Có nhiều người, cả những nhà văn, có nhận xét rằng ở trong nước đã
thay đổi rất nhiều và đó là một chủ trương của những người cầm quyền muốn thoát
ra khỏi những trì trệ cho đất nước. Ngay cả trong văn nghệ học thuật cũng có chủ
trương như vậy.
Và họ dẫn chứng là có những hội nghị Lý
Luận Phê Bình văn học đã công nhận một thực tế của văn học Việt Nam và thúc đẩy
sự thay đổi: “một số quan niệm cũ không còn phù hợp”, “những gì đã cũ và lỗi
thời phải cương quyết vượt qua”, “một số nhà phê bình chỉ quen với những môtíp,
mô hình cũ và dị ứng với những biểu hiện mới và lạ. Ðộ bao quát quá hẹp, nhiều
ẩn số văn nghệ đứng ngoài tầm với của giới phê bình”. Và với nghị quyết “người
Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng
dân tộc Việt Nam” cũng như việc “đối với nhà văn Việt Nam, trước hết và quan
trọng nhất trong việc mở rộng quan hệ quốc tế là giao lưu với các nhà văn, các
nhà văn hóa, các nghệ sĩ người Việt đang sinh sống và hành nghề ở các nước trên
thế giới. ” Muốn như vậy, phải rời bỏ cái suy nghĩ tư duy địch bạn của thời còn
chiến tranh…
Thế mà từ tháng tư năm 1975, một thời điểm gắng quên
mà vẫn mãi nhớ đến bây giờ chừng như vẫn chưa đổi. . Ðã mấy chục năm trôi qua
cuộc chiến vẫn còn những dư âm đau xót. Bao nhiêu là hồi ức, bao nhiêu là những
vết thương đau. Không phải với riêng cá nhân một người, mà còn với nhiều người
và nói rộng ra, cả dân tộc nữa. Những vết chém của hận thù tới bây giờ vẫn chưa
lành miệng. Những đau xót đến ngày nay vẫn còn tồn tại trong tâm. Nhiều người
kêu gọi xóa bỏ chiến tuyến gạt bỏ hận thù. Nói thì dễ, nhưng hiện trạng bây giờ,
vẫn còn rất nhiều điều để thấy rằng cái hố sâu ngăn cách dân tộc của thời nội
chiến không dễ gì lấp đầy. Nhất là đối với những người Cộng sản mà câu nói của
cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ngày nào vẫn còn chính xác “Ðừng nghe những gì
Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm.”
Tôi nhớ có lần đã phỏng vấn nhà văn Doãn Quốc Sỹ với
câu hỏi “Trong văn chương anh nghĩ có biên giới giữa người cầm bút Việt Nam ở
trong nước và hải ngoại? Hoặc giữa người miền Nam và người miền Bắc?” Và nhà văn
nổi tiếng của hai mươi năm văn học miền Nam, người đã bị cầm tù và biệt giam
nhiều năm vì can tội làm “nhà văn” đã trả lời “Văn chương Việt Nam là văn chương
Việt Nam. Ðơn thuần chỉ có vậy! Những người Việt miền Bắc, người Việt miền Nam,
người Việt quốc nội, người Việt hải ngoại phản ánh những gì xẩy ra qua lăng kính
cá tính văn chương từng người. Cả nền văn chương Việt Nam nói chung do đó mà có
được sắc thái lung limh phong phú. Tôi hiểu biên giới trong câu trên là như
vậy…” Với những người mà đảng Cộng sản đã muốn tiêu diệt mà nói như vậy thì
không thể kết luận đó là một biểu hiện của hận thù…
Ở trong nước thì Võ Văn Kiệt, một lãnh tụ Cộng sản đã
chết, cũng phát biểu “Ba mươi năm qua, có những bà mẹ ngày thắp hương cho những
người con của mình, người là chiến sĩ giải phóng đã hy sinh, người là lính của
chế độ Sài Gòn đã tử trận. Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần thấu hiểu tâm tình
của người mẹ Việt nam, cùng thắp nén nhang cầu cho linh hồn của những người con
của mẹ được siêu thoát… ”
Tưởng như thế, nhưng khi đọc trong những tác phẩm mới
xuất bản gần đây ở trong nước tôi mới thấy rằng ngay cả những người cầm bút cũng
vẫn còn ảnh hưởng cái tư tưởng “địch –ta” khá nặng nề và cái hội chứng thời
chiến tranh vẫn còn tồn tại. Mà tư tưởng ấy lại là sản phẩm còn sót lại của một
nền văn học cổ võ hận thù tán dương chém giết, sản phẩm của tuyên truyền. Dù có
đổi mới tư duy, có nhìn ngắm lại, nhưng ảnh hưởng vẫn còn trong văn
chương.
Với những người Cộng sản Việt Nam, tuyên truyền ở một
vị trí xung yếu. Tất cả, trên mọi phương diện đều phục vụ cho một mục tiêu: tạo
một bánh vẽ tốt đẹp dể cưỡng bách bắt mọi người phục vụ theo đường hướng định
sẵn. Nhà văn Alekxandr Solzhenitsyn trong diễn văn đọc khi nhận giải Nobel về
văn chương đã viết về tính chất của các chế độ độc tài toàn trị như
sau:
“… Ai là người sẽ đặt câu hỏi với chúng ta: văn học
sẽ làm được gì để chống trả lại sự công hãm khốc liệt của cường quyền công khai?
Là: chúng ta phải nhớ mãi rằng bạo lực không thể đơn độc một mình và cũng không
có khả năng tồn tại duy nhất, nó bắt buộc phải bắt tay với sự dối trá. Giữa bạo
lực và dối trá có mối quan hệ sâu sắc ruột thịt tự nhiên: bạo lực được che đậy
kín đáo bằng dối trá và dối trá cũng nhờ vào bạo lực để tồn tại. Nếu có một kẻ
nào tự nhận bạo lực là phương pháp áp dụng của mình thì bắt buộc phải chọn dối
trá làm chỉ nam hướng dẫn. Khi khởi đầu quyền thế, bạo lực nghiễm nghiên công
khai và rất là kiêu hãnh. Nhưng khi đã bành trướng, đủ sức mạnh áp chế với vị
trí độc tôn của mình, nó lại cảm thấy bất an với dông bão chung quanh và chỉ
thấy sẽ tồn tại được nếu cứ tiếp tục dối trá. Và dối trá đã sẵn được ngụy trang
bằng nhũng ngôn từ ngọt ngào hoa mỹ. Bạo lực không nhất thiết luôn luôn bóp cổ
bẻ họng trực tiếp dân chúng mà phần đông chỉ đòi hỏi từ nhân dân của chúng một
lời thề từ dối trá, để có mặt trong vai trò ấy một cách tự
nguyện.
Bước giản dị của một người dũng cảm để chống lại là
không tham dự vào trò dối trá và không đi theo những việc làm dối trá. Nếu bắt
buộc cứ để nó ngự trị và nếu thống trị cả toàn cầu cũng chẳng sao, ta không đứng
về phía nó! nhà văn và nghệ sĩ còn có thể tích cực hơn nữa: chiến thắng sự dối
trá. Trong cuộc chiến sinh tử này, nghệ thuật bao giờ cũng đã và đang chiến
thắng. Sự ấy hiển nhiên, không một ai có thể chối cãi. Dối trá có thể lừa được
rất nhiều thứ trên thế gian này nhưng chỉ bị một khắc tinh: nghệ
thuật…”
Trở lại với hiện tình Việt nam tình trạng tụt hậu
hiển nhiên rõ ràng. Từ mọi mặt, là sự sa sút tràn đầy. Xã hội tha hóa, giáo dục
xuống cấp, con người chạy theo tiền bạc, luật pháp bất công, kinh tế trì trệ,
thì đôi khi những nhà văn đã nhìn lại quá khứ chiến tranh và để tự hào vì những
kinh nghiệm sống đã có.
Viết về chiến tranh của một thời đã qua đi, những nhà
văn trong nước vẫn không qua được cái tâm lý hận thù của một hệ thống tuyên
truyền sắt máu đã có sẵn từ một thời gian dài. Những điều được tuyên truyền như
ngụy ăn gan uống máu như những loài thú mất nhân tính tới giờ vẫn còn được viết
với tâm tư của thời chiến tranh. Nếu đã đọc những tác phẩm đại loại như của Tạ
Duy Anh hoặc Hồ Anh Thái và quả tình người đọc đã cảm thấy thật xấu hổ khi có
những nhà văn được tạm gọi là tiêu biểu cho văn học trong nước mà lại có giọng
văn như thế. Như đoạn trích dẫn từ truyện dài: “Ði Tìm Nhân Vật” của Tạ Duy
Anh:
“…quân ta ào lên, bắt giết, đâm, dẫm đạp. Một mụ ngụy
cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên
ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà
mặt mụ vẫn chưa hết hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng
ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe “thụt “một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi
trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giẫy chết như
con tôm sống bị ném vào chảo mỡ… ”
và một đoạn khác cũng … kinh dị không
kém:
“Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình
bị băm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào vừa bóp cò.
Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh
sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu
trả thù cho đồng đội. Nó đã hy sinh như một người anh hùng trên chiến
trận…”
Thế mà, sách của Tạ Duy Anh đã được in ở hải ngoại và
có nhiều người cho rằng ông là người có tâm tư “thông thoáng” nhất và tác phẩm
được coi là có “vấn đề” ở trong nước ???
Và trong “Cõi người rung chuông tận thế” của Hồ Anh
Thái (hình như là chủ tịch hội nhà văn Hà Nội) cũng ghê gớm tàn bạo không
kém:
“Hùng lao người bơi xuôi theo dòng suối tương đối
cạn, xa hẳn chỗ Hoa đang nấp. Lũ thám báo văng tục chạy men bờ đuổi theo. Có
những chỗ suối cạn không bơi được Hùng phải chạy. Bốn tên thám báo nhảy chồm
chồm trên những tảng đá giữa lòng suối rồi quây được Hùng vào giữa. Anh quật ngã
một thằng. Nó cắm đầu xuống nước không thấy động đậy gì. Nhưng những thằng kia
đã xúm lại. Chỉ một lát sau, chúng đã lôi xềnh xệch Hùng lên bờ. Thân thể anh
bầm dập đẫm máu. Chúng đấm đá anh túi bụi để lấy cung cho tới khi anh ngất đi.
Anh tỉnh lại chúng đánh tiếp. Hoa hiểu vì sao chúng không dùng đến súng . Chúng
cũng không muốn gây ra tiếng nổ ở vùng rừng này.
Cuối cùng, điều Hoa không ngờ đã tới. Cô chỉ nghĩ
rằng bọn thám báo sẽ lôi Hùng đi làm tù binh để tiếp tục lấy khẩu cung. Nhưng
thằng cầm con dao găm của anh đã cúi xuống rạch một đường thành thạo trên bụng
Hùng. Anh quằn quại hét lên một tiếng rùng rợn. Ở trên cao Hoa nghiến chặt răng
gần như ngất đi. Hai thằng kia đè chặt chân tay Hùng cho thằng mổ bụng moi tim
gan ra. Chúng nổi lửa nướng tim gan ăn ngay tại chỗ. Hai hột tinh hoàn thì được
phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn…”
Tôi tưởng những danh từ như “mụ ngụy cái”, “lũ thám
báo”… hoặc những chuyện moi tim gan người để ăn nhậu, có lẽ đã mất biệt rồi chứ?
Cái văn chương sặc mùi căm thù ấy vẫn còn tồn tại sao? Mà cả với những người cầm
bút luôn luôn kêu gọi hòa giải!!!
Nhà văn Dương Thu Hương trong Tiểu
Thuyết Vô Ðề củng biểu lộ sự
căm thù đúng y như những nhà văn Cộng sản trung kiên khác. Kể lại những cái chết
của những bộ đội nữ bị lính thám báo hãm hiếp hay thái độ hèn nhát của những
người lính VNCH khi bị bắt, giọng văn ấy không thể là của một người đã thấy cái
phi lý của chiến tranh và cái huyền thoại “chống Mỹ cứu nước” vẫn còn vương vấn.
Dù rằng bà cũng hiểu một điều là miền Bắc đã gây ra chiến tranh theo lệnh của
Cộng sản quốc tế.
“Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối
khủng khiếp mà đi. Tới vực Cô Hồn gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa
mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh.
Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những cô chiếc cổ áo sơ mi
kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đây là những người con gái
miền bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ
động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi
vấp bọn thám báo. Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết Những cái xác bầm
dập méo mó. Da thịt con gái nõn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như
da thịt một lão già phong lở hay một con cóc chết. Ðám dòi lúc nhúc trong các
vết thương, trong các hốc mắt, hốc miệng. Những von dòi trắng nhờ béo tròn.
Chúng trị trên các tử thi ngoi lội, trồi lên trụt xuống, vẻ viên mãn của loài
dòi bọ. ”
Ðọc những đoạn trên, đâu có ai tránh khỏi cảm giác
lợm giọng. Và, tác giả Tiểu Thuyết Vô Ðề có quá tay để tạo thành những hận thù
khi nói về những người thua trận. Như vậy, có thể nói chuyện bình thường hòa
giải với nhau không? Thời chiến tranh đã qua, những người ở phe chiến thắng có
còn bị khích động của cả một chính sách gây căm thì để dồn toàn lực vào công
cuộc chém giết thúc đẩy chiến tranh…
Nhà văn mà còn viết với giọng như thế thì những từ
ngữ như “hòa giải, hòa hợp ‘, hay “hợp lưu, giao lưu”. liệu còn ý nghĩa không?
Tôi đọc những hàng chữ ấy và thấy hệ thống tuyên truyền quả đã có tác dụng,
không phải với giới bình dân mà cả trong văn chương.
Trong Nỗi
Buồn Chiến Tranh, Bảo Ninh cũng mô tả một cảnh tượng ghê rợn không
kém:
“Kiên hờ hững ngó ra sau. À. Một cái xác. Một cái xác
đàn bà trắng hếu, ngưc ưỡn dựng lên, chân dang ra như hai lưỡi léo, mái tóc đổ
xõa che lấp nửa mặt, nằm gần như chắn ngang trước cửa phòng hải quan. Còn trẻ,
mắt nhắm hờ. Dưới lưng không thấy vũng máu…
Chợt có tiếng xe đỗ, tiếng kéo lê rồi tiếng chân
huỳnh huỵch. Một gã hộ pháp. Ðội mũ sắt, có lẽ là lính cao xạ từ trong phòng hải
quan đi ra khệ nệ khuân trên tay hai két bia 33. Bước qua ngưỡng cửa mắt nghếch
lên, gã vấp phải cái xác bị xô chúi tới, ngã sấp. Cả đống bia giáng xuống loảng
choảng chai vỡ tan, bia óng vàng tuôn lênh láng. Ðám lính tăng cười ro. Kiên
nhếch mép.
Sượng sùng gã sục “đồ cổ” nhỏm dậy tức tối vò hai nắm
đấm gườm gườm nhìn những kẻ đang cười nhạo mình. Rồi nhổ toẹt, hầm hầm cái mặt,
hắn sấn lại đá tới tấp vào cái vật vừa ngáng chân hắn Vừa đá vừa rống
lên:
“Ð mẹ mầy, con đĩ! Mày ưỡn của nợ ra đây cho chúng nó
ngắm à! Mày gài mìn bố mày! Tổ sư mày, cười cái cắc củ! Ðứa nào thích ngắm nghía
mày thì kệ bố mày! Bố mày cứ dọn phắt mày đi!
Chửi đoạn, thằng cha “Chí Phèo” túm lấy một chân
người chết xềnh xệch kéo lết đi.
Thằng chó má dã man léo sền sệt cái xác khốn khổ qua
mặt sân bê tông loáng sáng nước mưa và nắng chói, rồi hự, hắn choãi chân vặn
lưng lấy đà quăng mạnh, liệng bổng người ta lên.
Xoay lộn mấy vòng, cái xác trắng rợn bay chênh chếch
rồi thịch xuống cạnh mấy cái thây lính dù chưa ai dọn. Lưng vừa chạm đất, người
đàn bà chết ngồi bật dậy, hai tay đưa vung lên, cái miệng tuồng như há ra chực
kêu rồi ngã vật nghiêng, đập đầu xuống Tên súc sinh khệnh khạng bỏ đi tay khuỳnh
khuỳnh ra dáng người hùng…”
Ði xa hơn nữa, Bảo Ninh, người viết truyện ngắn “305”
in trong tập Lan
man khi kẹt xe đã đổ tội cho cả toàn dân miền Nam cái tội vong bản chạy
theo đế quốc mà bỏ lại người thân một cách lãnh đạm vô nhân. Truyện ngắn này kể
lại chuyện những người lính lái xe tăng mang số 305 trên đường hành quân đã ghé
vào một thị trấn nhỏ vào tháng tư năm 1975. Và nhờ cung cách hiền hòa họ đã làm
cho người thiếu phụ ở đó cảm mến. Sau đó cả xa đoàn chết hết chỉ còn sót lại một
người trở về thị trấn xưa ghé thăm người thiếu phụ ấy. Giây phút gặp lại anh ta
mới biết cả gia đình đã bỏ rơi chị để di tản ra nước ngoài. So sánh gia đình chị
và anh bộ đội kia chị thấy cảm mến anh bộ đội ấy hơn…
Ở thời điểm bây giờ, mà còn viết với luận điệu như
thế, nào ta anh hùng, địch dã man, ăn tim gan người sống. Cái nếp nghĩ, nếp viết
ấy đã ăn sâu vào tâm thức người viết và bao nhiêu năm sau chiến tranh mà vẫn
chưa hề thay đổi. Nhà văn Phùng Nguyễn nhận xét khá xác đáng:
“…Có qúa nhiều điều luôn rắp tâm kéo nhà văn xuống
thấp có khi thấp hơn cả mức độ cho phép. Ðó là khi họ, vì một hay nhiều lý do,
phải nín thở qua sông, phải viết điều không muốn viết, phải ca tụng những điều
không xứng đáng, phải báng bổ điều họ thực sự quý trọng. Họ buộc phải đứng về
phía của kẻ mạnh. Nhưng cũng có khi, không phải là luôn luôn vô tình, họ chọn
đứng cùng phía với những thế lực đen tối một cách tự nguyện, gieo rắc mầm độc
hại xuyên qua việc xiển dương điều trá ngụy. Chính là ở đây, nhà văn trở thành
không chỉ là kẻ đồng lõa. ”
Câu hỏi là bây giờ, các người cầm bút sẽ phải làm gì
để hố ngăn cách nhau được lấp dần đi? cả người cầm bút ở trong nước và hải
ngoại? Nhưng xem ra câu hỏi chỉ để mà hỏi. Khi văn học ở trong nước còn là một
công cụ để phục vụ cho nhu cầu tuyên truyền của chế độ hiện hữu thì còn rất lâu
sự phân hóa tạo thành chiến tuyến của thời chiến tranh.
Nguyễn Mạnh Trinh.
Ingen kommentarer:
Legg inn en kommentar