onsdag 3. juli 2013

Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam


 
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam:
Những Phút Tâm Tình Cuối Cùng
 
Cuối năm 1973, tôi được lệnh bổ nhiệm về Liên đoàn 67 Truyền tin tại Cần Thơ. Lúc đầu, Thiếu tướng Nam không đồng ý cho tôi rời khỏi Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông bảo: "Anh ở đó chứ đi đâu". Tôi thưa với ông rằng: "Thưa Thiếu tướng, tôi đã phục vụ ở Sư đoàn ròng rã 7 năm trời.
 
Trong binh chủng Truyền tin chỉ có 3 Liên đoàn. Thiếu tướng giữ tôi lại SĐ7BB, e sau này tôi mất cơ hội". Suy nghĩ một chốc, ông đồng ý và hỏi ai là người thay thế tôi.
 
Tôi trình rằng nếu ông đồng ý thì Cục Truyền tin sẽ cử anh Bùi Văn Hạp, trung tá hiện đang giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Truyền tin SĐ7 BB (người cùng khóa 3, cùng  trung đội với thiếu tướng Nam) thay thế tôi. Tướng Nam đồng ý. Tôi về Cần Thơ được 6 tháng thì thiếu tướng Nam cũng về Cần Thơ nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV. Một người bạn bảo tôi chạy trời không khỏi nắng.
 
Buổi lễ bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV được tổ chức tại sân cờ Bộ Tư lệnh. Sau khi một sĩ quan tuyên đọc lệnh bổ nhiệm Tân Tư lệnh - Trung tướng cựu Tư lệnh trao quân kỳ Quân đoàn IV cho tân Tư lệnh. Không có thượng cấp chủ tọa, không diễn văn, không huấn thị. Một buổi lễ bàn giao "ngắn, gọn" và "độc đáo". Buổi lễ tuy vắng bóng cấp trên của Quân đoàn nhưng thân hào, nhân sĩ, các vị lãnh đạo tinh thần dự lễ rất đông. Sau buổi lễ bàn giao, ông bắt tay vào công việc mới. Từ nay, công việc của ông không còn hoàn toàn thuần túy quân đội mà còn liên hệ đến các lãnh vực khác như hành chánh, ngoại giao, chính trị. Tuy rất bận nhưng thỉnh thoảng ông cũng đến thăm Liên đoàn của tôi, đóng tại gần cầu Bình Thủy.
 
Lần thăm viếng đầu tiên, sau phần thuyết trình, ông muốn đi thăm doanh trại và cơ sở. Ông hài lòng và có ý định dùng bản doanh Liên đoàn 67 Truyền tin làm bản doanh Bộ Tư lệnh Đặc nhiệm để chỉ huy và điều hợp các tiểu khu Kiến Phong, Sadec, Long Xuyên, Châu Đốc. Do gợi ý của ông, những hôm sau, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó và Đại Tá Nguyễn Đình Vinh, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn đến thăm đơn vị tôi. Công việc chỉ mới dự định, chưa thực hiện thì mất nước.
 
Một hôm, ông đến thăm, ghé vào cư xá, tôi sống một mình vì vợ con tôi vẫn còn ở Mỹ Tho. Trông thấy trong phòng khách có tượng Phật Quan Âm và tượng Đức Mẹ bằng thạch cao. Ông hỏi tượng Phật ở đâu mà đẹp vậy, thỉnh cho ông một chiếc được không. Tượng Phật Quan Âm do vợ tôi mua tại một cửa hàng mỹ thuật tại Sài Gòn. Đơn vị tôi có trách nhiệm cung cấp các mạch liên lạc điện thoại và viễn ấn cho các thành phố, các căn cứ quân sự của Hải, Lục, Không Quân thuộc 15 tỉnh miền Tây. Tháng nào cũng có anh em trong đơn vị bị thương vong do bị mìn, bị bắn sẽ, bị trúng đạn pháo nên vợ tôi thỉnh tượng Phật Quan Âm để cầu an. Còn tượng Đức Mẹ thì do các bà xơ thuộc một tu viện trước mặt Liên đoàn tặng làm kỷ vật. Tôi thiết trí một bàn thờ, mẫu mã đơn giản nhưng gọn đẹp, một bộ đèn bằng gỗ trắc và thỉnh tượng Phật về đặt tại phòng khách dinh Tư lệnh. Ngày an vị Phật, ông mời thầy Tuyên úy Phật Giáo và một số quan khách đến cầu an và dự cơm chay tại tư dinh. Ngờ đâu, sau ngày 30-4-1975, ông đã kết liễu cuộc đời tại phòng khách, trước bàn thờ Phật.
 
Đêm 29 tháng 4, Cộng Sản tấn kích Rạch Sỏi, Sóc Trăng, Trà Vinh. Các mạch liên lạc với Sài Gòn bị trở ngại vì đài viễn thông Núi Lớn ở Vũng Tàu bị pháo gây thiệt hại. Tôi nhận được điện thoại của Thiếu tướng, ông hỏi lý do vì sao liên lạc với Sài Gòn bị khó khăn. Tôi trình cho ông biết lý do và báo đã chuyển mạch liên lạc Cần Thơ - Sài Gòn qua ngã Đồng Tâm.
 
Sáng 30-4-1975, lúc 6 giờ rưỡi sáng, Quân đoàn mời các đơn vị trưởng hay phụ tá đến họp tại Bộ Tư lệnh. Các đơn vị trưởng phần lớn đều còn ở lại. Đại tá Nguyễn Đình Vinh được chỉ định làm quyền Tham mưu trưởng Quân đoàn IV. Tôi ngồi cạnh anh Huỳnh Ngọc Diệp (khóa 3 Thủ Đức), đại tá Tỉnh trưởng Cần Thơ, anh Lê Nguyên Bình, đại tá Trưởng Phòng 2 Quân đoàn và anh Nguyễn Bá Trang, đại tá Hải Quân. Anh Trang và tôi cùng học chung khóa Chỉ huy Tham mưu năm 1972. Tôi hỏi anh Trang rằng anh sẵn tàu sao không đi? Anh trả lời: "Bậy nào - Để chờ xem Tư lệnh quyết định thế nào đã -  Mặt mũi nào mà bỏ chạy". Sau này tôi gặp lại anh và cả người anh của anh là đại tá Nguyễn Bá Trước, gốc Dù, cựu tỉnh trưởng Phước Tuy và có thời kỳ làm Tham mưu trưởng SĐ7BB. Các anh đều bị đưa ra cải tạo ở miền Bắc như chúng tôi.
 
Tướng Nam vừa bước vào phòng họp thì tùy viên báo cho ông là Tổng Thống Dương Văn Minh muốn nói chuyện với Tư lệnh Quân đoàn IV qua điện thoại. Tướng Nam rời phòng họp. Liền sau đó Trung tâm Hành quân Quân đoàn mở đài Sài Gòn. Đài phát đi lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh:

"Quân đội VNCH ngưng chiến đấu để chờ bàn giao". Đại tá Hiền vật vã khóc: "Đầu hàng rồi tụi bây ơi! Nhục ơi là nhục!" Thật thấm thía, đau khổ không thể nào kể xiết. Rồi đây, bản thân và gia đình sẽ ra sao? Đất nước, dân tộc đi về đâu?
 
Tướng Nam trở lại phòng họp, nét mặt ông lộ vẻ buồn, rất buồn. Giọng nói còn xúc động, ông nói với chúng tôi: "Chúng ta là quân nhân. Quân nhân phải thi hành lệnh thượng cấp. Nay Tổng Thống ra lệnh ngưng chiến đấu, ở vị trí tại chỗ, chờ bàn giao. Thôi chào anh em và anh em trở về đơn vị". Ông lại nói tiếp: "Tôi không chủ trương ra đi. Với cương vị của tôi, ra đi lúc nào cũng được, nhưng nghĩ đến anh em chiến sĩ ngoài mặt trận, gia đình vợ con binh sĩ và đồng bào nên tôi không ra đi." Đây là lần chót tôi gặp ông.
 
Tôi lên xe trở về đơn vị, tâm thần bất định, nửa muốn chết nửa tham sinh. Lời vợ tôi vẫn còn văng vẵng: "Anh đi đi, ở lại tụi nó giết cho bây giờ". Giữa đường, tôi có thấy hai anh Huỳnh Ngọc Diệp và Lê Nguyên Bình. Khi ra Bắc cải tạo, không thấy các anh ấy, tôi biết rằng các anh đã vượt thoát và tôi mừng cho các anh ấy.
 
Sáng 1-5-1975, lính gác bảo là "cách mạng" muốn gặp đơn vị trưởng. Tôi vẫn mặc quân phục đầy đủ ra tiếp họ. Một nhóm bộ đội, trong đó có vài người mang túi vải trên vai, cán bộ chỉ huy, một người trạc dưới 50 tuổi, nói giọng Huế, giới thiệu là Tám Thanh. Đơn vị anh ta đến tiếp quản khu vực Liên đoàn của tôi. Họ tập họp binh sĩ các cấp lại, cấp giấy tờ cho về nhà, trừ cấp chỉ huy, lấy lý do họ cần chúng tôi để "bàn giao". Hai hôm sau, cũng chính ông cán bộ tên Tám Thanh này cho biết trong đơn vị có người tự sát. Khi mở cửa nhà kho, chúng tôi thấy thi thể một hạ sĩ quan đã tự sát bằng lựu đạn. Đang dự tính tháo ván trên vách đóng thành quan tài để chôn ngay tại đơn vị thì một hạ sĩ quan tài xế xuất hiện, thấy chúng tôi bị giữ tại đơn vị, anh ta mua ít bánh mì tặng chúng tôi làm lương thực. Anh ta báo rằng, ở Trung đội Chung sự còn bốn quan tài, người ta lấy một chiếc để chôn Thiếu tướng Nam, còn 3 chiếc có thể xin mấy ông cách mạng viết giấy giới thiệu, lãnh quan tài về chôn bạn mình. Nghe tin, tôi bàng hoàng xúc động. Thượng cấp đã đi rồi và thuộc cấp cũng lấy cái chết để bảo toàn danh dự.

Sau 5 ngày bị lưu giữ tại đơn vị, bộ phận tiếp quản thấy không có gì xẩy ra, họ cấp cho tôi giấy trở về nhà. Trước khi trở về Mỹ Tho, tôi ghé lại nhà một người quen và được biết sau khi tự sát, thi hài Thiếu tướng Tư lệnh được đưa về Quân y viện Phan Thanh Giản Cần Thơ. Đêm hôm ấy, hai bác sĩ, một trung tá thuộc Trung tâm Tiếp huyết, và một đại úy cháu của tướng Nam đến viếng thi hài của ông thì bị lính Việt Cộng bắn, Trung tá chết và Đại úy bị thương nặng. Anh Hoàng Như Tùng, trung tá Bác sĩ, giám đốc Quân y viện Phan Thanh Giản đích thân giải phẩu và điều trị cho vị sĩ quan, sau này tôi mới biết là bác sĩ Nguyễn Khoa Lai. Anh Hoàng Như Tùng, nay định cư ở Houston - Texas là bạn học của tôi khi chúng tôi còn học trung học ở trường Khải Định - Huế. Chính anh Hoàng Như Tùng đứng ra chôn cất thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Thi hài ông được an táng ở Nghĩa trang Quân đội Cần Thơ. Việt Cộng xóa dòng chữ "Nghĩa trang Quân đội" và viết lên đó những dòng chữ "Mồ chôn quân giặc". Thân nhân các người quá cố thấy tủi thân nên chờ ban đêm, họ lén đào các mộ người thân đem đi cải táng nơi khác - Việt Cộng đã xả súng bắn vào nhóm người đó gây thêm một số thương vong.
 
Khi tôi còn ở trại cải tạo số 8 đoàn 776 Hoàng Liên Sơn, bỗng một hôm gặp bác sĩ Hoàng Như Tùng. Anh từ một trại cải tạo ở Sơn La được chuyển xuống Yên Bái. Lẽ ra các bác sĩ chỉ bị cải tạo ở trong Nam. Trường hợp của bác sĩ  Tùng, anh phải ra Bắc là vì Cộng Sản nghi các chết của thiếu tướng Nam có "vấn đề". Họ nghi xác đó là Nguyễn Khoa Nam giả. Hơn nữa, khi tiếp nhận thi hài của thiếu tướng Nam, trong hoàn cảnh đó, anh dám nói lên một câu: "Đời ông ấy để lịch sử phê phán".
 
Sau khi được tha từ trại cải tạo về, đời sống gia đình quá khó khăn. Kinh tế gia đình kiệt quệ, nhà cửa và tài sản đều bị tước sạch, tôi thì bị Công An theo dõi ngày đêm, các con tôi mang một lý lịch chính trị của cha nó đen xì. Chúng tôi từ một trại tù nhỏ được chuyển về một nhà tù lớn. Và không cứ gì gia đình tôi phải gánh chịu cuộc sống bi đát đó. Cả một dân tộc sống trong đau thương. Tôi nghe người ta bàn tán rằng tướng Nguyễn Khoa Nam hiện đang ở trên một chiếc tàu ngoài biển khơi, chỉ huy đoàn quân phục quốc. Rồi còn để thuyết phục lòng tin của mọi người, người ta còn bảo đài BBC loan tin như vậy. Tôi biết Thiếu tướng đã mất, nhưng khi mọi người chỉ còn dựa vào tên ông như là một hy vọng vào niềm tin để sống, tôi chia xẻ và cảm thông với họ.
 
Shakespeare, qua các nhân vật của một vở kịch, có viết rằng, mỗi người xuất hiện trên sân khấu một lần, diễn xuất một cách vụng về rồi biến mất. Điều này có thể đúng với tôi, với nhiều người khác nhưng không đúng với Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Ông không diễn xuất vụng về, trái lại, ông diễn xuất rất đạt, rất thành công. Ông không biến mất - Ông vẫn trường tồn. Ông được nhiều người ca tụng là anh hùng. Theo tôi, ông có những cái gì khác hơn anh hùng. Anh hùng dựa vào dân tộc, dựa vào lịch sử mà trường tồn, được xem như người chiến thắng, được bỏ qua những lổi lầm. Còn ở ông còn toát ra những gì thanh cao, khí tiết. Ông là kết tụ của tinh thần bất khuất Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu - ninh thọ tử bất ninh thọ nhục - thà chết chứ không chịu nhục. Ông là tiếp nối của truyền thống hào hùng tiết tháo của Võ Tánh, Hoàng Diệu - tướng chết theo thành. Cái chết của ông thật lặng lẽ, âm thầm và cô đơn nhưng lại chuyển vào mạch sống của dân tộc. Ông đã để lại cho lịch sử khúc ca chính khí.

Tôi viết lên những dòng này vào giữa đêm khuya, trong phòng vắng. Đến đây, tôi ngừng viết, đọc lại những gì ghi trên giấy, nước mắt bỗng tuôn tràn trên gò má. Tôi khóc cho ông, người thầy của tôi và cho những người nằm xuống. Nhưng tôi cũng khóc cho tôi, cho những người thân, cho những bạn bè đã hứng chịu những hệ lụy bi đát sau ngày tàn cuộc chiến. Tôi khóc vì cảm động trước đắng cay mà đồng bào tôi đang sống trong màn đêm bạo tàn ở ngay chính trên quê hương của mình.
Tôi viết những dòng này, trước ngày húy nhật thứ 30 của ông để dâng lên ông lòng kính trọng. 
 
Tôi không ca tụng ông vì danh ông lớn quá, ca tụng cũng bằng thừa. Tôi chỉ ghi lại vài mẩu chuyện rất "người" của một con người bình thường, nhưng đã vươn lên cao, nếu không nói là vĩ đại.
 
Lê Chu.
 
 

Ingen kommentarer: