onsdag 24. desember 2014

Chúc Mừng Giáng Sinh - Năm Mới


Một lần nữa Giáng Sinh lại về và Năm Mới sắp đến

BÐH Blogger Những Sự Thật
và trang Youtube Những Sự Thật

Chân thành cám ơn những sự cộng tác
của tất cả quý vị gần xa trong năm qua

Kính chúc quý vị
một mùa Giáng Sinh
tràn đầy An Lành

Cùng một Năm Mới 2015  
Vạn Sự Như Ý 



søndag 21. desember 2014

Tiến Sĩ Và Sáng Chế ( Lò Ấp Tiến Sĩ )


Tại sao ở Việt Nam có quá nhiều Tiến Sĩ 
lại không có bao nhiêu bằng sáng chế ?

Bảng 1: Nhóm 10 nước dẫn đầu (trừ Mỹ):
Hạng NướcDân số (triệu) Số bằng sáng chế
 1 Nhật Bản126.9 46139
 2 Hàn Quốc 48.9 12262
 3 Đức82.1 11920
 4 Đài Loan23  8781
 5 Canada  34.3 5012
 6Pháp 62.6 4531
 7Vương Quốc Anh62.44307
 8Trung Quốc1,350 3174
 9Israel  7.3 1981
 10Úc21.51919
(Trung Quốc: không tính Hồng Kông và Ma Cao)
Bảng 2: Nhóm vài nước Đông Nam Á:
Hạng 
Nước 
Dân số (triệu) 
Số bằng sáng chế
 1
Singapore
4.8  
 647
 2
Malaysia  
27.9
 161
 3
Thái Lan
68.1  
 53
 4
Philippines
93.6
27
 5
Indonesia  
232
7
 6
Brunei
0.407
 1
 7
Việt Nam
93
 0

Có phải vì bằng dỏm ? Hay chỉ vì lên chức quan là đủ rồi, khỏi lo sáng chế làm chi ? Hay chỉ đơn giản: năng lực học xong tiến sĩ là cạn kiệt rồi ?

Một quan lãnh đạo giải thích đơn giản hơn: 76% tiến sĩ làm việc ở các lĩnh vực... không thể có sáng chế.

Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore (4,8 triệu dân) có 647 bằng sáng chế. Đứng thứ hai là Malaysia (27,9 triệu dân) với 161 bằng sáng chế; Thái Lan (68,1 triệu dân) có 53 sáng chế. Còn một nước có số dân và trình độ phát triển tương đương nước ta là Philippines cũng có tới 27 bằng sáng chế.

Theo nhận định của giới chuyên gia, thì Việt Nam được xếp vào nước có nhiều tiến sĩ trong khu vực, nhưng nghiên cứu khoa học lại nằm trong nhóm thấp nhất Đông Nam Á. Từ đó cho thấy Việt Nam thiếu các công trình khoa học có tầm cỡ khu vực và ít các sáng chế.

Có ý kiến cho rằng, Việt Nam có hàng nghìn Tiến Sĩ nghiên cứu khoa học nhưng nhiều sáng tạo được ứng dụng gắn với thực tiễn lại đến từ các “nhà khoa học chân đất".
 

Theo ước tính ở Việt Nam chỉ có 24% tiến sĩ công tác tại lĩnh vực kỹ thuật Khoa Học Công Nghệ. Trong số đó còn bao nhiêu người thật sự đang làm khoa học ? Mặc dù chưa có thống kê cụ thể, nhưng con số đó không nhiều. Còn lại 76% thuộc lĩnh vực kinh tế, tài chính, quản trị doanh nghiệp. Đây là những lĩnh vực không thể có sáng chế được.

Câu hỏi rằng, 76% tiến sĩ ngoài khoa học, hay thuộc ngành nhân văn... vậy thì quý ngài Tiến Sĩ có bài viết trên các tạp chí quốc tế nào không ? Bao nhiêu bài ?

Thí dụ, Tiến Sĩ Kinh Tế, hay Tiến Sĩ Tài Chánh, hoặc Tiến Sĩ Xã Hội Học... có bài nào trên tạp chí quốc tế về tình hình kinh tế khu vực, hay về tài chánh VN, hay về ảnh hưởng môn học “Theo Gương Bác Hồ” trên thế hệ trẻ 9X... vân vân ?

Không phát minh, không sáng chế, cũng phải có nghiên cứu trong ngành của mình chớ... Nếu không có thì chắc là Tiến Sĩ mờ....... từ trong Lò Ấp Trứng ..... ! 


Cô Tư Sài Gòn. 

Làm Thế Nào Để Nhận Diện Sư Quốc Doanh

 
Cũng nên nhắc lại trước 1975, Việt Cộng (VC) đã thành công trong việc gài cấy đặc sứ Cộng Sản trong các chùa chiền ở miền Nam, để điều khiển, và gây chia rẽ trong giáo hội Phật Giáo Miền Nam. Xách động Phật Tử miền Nam Việt Nam chống đối chính quyền đương thời. Việt Cộng đã thành công trong việc lợi dụng lòng tin của người Phật tử để  mưu cầu thế lực chính trị của họ.  
 
Chính sách "bình mới rượu cũ" một lần nữa lại đang được CS áp dụng với tín đồ Phật Tử tại Hải Ngoại.
 
Trong hai thập niên từ năm 1975 đến năm 1995, Việt Cộng đã thành công phần nào trong chính sách đàn áp các thế lực chống đối ở trong và ngoài nước.  Trong thì chúng dùng AK, ngoài thì dùng chính sách chia rẽ, phân hoá, gây nghi ngờ trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại (CĐNVHN), đặc biệt là làm yếu đi thế chính trị của GHPGVNTN (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất) cùng các thế lực tôn giáo chống cộng khác mà chúng cho là có thể ảnh hưởng đến chế độ cai trị của chúng.

 Từ kết quả thành công nầy, bọn VC đã không ngần ngại tung ra hải ngoại hàng ngàn "Cán Bộ Đầu Trọc (CBĐT)" mà chúng ta hay gọi là "Thầy Tu Quốc Doanh" nhằm hai mục đích chính:
I.  Áp dụng chiến thuật "Biển Chùa" Trong thời chiến, chúng áp dụng chiến thuật "Biển Người" cho mục đích xâm lăng, cướp đoạt miền Nam VN thì bây giờ chúng áp dụng chiến thuật "Biển Chùa", xây thật nhiều chùa nhằm chia cắt, và lấy đi thế lực ủng hộ của CĐNVHN (Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại) đến các thế lực tôn giáo chống đối.
II. Xây dựng một hệ thống kinh tài qui mô:  Mục tiêu là nhắm vào lòng tin của tín đồ PhậtTử trên khắp nước Mỹ, Úc Châu, và Châu Âu là những vùng có mật độ "Việt Kiều" cao. Những vị Việt Kiều cao niên được coi là những "con mồi ngon" nhất của chúng.
Chúng đã thành công trong hai mục đích trên. Đơn giản, trong các ngôi chùa được xây sau 1975 tại hải ngoại, hầu hết các thầy nay đã già yếu và cần người thay thế. VC đã biết và đã huấn luyện người của chúng để chuẩn bị thay thế các thầy từ lâu. Hầu hết những ngôi chùa Việt Nam ở Hải Ngoại đều bị tụi CBĐT này; trước hết là đến xin vào tu trong những chùa này. Kế đến là tìm hiểu tình hình rồi tìm cách gây chia rẽ Phật Tử (ban trị sự).  Cuối cùng là chiếm đoạt ngôi chùa khi vị tu si chủ trì khuất bóng. 
Ngoài ra  chúng ào ạt xây chùa to nhỏ khắp nơi, bành trướng mạng lưới kinh tài của chúng.  Thành ra hầu hết những ngôi chùa Việt Nam ở Hải Ngoại đều bị tụi CBĐT này khống chế. 
Quí vị có thể tự mình chứnh minh chuyện nầy bằng cách quan sát rằng hầu hết những ngôi chùa VN ở hải ngoại đều có những nét đặc thù và hiện tượng sau đây:
1. Sư (CBĐT) được xuất cảng từ Việt Nam (made in VN, thuộc GHPGVN (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam)). Lai lịch bất minh.  Biện hộ quanh co, hoặc tìm cách né tránh khi bị hỏi về vấn đề này (bị Phật tử để ý và điều tra lý lịch).

2.  Các chùa này hay tiếp nhận những sư (CBĐT) đi “công tác từ VN”.

3.  Hay đi về VN. Lúc ở Hải Ngoại thì rất thường hay liên lạc với VN (để nhận chỉ thị ??? hoặc có thể báo cáo những nhân vật nào có tư tưởng đối nghịch với đường lối của CS để theo dõi ??? hay báo cáo tổng kết chi-thu để chia chác tiền bạc ???).

4. Phần lớn những CBĐT nầy là thanh niên hoặc trung niên, khoảng từ 20 - 45 tuổi Cán bộ già thì ít hơn nhiều. Có lẽ không có sức làm tiền nhiều như tụi trẻ.

5. Hầu hết chúng là người miền Trung Việt. Nhiều nhất là từ Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên.  Phần lớn được tuyển chọn (recruit) vào tổ chức của chúng khi thành viên khoảng từ 10 - 14 tuổi. Xuất thân thường là nhà rất nghèo.
6. Nếu chùa do người khác xây dựng nên thì chúng luôn luôn tìm cách len lỏi vào, gây và củng cố thế lực bằng cách mang thêm người của chúng vào, và cuối cùng là dẹp ban trị sự (hay ban trị sư !!!) để đoạt lấy quyền hành, thao túng hoạt động và tài chánh.

7. Chúng rất niềm nở và ngọt ngào đối  với những con mồi (tín đồ) của chúng. Một khi đã bắt liên lạc, và lấy được địa chỉ và số điên thoại là chúng sẽ "ám" (liên lạc, xin tiền, giả bộ tìm cách giúp đỡ trong việc cúng kiếng, cầu siêu, cầu phước...) người đó đến cùng.

8. Rất rành việc cúng quảy, cho bùa phép để làm ăn, cách thức cúng kiến để cầu thọ, trừ tà... Điều này dễ hiểu bởi vì chúng được đào tạo từ một trường phái mà ra (VC, GHPGVN của VC).

9. Có rất nhiều trường hợp trong Chùa Nam (có các thầy trẻ trung) xuất hiện các ni cô trẻ (nữ cán bộ ? nữ hộ lý ?). Những ni cô trẻ này phần lớn là mượn danh "BÀ CON" của "thầy trù trì" đến tạm trú.
10. Thường thường chúng bắt đầu "lập nghiệp" bằng cách mua một căn nhà nhỏ, lập chùa (nhiều trường hợp không có giấy phép), dùng chùa nhỏ nầy làm bàn đạp gây quỹ, kiếm tiền để xây chùa hợp pháp và lớn hơn.

11. Xây chùa lớn bằng vật liệu từ Việt Nam.

12. Thường xuyên quảng cáo chùa qua báo chí. Đôi khi chúng hùn hạp nhau quảng cáo trên một trang (chi phí quảng cáo thấp hơn).

13. Phát động rất nhiều hoạt động (ca nhạc, cắm trại...) nhắm vào giới trẻ ham vui dễ tin, dễ tánh để gây quỹ. Thường là mượn cớ cứu trợ người nghèo ở Việt Nam, đặc biệt là trẻ em mồ côi (làm tín đồ dễ động lòng hơn, rút hầu bao nhiều hơn).

14.  Những CBĐT này thần sắc phần lớn không được thiện lương cho lắm (mặt mũi lờ đờ, gian xảo).  Cũng dễ hiểu thôi là vì chúng được đào tạo từ một tổ chức bất lương, nhằm mục đích lường gạt người. Thế nên nét gian xảo (tâm bất chính) không khỏi bị lộ diện. 

15. Tụng kinh ê a và lớn. Nếu chùa hợp pháp thì chúng thích gắn loa trong chùa để tiếng tụng được to hơn, uy thế hơn.

16. Nếu quí vị để ý sẽ thấy chúng tích trữ nhiều phim ảnh (movie) để giải sầu sau một ngày làm việc (kiếm tiền) mệt mỏi. 

17. Nếu trong một khu vực có nhiều chùa của chúng thì chúng sẽ liên lạc làm lễ khác ngày, tạo điều kiện cho Phật tử có cơ hội đi chùa nhiều hơn, cúng chùa nhiều hơn.
Thưa quí vị, tôi là một người yêu Phật Giáo. Yêu nét hiền hoà, thân mến của ngôi chùa Phật Giáo.  Yêu hình ảnh dễ thương của tín đồ Phật Giáo khi đi viếng chùa. Và tôi yêu vô cùng cái triết lý tuyệt vời này của ngài Tất Đạt Đa. Tôi vui mừng khi thấy CĐNVHN,  mặc dầu quay cuồng trong thế giới đầy vật chất này, vẫn không quên văn hoá VN, vẫn không quên tìm cách tu tâm, dưỡng tính theo lời Phật dạy.  Nhất là đã bỏ công sức, tiền tài rất nhiều để làm công việc hoằng hoá Phật Giáo (xây chùa, làm công quả...).  Thế nên tôi viết bài này, không phải để phỉ báng chùa chiền, và những tu sĩ Phật Giáo chân chính, mà là tìm cách vạch trần âm mưu, và mục đích của Việt Cộng đã làm thoái hoá đi nền tảng Phật Giáo VN, làm xấu đi hình tượng đẹp của những bậc chân tu, làm ô uế đi hình ảnh trang nghiêm, hiền hoà, thanh đạm, dễ thương và nhất là vô chính trị của ngôi chùa VN. 
Chúng ta, nếu muốn diệt đi lũ VCĐT này thì phải diệt đi động lực và mục đích chính của chúng . Mà động lực mạnh nhất là gì ? Thưa quí vị, đó chính là "TIỀN HOẶC TÀI CHÁNH". Theo thiển ý, nếu chúng ta biết hoặc nghi ngờ một ngôi chùa nào đó có CBĐT khống chế, thì xin quí Phật Tử cắt đứt mọi liên lạc, hoặc không đến ngôi chùa đó .  Đồng thời thông tri cho quí đồng hương trong địa hạt để chúng ta có thể đoàn kết cật lực điều tra, bứng gốc rễ của chúng đi.  Nếu chúng ta còn nữa nghi nữa ngờ thì cũng nên dè dặt trong việc cúng dường. Mặc dầu việc cúng dường tam bảo hay xây chùa là tốt đẹp, là việc nên làm trong công cuộc hoằng dương Phật Pháp. Nhưng nếu chúng ta "cúng" không đúng chỗ (cúng cho CBĐT) thì sự cúng dường này gây ra tai hại cho Phật Giáo còn nhiều hơn là không cúng.  
Ngoài ra, tác giả cũng xin tha thiết yêu cầu quí Phật Tử, quý Thầy ngưng hoặc gia giảm việc nhờ cậy (rước) các sư từ VN, hoặc có lai lịch bất minh đến chùa của mình để giúp đỡ trong việc lễ nghi, cúng kiến. Nếu chúng ta thiếu Thầy làm lễ thì cũng xin cố gắng "liệu cơm gắp mắm" tự túc. Không nên rước cọp vào nhà (chùa) bằng cách đem bọn CBĐT vào trong chùa của mình.

Bài viết này chỉ nói lên thiển ý của tác giả được tích lủy qua nhiều kinh nghiệm giao tiếp với những tập đoàn sư VC. Tác giả, bản thân cũng là một Phật tử,  rất là không muốn làm tổn hại đến niềm tin, tín ngưỡng của bất cứ quí Phật tử nào. Chỉ hy vọng đóng góp chút kiến thức cho CĐNVHN nhằm củng cố lại nền móng Phật Giáo VN ở Hải Ngoại mà VC đã hủy hoại đi quá nhiều. Tác giả cũng tha thiết yêu cầu quí vị Phật Tử đồng hương để tâm đến những con buôn tôn giáo này (CBĐT) khi quí vị ra sức cho chùa chiền, cúng dường tam bảo, đặc biệt là những ngôi chùa không có ban trị sự.
 
Kính bút.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Cư sĩ Minh Hiền.

mandag 15. desember 2014

Mối Nguy Lớn Của Việt Nam


Câu chuyện biển đảo Việt Nam chưa kịp lắng xuống, và có vẻ như chẳng bao giờ lắng xuống được với thái độ lấn lướt của Trung Quốc cũng như sự cúi đầu, nhược tiểu của Hà Nội thì có một câu chuyện khác đang âm ỉ gặm nhấm sinh mệnh của Việt Nam. Có thể nói đây là mối nguy rất lớn mà cho đến thời điểm bây giờ, có thấy hay không thấy chăng nữa thì nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã thật sự bị mắc quai với người Trung Quốc. Đó là chương trình khai thác dầu khí trên cạn bằng kĩ thuật fracking trong thời gian tới mà các vùng núi Việt Nam sẽ là điểm đến lý tưởng của loại công nghệ này từ Trung Quốc.

Thời gian gần đây, sau khi Mỹ thành công trong việc điều tiết dầu khí, giảm lượng dầu nhập khẩu hằng năm theo tiêu chuẩn năm sau thấp hơn năm trước và có thể không cần nhập khẩu dầu nữa nhờ vào kĩ thuật fracking, khai thác dầu từ đá phiến của họ. Sau khi Mỹ thành công, Trung Quốc cũng lao đầu vào nghiên cứu công nghệ này nhưng chưa thành công, có vẻ như còn lâu lắm mới thành công.

Tuy việc nghiên cứu để chế tác công nghệ chưa thành công nhưng về mặt chiến lược, người Trung Quốc đã tiến một bước dài, họ đã thôn tính các vùng giàu tài nguyên đá phiến của các nước trong khu vực. Đặc biệt tại Việt Nam, dãy Trường Sơn là một khu đá phiến vô tận mà muốn có nó, chỉ cần khui sâu dưới lòng đất vài trăm mét thì mọi chuyện đã khác. Người Trung Quốc đã tính đến chuyện này từ lâu.

Và để đạt được điều này, một mặt Trung Quốc tấn công Việt Nam trên biển, mặt khác tấn công trên bộ, đặc biệt là mặt trận kinh tế, họ thả sức tấn công trên nhiều hướng để đạt mục tiêu kinh tế Việt Nam phải phụ thuộc vào Trung Quốc, và đầu tư, thuê đất là bước khởi đầu của mục tiêu fracking lâu dài sau này. Vì nhiều lắm cũng 10 năm nữa, công nghệ fracking của họ sẽ thành công, trong khi đó, chiều dài thời gian họ thuê đất là 49 năm. Và trong 39 năm đó, họ sẽ làm gì trên các mảnh đất đã thuê khắp các sướng đồi Trường Sơn, chỉ có trời mới biết.
Đó là chưa muốn nói đến kế hoạch lâu dài để thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam thành một đặc khu kinh tế hoặc một tỉnh lẻ của Trung Quốc. Chuyện này là nằm trong khả năng của Trung Quốc, cho dù có hay không có những thoả ước ở hội nghị Thành Đô 1990, với thái độ hết sức nhún nhường và lép vế của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, với mọi ưu thế chiếm được, người Trung Quốc có thừa cơ sở để đẩy Việt Nam đến chỗ nô lệ của họ. Và điều này là hoán toàn khả thể, bởi tất cả những người lên tiếng chống Trung Quốc bành trướng đều bị nhà cầm quyền Việt Nam bỏ vào tù hoặc khủng bố bằng nhiều cách.

Một khi có được những thuận lợi do nhà nước Cộng sản Việt Nam mang lại, nhà nước Cộng sản Trung Quốc chẳng dại gì mà bỏ qua cơ hội mà ở đó, một mũi tên có thể bắn trúng cả chục con chim, từ biển đảo cho đến lãnh hải, biên giới trên bộ, rừng núi, đồng bằng, tài nguyên… và đặc biệt là chế độ chính trị, vùng thống trị.

Thuê đất khắp các vùng núi Việt Nam là một chiến lược lâu dài, gồm nhiều bước, bước đầu tiên xậy dựng cơ sở quân sự, tạo những “tam giác” quân sự phối kết giữa đồng bằng, vùng núi và vùng biển. Hầu như tỉnh nào ở Việt Nam cũng có những “tam giác” quân sự như thế này. Chính vì nó là một đơn vị trực thuộc tam giác quân sự của họ nên các “ông chủ công trình” người Trung Quốc bằng mọi giá đưa công nhân (?) của họ sang xây dựng và tuyệt đối không để người Việt Nam lọt vào bên trong. Đây là đặc điểm dễ nhận biết nhất về mưu đồ của họ nhưng không hiểu sao cho đến bây giờ, người Trung Quốc vẫn ngang nhiên làm được nhiều thứ ngay trên đất nước Việt Nam?!

Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã hoàn toàn phụ thuộc vào Trung Quốc, ngay từ cây kim cho đến đôi dép, chiếc tivi, con dao gọt trái cây, hộp quẹt gas, chiếc xe gắn máy… Cho đến những thứ có giá thành hàng chục triệu, trăm triệu đồng, Việt Nam chỉ ưu tiên cho hàng Trung Quốc nhập khẩu. Vì chỉ có hàng Trung Quốc nhập khẩu thì giới quan lại Việt Nam mới có cơ hội chấm mút và sâu xa hơn là chế độ Cộng sản Việt Nam mới có cơ sở tồn tại.

Chính vì phải phụ thuộc và trượt dài trên đà nô lệ cho Trung Quốc, đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn bất lực trước mọi động thái bành trướng của Trung Quốc. Và sẽ không lâu nữa, các dãy núi đá phiến khắp Trường Sơn sẽ là những kho dầu khổng lồ cho Trung Quốc, ít nhất cũng là kho dầu phục vụ chiến tranh xâm lược trong giai đoạn ngắn trước khi biến Việt Nam thành một tỉnh lẻ của Trung Quốc.

Một khi cả ba mặt trận từ kinh tế cho đến văn hoá, chính trị đều phụ thuộc Trung Quốc, cộng thêm những điểm chiến lược quân sự thuộc về tay họ, chuyện họ ngang nhiên khai thác tài nguyên của Việt Nam không phải là chuyện khó, bởi suy cho cùng, họ không đơn độc trong khai thác mà họ ăn chia với nhà cầm quyền Hà Nội – thuộc hạ của họ.

Hiện tại, mối nguy của Việt Nam không còn là chuyện biển đảo nữa, mà là rừng núi và đồng bằng, khoáng sản và tài nguyên rừng. Không sớm thì muộn, một khi công nghệ fracking của họ thành công, cũng giống như giàn khoan HD 981, họ sẽ mang sang thử nghiệm tại Việt Nam, ban đầu là thử nghiệm, dò la thái độ phản ứng, tiếp theo sẽ là thực hiện và cuối cùng là chiếm hữu. Câu chuyện đó đang xãy ra từng ngày.

Một khi điều này thành hiện thực, các thái thú Cộng sản Việt Nam sẽ đắc lợi thêm lần nữa mặc dù quyền lực trung ương của họ bị chi phối nặng nề hơn. Nhưng dẫu sao, cái lợi vật chất cũng có sức hấp dẫn đến điên cuồng, vì lâu nay, tuy chưa công khai nhưng nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã làm tròn sứ mệnh với nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc, họ vẫn ăn sung mặc sướng đấy thôi! Chỉ có dân tộc Việt Nam là điêu linh và đau khổ!


VietTuSaiGon's blog.

Cáo Phó Tang Lễ Nhà Thơ Nguyễn Hữu Nhật


CÁO PHÓ

Chúng tôi vô cùng đau đớn báo hung tin cùng thân bằng quyến thuộc, 
chồng, cha, anh của chúng tôi:

THI-VĂN-HỌA SĨ
NGUYỄN HỮU NHẬT
 
 
Ðã từ trần lúc 22 giờ ngày 11 tháng 12 năm 2014
(nhằm ngày 20 tháng 10 năm Giáp Ngọ)
tại Lilleborg Sykehjem, Oslo - Vương quốc Na Uy, 
sau cơn bạo bệnh

Hưởng thọ 72 tuổi

Vợ: Quả phụ Nguyễn Thị Vinh
Trưởng nam: Nguyễn Hữu Phương, vợ và các con (Việt Nam)
Em gái và em rể: Nguyễn Thị Lưu, Trần Nguyệt Lãm và các con (Việt Nam)
Em gái và em rể: Nguyễn Thị Phụng, Đỗ Ngọc Cường và con (Việt Nam)
Em gái và em rể: Nguyễn Thị Quỳnh Mai, Nguyễn Đức và các con (Việt Nam)
Em gái và em rể: Nguyễn Hữu Thu Vân, Lê Duy Long và con (Canada)

Tang lễ sẽ được cử hành theo nghi thức Phật Giáo 
từ 10 giờ 30 đến 12 giờ, ngày 22 tháng 12 năm 2014,
tại nhà nguyện nghĩa trang Alfaset Gravlund 
(Nedre Kalbakkvei 99, 1081 Oslo/ gần IKEA/Furuset)





TANG GIA ĐỒNG KHẤP BÁO

søndag 14. desember 2014

Thành Kính Phân Ưu Nhà Thơ Nguyễn Hữu Nhật


Thành Kính Phân Ưu
Trước sự ra đi đột ngột của
văn hữu NGUYỄN HỮU NHẬT
(Bút hiệu Sắc Không)
Nguyên hội viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại
Vùng Canada

 Ðã qua đời tại Oslo, Na-uy hôm 11 tháng 12 năm 2014
hưởng thọ 72 tuổi
Chúng tôi xin thành kính phân ưu cùng văn hữu Nguyễn Thị Vinh
và quí tang quyến.

Xin góp lời cầu nguyện hương linh văn hữu Nguyễn Hữu Nhật sớm về cõi vĩnh hằng.
- Cung Vũ Nguyễn Hữu Nghĩa và Nguyên Hương (hội viên Văn Bút, Vùng Canada)
- Hoàng Xuyên Anh (hội viên Văn Bút, Vùng Tây Bắc Hoa Kỳ)
- Lê Hữu Mục (hội viên Văn Bút, Vùng Nam Hoa Kỳ)
- Nguyễn Mạnh An Dân (hội viên Văn Bút, Vùng Nam Hoa Kỳ)
- Nguyễn Ninh Thuận (hội viên Văn Bút, Vùng Tây Nam Hoa Kỳ)
- Nguyễn Phù Sa (hội viên Văn Bút, Vùng Canada)
- Nguyễn Văn Thông (hội viên Văn Bút, Vùng Canada)
- Phạm Khắc Trung (hội viên Văn Bút, Vùng Canada)
- Phương Duy và Hoa Hoàng Lan (hội viên Văn Bút, San Jose, Hoa Kỳ)
- Tống Minh Long Quân (hội viên Văn Bút, Vùng Canada)
- Trần Quốc Bảo (hội viên Văn Bút, Vùng Đông Nam Hoa Kỳ)
- Túy Hà (hội viên Văn Bút, Vùng Nam Hoa Kỳ)
- Yên Sơn (hội viên Văn Bút, Vùng Nam Hoa Kỳ)
- Việt Chi Nguyễn Hữu Quang (hội viên Văn Bút, Vùng Nam Hoa Kỳ)
Minh Ðức
Canada

onsdag 10. desember 2014

Cách Làm Ðẹp

Vài cách hướng dẫn thắt Cà Vạt

Không phải chỉ dành cho cánh đàn ông, mà các bà và chị em cũng nên xem, để sau này biết cách thắt Cà Vạt cho bồ, chồng, em trai hay con trai nhé.

Cách thứ nhất:



Cách thứ hai:


Cách thứ ba:


Cách thứ tư:


Cách thắt Nơ:




Chúc quý vị vui vẻ khi có người khen là khéo tay và đẹp trai.

Sưu Tầm.

lørdag 6. desember 2014

Chuyện Tình Xứ Huế

 
Chuyện tình xứ Huế theo cùng các phương ngữ “răng, mô, tê, rứa” là đề tài rất nhiều người quan tâm. Đấy cũng là cách chúng ta tìm hiểu về ngôn ngữ Huế. Tiếng Huế một phần tất yếu của con người Huế, nét văn hóa Huế và tình yêu Huế.
 
Đầu tiên là bài thơ làm quen mà nhiều người đã biết. Lưu Trần Nguyễn đã đưa ta về với thời của học sinh trường Quốc Học và nữ sinh Đồng Khánh Huế những năm 1950- 1960.
 
Thuở ấy, Quốc Học là trường dành riêng cho nam sinh, còn trường Đồng Khánh là trường dành riêng cho nữ. Học sinh hai trường này học rất giỏi. Cứ mỗi khi tan trường, nam sinh Quốc Học thường hay đón chờ nữ sinh Đồng Khánh chuyện trò….
 
Từ đây đã hình thành nên nhiều chuyện tình, bài thơ sau đây là sự mở đầu cho một chuyện tình yêu thời học trò ở Huế : Lời người con gái nghe có vẻ chua ngoa, song, không dấu được nỗi thích thú trong lòng.
Đầu câu huyện là những lời trách móc, e sợ dị nghị nhưng cuối câu chuyện là lời hẹn hò cho những lá thư sau:
“ Răng mà cứ theo tui hoài rứa
Cái ông ni mới dị chưa tề
Sớm trưa chiều ba bữa đi về
Đưa và đón mần chi không biết!
Ôi đôi mắt chi mà tha thiết
Đừng có nhìn làm loạn bước tui đi!
Lá thư tình ông gởi mần chi?
Cha mẹ biết rầy la tui chết! ….
Tội tui lắm! Cách cho vài bước
Đừng đi gần hai đứa song đôi
Xa xa cho kẻo bạn tui cười
Mai vô lớp cả trường dị nghị!
Theo chi rứa răng mà không biết dị
Thôi được rồi! Đưa lá thư đây!
Mai tan trường đơị ở gốc cây
Tui sẽ tới trả lời cho biết…”
 
Đó là bước đầu trao thư và nhận thư. Lối xưng hô vẫn còn xa cách lắm. Người ta bảo dấu hiệu để nhận biết người con gái Huế đã bằng lòng yêu bạn hay chưa là qua cách xưng hô. Con gái Huế khi chưa yêu thì thường xưng “ ông, tui”, đến khi xưng “ông/ em” thì tình cảm đã lớn thêm một cấp độ nhưng người con gái Huế vẫn đang còn tìm hiểu và thử thách chàng trai. Đừng có nghĩ người con gái Huế xưng ông là vì người con trai lớn hơn mình quá nhiều tuổi, mà đó là vì con gái Huế muốn thế:
 
“ Em sanh ra đã là con của Huế
Nên gắng liền với mấy chữ mô tê
Có khó chi mô ông không hiểu tề
Huế “răng rứa” như của ông “sao dzậy”.
 
Và cũng vì lối xưng hô “ ông” cho nên nhiều chàng trai đã tự ái, đã “lẫy”. Chúng ta hãy cùng nghe cô gái Huế giải thích thật dễ thương:
Em gọi “ông” có chi mô mà lẫy
Ông không già thì để í mần chi
Tại xưng anh em thấy nó kỳ kỳ
Người ta nghe được… ôi thôi dị chết
Ông biết rồi răng giả vờ chi cho mệt
Mần người ta noái chậm khổ ghê nơi
Huế em tiếng khó nghe rứa người ơi
Đến đây rồi … ráng mở tai cho lớn …”
 
Và rồi chắc cũng có thư qua về. Tháng ngày trôi qua, không biết đã xong học kỳ I chưa, hay là chàng trai ấy và cô gái Huế ấy đã bước sang năm học mới nhưng bài thơ sau thì chắc chắn là chuyện tình của họ đã đi qua được những cửa ải khó khăn ban đầu của sự ngại ngùng khi trao lời muốn nói.
 
Tình cảm đã thân thiết hơn, cách nói chuyện đã bớt đi phần e ngại, và người con gái Huế đã xưng “ em” không còn xưng “ tui, ông” xa cách như trước nhưng vẫn giữ được khoảng cách nam- nữ. Rồi sau giai đoạn đưa thư làm quên, đây đã là lúc đã được chấp nhận và bắt đầu  tìm đến nhà:
 
Tôi nhớ mãi một câu “rứa hí”
Em chào tôi “Rứa hí! Em về”
Lời nhỏ nhẹ mà tôi tê tê
Tiếng chào nhỏ đủ vừa nghe “rứa hí”…
Đã bao lần tôi về bên Huế
Với tôi Huế không nói điều chi
Chỉ đám cỏ non bờ sông chảy thế
Là tôi nghe tiếng Huế thầm thì
Con phố vắng tôi lần tìm quán nhỏ
“Mệ bán cho con năm đồng thuốc lá”
Mệ nhìn tôi rồi cười hỉ hả:
“Có rứa mà chú cũng mần thơ”
 
Chuyện tình yêu thời học trò chỉ có thế thôi. Lá thư hò hẹn, ánh mắt nhìn… Nghĩ ngợi về nhau nhiều lắm mà chẳng dám nói chi nhiều. Rồi chắc là hết học, cô gái lấy chồng theo sự sắp đặt của ba mạ. Lần cuối chia tay tình cảm cũng rất trong veo, vẫn là “ bên nớ”, “ bên ni” đầy xa cách:
 
Rứa thì rứa
Biết mần răng được
Bên nớ về
Bên ni biết mần răng
Bên nớ về
Bên ni đứng tần ngần
Nỏ được cầm tay
Chỉ lặng thinh không nói
Có chi mô mà rầu rầu tức tưởi
Lần cuối cùng thì cũng rứa mà thôi.
 
Tôi không muốn có một kết thúc như thế này nhưng thơ văn xưa đã viết, câu chuyện tình Huế qua những vần thơ “ răng , rứa” cũng đành chịu như vậy:
Ngày dạm hỏi
Bên nớ lên chùa trốn biệt
Ba Mạ tìm buông lời tiếng bẻ bàng
Rứa thì rứa biết mần răng được
Bên ni buồn
Khi bên nớ sang ngang
Hôm hôn lễ
Bên nớ bày hoa sứ
Cái loài hoa hai đứa miềng yêu
Bên ni biết
Bên nớ còn chưa hết
Vẫn còn thương
Thương lắm biết bao nhiêu.
 
Cách xưng hô không nói hết chiều sâu của tình cảm tận đáy lòng. Chàng trai Huế không nói nhiều mà dành trọn cả cuộc đời mình cho tình yêu:
 
Ngày gặp lại
Bên nớ thành bà ngoại
Mà bên ni vẫn là cứ trai tân
Bên nớ hỏi:
răng mà tội rứa
Bao năm rồi còn chưa chịu thành thân
Rứa thì rứa…
Có chi mô mà hỏi
Chưa quên được người
Đâu muốn khổ cho ai.”
 
Câu chuyện tình Huế theo cùng “ răng rứa” đã kết thúc như thế. Thực tế có những chuyện tình kết thúc có hậu, chú rể là chàng trai Quốc Học, cô dâu là nữ sinh Đồng Khánh, họ đã cùng nhau học tập, và cùng nhau thành đạt, giờ đã con cháu đề huề….
 
Sưu Tầm.

Việt Nam Ðang Ði Vào Con Ðường Diệt Vong !!


Gần đây, trong dịp Điếu Cầy được hay bị trục xuất sang Mỹ, dư luận ồn ào quanh việc khi Điếu Cầy không chịu cầm lá cờ vàng mà người ta đã trao cho. Kẻ công kích, người bênh vực.
Thực ra cá nhân Điếu Cầy, chả có gì là quan trọng. 

Hãy Bàn Về Vận Mệnh Việt Nam.

Mật  Ước Thành Đô không thể bị tiết lộ một cách tình cờ.
Có cả một kế hoạch đem nó ra ánh sáng. 

Dĩ nhiên người ta đã dự trù sự công kích lúc ban đầu. Nhưng với thời gian, dần dần người Việt Nam sẽ làm quen với sự hiện diện của nó, không còn ngỡ ngàng như trước nữa. Nên nhớ nhà cầm quyền Hà Nội vẫn lửng lơ con cá vàng, không hề có một tiếng nói chính thức nào cải chính hay bác bỏ những tin đồn liên quan tới Mật Ước này.

Nếu như đến thời điểm nào đó, năm 2020 chẳng hạn, Bắc Kinh và Hà Nội cùng công bố quyết định Việt Nam trở thành một quận lỵ của Trung Quốc, là ván đã đóng thuyền. Khi đó, chúng ta sẽ như Tân Cương, Tây Tạng, hết đường cục cựa, và các tòa án quốc tế, các tòa án về Biển, sẽ không còn một lý do nào can thiệp vào chuyện này nữa, vì nó đã trở thành việc nội bộ, của một quốc gia có tên CHINA !!!



Năm nay là năm 2014, nghĩa là chỉ còn vỏn vẹn ít năm nữa mà thôi.

Đảng Cộng Sản Việt Nam, một đảng hoàn toàn bị thống trị, chi phối bởi đảng CS Trung Cộng, chỉ là một công cụ để thi hành kế hoạch này. Chúng ta phải bỏ hẳn cái ảo tưởng là sẽ có nhiều người yêu nước trong Đảng CS Việt Nam bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam.
Tôi đã cùng một số luật sư tên tuổi tại Montréal thảo luận nhiều lần về vấn đề này. Theo đó, thì trong tình hình hiện tại, người Việt Nam chỉ, trên căn bản luật pháp (nghĩa là chúng ta  dùng lý trí 100%, không dùng tình cảm, ủng hộ hay không ủng hộ) trông cậy vào Lá Cờ Vàng.

Đây là một biểu tượng của một Quốc Gia được Quốc Tế công nhận, hiện diện tại Miền Nam, mang tên Việt Nam Cộng Hòa.

Việt Nam Cộng Hòa không ký một văn kiện nào về Trường Sa, Hoàng Sa với Bắc Kinh.
Việt Nam Cộng Hòa không liên quan gì đến Mật Ước Thành Đô.


Năm 1975, với súng đạn, cộng sản Bắc Việt bức tử VNCH. Việc thống nhất Việt Nam hoàn toàn không do một cuộc Trưng Cầu Dân Ý nào, cho nên, người Miền Nam, công dân của chính thể của VNCH, trong và ngoài nước, có thể phản đối trên căn bản luật pháp về những gì liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng, và lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa nói chung.

Bởi vậy cho nên, người Việt Nam nào yêu nước, muốn bảo vệ Việt Nam bằng Pháp Lý (Tránh cho trong tương lai, các thế hệ sau, phải làm những cuộc nổi dậy đẫm máu), không còn một lựa chọn nào khác, là cùng nhau đứng dưới Lá Cờ Vàng, dù thích hay không thích lá cờ này, vì lý do này hay lý do khác .Hãy hồi phục lại một tập thể các công dân của Việt Nam Cộng Hòa.
Tổ Quốc Trên Hết

Xin gửi đến những nhà ái quốc Việt Nam câu nói trên, để mọi người suy nghĩ.
Tổ Quốc chúng ta đang lâm nguy. Xin mọi người nhớ rõ điều này và dẹp bỏ tất cả những tỵ hiềm cá nhân, chọn Lá Cờ vàng.
Tôi xin nói rõ lại, là việc lựa chọn này hoàn toàn là lý trí chứ không nhất thiết vì tình cảm. Chúng ta không còn giải pháp nào khác.  


Trần Mộng Lâm.