Chuyện
xảy ra đã 38 năm rồi, nhưng nó vẫn hiển hiện trước mắt tôi như mới ngày
hôm qua. Tôi thức gần trắng đêm 30 tháng Tư năm 1975 để suy nghĩ và
quyết định cho bản thân tôi và gia đình tôi một hướng đi mới. Qua các
tài liệu tôi có, tôi biết sau khi chiếm miền Nam, Việt Cộng sẽ cai trị
miền Nam không khác chi Trung Cộng khi chiếm được Hoa Lục, quân dân cán
chính sẽ bị đày đọa nơi rừng thiêng nước độc, và thời gian có thể là vô
hạn định hoặc ít nhất là 10 năm, 15 năm nhứt là những ai phục vụ trong
ngành an ninh, tình báo mà trong cuốn Hiến Pháp và Chính Trị Học của
Giáo Sư Nguyễn Văn Bông đã trình bày cho sinh viên năm thứ nhứt luật
khoa biết. Sau cùng, tôi đã quyết định dứt khoát không trình diện Việt
Cộng để bị đày khổ sai. Sống bên vợ con ngày nào hay ngày ấy. Tôi đốt
hết tất cả giấy tờ, tài liệu liên quan đến công việc của tôi làm.
Sáng
ngày 1.5.1975, tôi lên đường đi ra khỏi Saigon vì đã quyết tâm trốn thì
phải trốn từ đầu, tôi đi với 2 bàn tay không, vợ tôi sợ tôi bị bắt dọc
đường nên đi theo trông chừng, đứa con trai thứ 2 của tôi chạy theo ba
cho bằng được, 30 tháng Tư năm đó là sinh nhựt thứ 10 của cháu. Ba chúng
tôi đi bộ ra đường Phan Thanh Giản rồi nhắm hướng Biên Hòa đi mãi. Dọc
đường chúng tôi bắt gặp nào súng đạn, nào quân phục, quân trang ngổn
ngang, một vài người đi chân đất trên mình chỉ có cái quần đùi và
maillot, vợ tôi thì thầm: “lính mình đó anh” rồi đưa tay quẹt nước mắt.
Xe
cộ chật đường, người người vội vả, trên mặt không có nụ cười. Trên xa
lộ Saigon – Biên Hòa xe lại càng đông, du kích có, bộ đội có ngồi chật
các chiếc xe nhà binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chúng bóp còi inh
ỏi, la hét để những xe dân sự tránh cho chúng chạy, nhưng vô hiệu, đường
chật không có chỗ tránh. Không có đường cho xe đi ra, vì mọi người đều
hướng về Saigon, rất ít người đi ra, và họ cũng như chúng tôi đều đi bộ.
Gần đến Hố Nai mới thấy một vài chiếc xe chạy ra. Những xe chạy
vào vẫn chiếm cả đường ngược chiều, do đó xe đi ra có lúc phải leo hẳn
trên lề đường. Hôm qua trời mưa lớn, đường lầy lội, dơ bẩn, không còn
trông thấy mặt đường nhựa, tất cả đều lấm bùn đất.
Chân
bước đi mà lòng tôi tan nát, thẩn thờ như người mất hồn, đi không định
hướng, không biết ngày mai mình, gia đình mình, dân miền Nam sẽ ra sao.
Bỗng vợ tôi kéo tay tôi chỉ: “kìa anh”. Trên một vũng bùn khá lớn, một
thân xác người lính của VNCH nằm ngữa trên đó, tay còn ôm khẩu súng
M.16, nón sắt trên đầu, không rõ binh chủng vì tất cả thân xác, áo quần
đều bê bết bùn. Mỗi lần xe chạy qua mép vũng bùn, thân hình người lính
lại dạt qua, dạt lại, có khi gần như lật úp trên bờ, nhưng rồi lại tràn
xuống. Không biết anh bị đạn chỗ nào, nhưng máu anh nhuộm đỏ vũng bùn,
hòa lẫn với bùn thành một hỗn hợp bùn máu.
Tôi nhủ thầm làm sao kéo anh lên bờ, nếu không thì thân anh thế nào
cũng bị xe cán. Nhưng tôi hèn nhát, tôi không dám làm điều phải làm,
tuy nhiên, chân tôi không thể bước được. Ai đi qua cũng tỏ lòng thương
tiếc, đều rơi lệ nhưng chẳng ai làm gì giúp anh ta. Họ cũng hèn nhát như
tôi?
Bỗng một ông cụ già la lớn: “Trời ơi! Ai giúp một tay, đưa anh ta lên bờ không thì xe cán nát thây tội nghiệp”. Tôi
thấy ông nhảy xuống. Như có sức mạnh xô đẩy, tôi cũng nhảy xuống. Tôi
luồn tay xuống nâng đầu anh ta lên, ông già ôm phía dưới, cố sức vực anh
lên bờ. Rồi có nhiều người giúp một tay. Trong chốc lát, thân xác người
tử sĩ đã được đặt ngay ngắn trên bờ đường. Bùn hòa máu chảy ròng ròng
khi thân anh được nâng lên trông thật thảm thương. Ông già nhìn tôi lắc
đầu trong khi trên đôi mắt nhăn nheo tràn đầy nước mắt, ông quẹt mấy
ngón tay vào áo cho sạch bùn rồi vuốt mắt cho anh ta, miệng lâm râm cầu
nguyện. Bất giác tôi cũng nguyện thầm: “Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho anh chiến sĩ này được lên chốn nghỉ ngơi. Anh yên nghỉ”. Vợ
tôi đưa cái khăn tay, nhưng tôi gạt đi, vì cả áo quần tôi cũng như ông
già đều bê bết bùn hòa máu. Vợ tôi nói khẻ: “lau nước mắt đi”. Trước khi
lẫn vào đám đông, ông già nhìn tôi gật đầu, tôi cũng gật đầu lại và
thầm cám ơn ông già đã giúp tôi làm được một cử chỉ nhỏ cho người lính
đã chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, đến giờ phút cuối cùng cho Quê
Hương. Mẹ Việt Nam ơi! Xin cho người lính của chúng con có cơ duyên được
vào lòng đất mẹ. Xe qua lại đã cán nát một phần chân anh rồi, mẹ ơi!
Nắng
đã lên, không khí đã nóng hơn nhiều, bùn và máu trên áo quần tôi đã
khô, tôi dùng tay gột chúng thành bụi bay đi! Tôi chợt nhớ:
“Và máu họ đã len vào mạch đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông”
Anh
nằm xuống, máu anh trộn bùn sẽ khô, sẽ thành bụi bay đi, sẽ đậu trên
lá, trên cành, để rồi sẽ theo gió bay đi chung quanh anh, theo những
người đã vực anh lên mà đi xa. Cuối cùng, máu anh sẽ tan biến vào đất
mẹ.
Thân
nhân anh ở đâu, có nóng ruột mà đi tìm, có ai nhận ra anh mà thông báo
cho gia đình anh, hay anh sẽ bị người ta vùi dập đâu đó, không bao giờ
thân nhân biết được, không biết anh sống hay chết hoặc đi về đâu mà tìm,
không biết ngày anh mất mà kỵ giỗ. Anh nằm xuống vào giờ phút chót,
không có truy điệu, không quan tài, không phủ cờ, không di ảnh, không có
một đồng đội nào bên anh. Anh hy sinh cho Đất Nước trong cô đơn.
Anh chiến đấu cho đến NGÀY QUỐC HẬN.
Tôi hy vọng anh sẽ không nghe lời đầu hàng của Dương Văn Minh để khi
nằm xuống, anh vẫn hy vọng đồng đội của anh, đồng bào của anh vẫn tiếp
tục chiến đấu cho Quê Hương yêu quí.
Tôi
cầu nguyện để linh hồn anh sum họp với các đồng đội ngã xuống trước
anh. Tôi xin anh hợp cùng tổ tiên dòng giống phù hộ chúng tôi và con
cháu quyết chiến đến cùng cho đến khi quân thù không còn trên Quê Hương.
Anh hãy an nghỉ.
Kiêm Ái.
Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar