn vẫn vào Việt Nam”.

Sau rất nhiều lần cố gắng, vượt qua rất nhiều thủ tục, chúng tôi vẫn không có được bất kỳ câu trả lời nào từ Công an tỉnh Ninh Bình về nguy cơ tiềm ẩn những diễn biến an ninh trật tự khó lường từ số lao động chui là những công nhân "quốc phòng" đến từ Tàu Cộng này.

Thật vô cùng nghịch lý là thanh niên trai tráng ở địa phương từ bao năm nay phải cầm ruộng cố nhà để lo chi phí cho các xuất đi làm lao nô ở các nước trong khu vực, cũng với những công việc phổ thông đó, như Osin, chăm sóc người già, phụ việc gia đình, phu hồ ở các công trường xây dựng, nhiều người còn bị các công ty môi giới quỵt hết tiền lương tháng, nhiều phụ nữ còn bị đánh đập dã man, bị gia đình chủ hãm hiếp tập thể, hoặc bị bán vào làm nô lệ tình dục ở các nhà chứa... Thì ngay tại quê nhà, bên bờ tre gốc lúa của họ những công việc phổ thông đó lại dành hết cho con cháu của Mao Xếnh Xáng của bè lủ Tàu man. Không biết 15 tên to đầu trong Bộ Chính Trị có biết điều này chăng ?

Lệ Thu.

Nhân Ngày Quân Lực VNCH 19.6



Nhân Ngày Quân Lực VNCH 19.6
NGHĨ VỀ NGƯỜI VỢ LÍNH.

Đêm xứ người, trời bỗng nhiên trở lạnh. Chập chờn qua khói thuốc còn đọng lại trong căn phòng âm u, tôi nghe tiếng nấc của bà quả phụ Thiếu Tướng Lê Văn Hưng thoát ra từ cuộn băng ghi âm: “Xin mình cho em chứng kiến giây phút cuối cùng của mình”. Một tiếng đạn nổ, khô khắc vang lên từ ống loa hay từ một thuở nào trong cơn biến loạn. Có lẽ cũng từ lòng tôi. Ngậm ngùi, tôi đứng dậy tắt máy. Nhìn ra khung cửa mù sương, trí tưởng nhạt nhòa lại đưa tôi về một vùng trời hẻo lánh Tiền Giang với khu đồn Giồng Riềng bó rọ trong mấy vòng kẽm gai hoen rỉ và mười sáu quả lựu đạn cuối cùng. Nghĩa Quân Lê Văn Hùng và người vợ lính Phạm Thị Thàng. Hơn 45 năm về trước, thuở tóc tôi chưa đau từng sợi bạc. Tôi đã dẫn quân tăng viện, chiếm lại khu đồn sau trận tiến công biển người của địch. Trong khói lửa ngập vùng, hỏa châu bừng sáng, tiếng nấc của thương binh và tiếng vặn mình của gỗ sắt hòa lẫn với tiếng nổ rời rạc của vài viên đạn gặp lửa bùng lên. Nghe anh Phó Đồn cụt chân kể lại: Sau khi chồng bị tử thương, chị Thàng ẳm hai con nhỏ núp sau ụ đất với một thùng lựu đạn 16 quả. Cánh tay của người vợ lính vung lên, từng tiếng nổ ầm, át cả tiếng khóc trẻ thơ. Mười lăm quả lựu đạn vút đi, ngăn chân biển địch.

Thùng lựu đạn chỉ còn đây một quả
Em dâng anh với cả tình yêu.

Chị Thàng đã tự sát cùng với hai con trẻ để đi theo chồng là Nghĩa Quân Lê Văn Hùng vào cõi vĩnh hằng, cô đơn, côi cút và âm thầm trong cuộc chiến. Người vợ lính đã nuôi con bằng gạo Quân Tiếp Vụ, hạnh phúc bình thường qua bữa cơm với cua đồng cá nội. Ảnh của chị đã được treo lên tại góc đường Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt ở Saigon một thuở nào giữa dòng người thờ ơ qua lại. Người phụ nữ miền Nam với nụ cười đơn sơ chất phác, e ấp qua mảnh khăn rằn. Từ Bến Hải đến Cà Mau, bước chân của người vợ lính ẳm con đi theo chống khắp bốn vùng chiến thuật. Không có những móng chân đỏ hồng nhưng đã tạo nên những vần Thơ dường như huyền sử.

Tôi quay lại bấm máy. Tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vang lên qua từng loạt đạn nổ. “Thiếu Tướng biểu y lệnh hả Chị? Dạ, tôi sẵn sàng”

Tôi lại tắt máy, không dám nghe nữa, có lẽ vì mặc cảm tự ti, hay thấy mình quá nhỏ bé trước những tiếng vọng anh hùng. Lại châm thêm điếu thuốc, ngọn đồi Chu Prao hiện về. Người nữ sinh sắc tộc Thái Trắng sinh tại Đơn Dương, hoa khôi Đà Lạt một thời với tên Đèo-Nàng-Hoa. Lấy chồng là Trung Sĩ Biệt Kích Trường Sơn, tên Neo Krông, da sạm đen với bắp tay cuồn cuộn như một nhánh cây rừng. Trong một lần đi toán, Neo Kkrông đã không về lại. Tặng tiền tử của chồng cho một viện mồ côi, Đèo-Nàng-Hoa đã đi tu và xin chuyển ra làm việc trong trại cùi ở Qui Nhơn. Có một lần tôi gặp lại nàng khi tôi đến thăm mộ Hàn Mặc Tử. Người nữ sinh vợ lính thuở nào như bóng của huyền thoại đã trở thành Dì Phuớc. Nhìn cặp mắt đen mà nghe cả tiếng thông reo. Bàn tay của Dì Phước Đèo-Nàng-Hoa đã bắt đầu ửng đỏ bệnh phong, sự thật hay do tôi tưởng tượng? Khi ra khỏi trại cùi, tôi không dám quay nhìn lại, tâm hồn của người vợ lính bình thản đã nạm vàng trong khi bóng tôi bên đường chỉ là cát bụi. Tiếng thơ của Hàn Mặc Tử lại vọng qua gió thổi rì rào: “Run như run hơi thở chạm tơ vàng”.

Tiếng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trầm buồn nhưng cương quyết: “Làm tướng mà không giữ được nước được thành thì phải chết theo thành theo nước”. Tôi nghe mủi lòng rưng rưng. Hình ảnh của người vợ lính ven sông Thu Bồn dắt con qua bao chuyến tàu chợ từ Quảng Nam ra miền Bắc tìm chồng trong tù gọi là “cải tạo”. Nước mắt âm thầm chảy xuống dặm đường cay nghiệt, chân giẫm lên sỏi đá hận thù. Một gói đường phèn, một lon muối ớt, với tất cả tình thương mộc mạc, đơn sơ như thửa ruộng bờ đê, chắt chiu từng đồng, lặn lội gần một tháng trường gian khổ để chỉ được vài ba tiếng đồng hồ im lặng nhìn con, nhìn chồng tả tơi trong manh áo tù không án. Tù của một giai đoạn lịch sử oan khiên, tù của một chế độ bạo tàn, mà người mẹ và vợ lính không bao giờ hiểu nghĩa. Gần suốt đời cam phận bóng mờ di chuyển theo chồng qua bao trại gia binh, sinh con trong những khu đồn hẻo lánh, để rồi hôm nay bên cạnh tên cúng cơm lại bị ghi thêm hai từ Vợ Ngụy! Từ ngữ sao mà cay nghiệt, nặng trĩu hận thù!
Người vợ lính chẳng hiểu vì sao?

Có người cầm tấm thiệp mời dự Ngày Quân Lực, mấy chục năm rồi xa Tổ Quốc, nhếch môi phán rằng: Quân với Lực làm gì nữa, phí một ngày đi chơi cuối tuần! Tôi cũng cầm tấm thiệp, vặn máy tăng âm cho tiếng vang từ cuộn băng bừng lên, căn phòng dồn dập tiếng đạn xa xưa. Tôi ôm đầu, quặn đau cả lòng. Từ trong tâm tưởng, tôi nghe có tiếng bước chân âm thầm của những người mẹ và vợ lính. Phạm thị Thàng, Đèo-Nàng-Hoa và hàng triệu bóng dáng phụ nữ Việt Nam một thời khói lửa, son sắt thủy chung, đang nhìn tôi qua màn sương lạnh. Nỡ nào quên tình đồng đội, quên những người mẹ và vợ lính đạm bạc, không cần lịch sử ghi danh, đã và đang khóc, thương con thương chồng cùng thương Nước với tấm lòng biển rộng trời cao! Hình ảnh của người mẹ và vợ lính sống mãi trong Hồn Dân Tộc với niềm hãnh diện cô đơn.

Rồi một ngày không xa, tôi sẽ được vô vàn diễm phúc đứng bên cạnh đường lịch sử vinh quang rợp bóng cờ vàng để ngắm nhìn các mẹ, các chị, các em, mỉm cười trong ân nghĩa Tình Người:

Gặp nhau biết nói gì hơn
Cười vui trong gió tóc vờn cờ bay!

Võ Đại Tôn.