torsdag 17. september 2009

Vấn đề của Giáo Hội Việt Nam cũng như của các Giáo Hội khác dưới quyền cai trị của chế độ cộng sản là vấn đề muôn thuở giữa Thiện và Ác, giữa Thiên Chúa với Satan. Nói vậy chắc các vị quốc doanh sẽ phật ý, nhất là vị nào đã xác tín rằng "Ðảng cộng sản Việt Nam luôn luôn nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật......" Như vậy đảng cộng sản Việt Nam khác các đảng cộng sản trên thế giới, vì đảng cộng sản Việt Nam đã đi theo sát gót Ðức Giêsu hơn người công giáo, hơn cả một số vị lãnh đạo tinh thần cao cấp của Giáo Hội công giáo. Vì các vị nầy, bước theo Ðức Giêsu là Ðường, là Sự Thật, nhưng các ngài không "luôn" nhìn vào sự thật được như Ðảng cộng sản Việt Nam, vì các ngài cũng có khi sai lầm nhìn vào sự giả dối.

Tại Việt Nam, vấn đề muôn thuở nầy được thay hình đổi dạng theo nhu cầu sức khỏe của chế độ cộng sản của xã hội chủ nghĩa:

1. Từ sau ngày 30/4/1975 đến nửa thập niên 80, khi chế độ cộng sản mạnh với uy quyền của đế quốc cộng sản quốc tế, thì vấn đề của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề bắt bớ và chống đối. Ở trong nước thì Giáo Hội bị bắt bớ trên cả hai bình diện pháp lý và thực tế. Trên mặt pháp lý thì Giáo Hội không được xem như là một pháp nhân, nghĩa là không còn một quyền lợi xã hội nào hết, vì thế bị tước đoạt hết tài sản, tước đoạt hết mọi cơ cấu sinh hoạt như chủng viện, dòng tu, trường học, bệnh viện.... Tất cả các nhân sự của Giáo Hội như là linh mục đều bị đi cải tạo tại các tù ngục hoặc bị giam lỏng tại gia đình và mất quyền sinh hoạt nghĩa vụ của linh mục. Còn người công giáo thì bị xem như là công dân hạng nhì, mất hết quyền lợi công dân, mà chỉ còn lại nghĩa vụ. Giáo Hội bị tước lột hết mọi quyền bính, bị đoạt quyền pháp nhân. Nói một cách vắn tắt là nhà nước cộng sản xem Giáo Hội công giáo như đã chết trước mặt pháp luật, và người công giáo là kẻ thù của nhân dân, nên phải tìm đủ mọi cách để thanh toán cho hợp pháp, nhất là các vị lãnh đạo tinh thần. Giáo Hội ở trong nước bị đặt trong tình cảnh đá đè trên cỏ, nên Giáo Hội ở hải ngoại đã nổ lực lên tiếng phản đối, tổ chức các hội đoàn, các cơ cấu chính trị để "chống cộng", nghĩa là lên án sự bắt bớ Giáo Hội tại quê nhà.

2. Nhưng vào thập niên 80-90, khi mà cộng sản cảm thấy ý thức hệ cộng sản bị dư luận quốc tế lên án, các anh hùng cộng sản thời đại như Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh bị xuống giá trong đầu óc giới trẻ, thì nhà nước cộng sản Việt Nam thay đổi thái độ đối với Giáo Hội. Các cụ triết gia khoa học xã hội, các cụ quốc doanh, ngồi lại nghiên cứu vấn đề tôn giáo để tuyên bố lại một giáo điều mới: Tôn giáo không còn là thuốc phiện ru ngủ con người, mà là "nhu cầu của một bộ phận nhân dân." Dựa vào khám phá mới của khoa tôn giáo học nầy, nhà nước đưa ra nghị định tôn giáo mới để chuẩn bị cho một đường lối "hòa hợp hòa giải", một sự sống chung hòa bình cho "tốt đời đẹp đạo". Ở hải ngoại thì chiến dịch bài chống cộng được đưa vào các hang cùng ngỏ hẻm, chiến dịch ấy gọi là "Hoa hồng đỏ hải ngoại". Một số linh mục tuyên úy đã tuyên bố: Ðã đến lúc không còn hận thù nữa, mà phải quên quá khứ để xây dựng tương lai. Chống cộng là điều hủ lậu, xưa như trái đất. Thế là các đảng phái chính trị hải ngoại bị xẹp như trái bong bóng đâm thủng, vì các lãnh tụ được mời về hợp tác tại quê nhà. Các hội đồng công giáo bớt nghị lực chống cộng vì các vị tuyên úy phải lấy đức bác ái tha thứ làm đầu trong công tác mục vụ.

3. Qua giai đoạn 3, sau khi bức thành Bá Linh, tượng trưng cho uy quyền và sự bưng bít của đế quốc cộng sản bị sụp đổ, thì trong thế giới cộng sản chỉ còn lại Trung Hoa, Bắc Hàn và Việt Nam. Cuba đúng ra không phải là một nước cộng sản hoàn toàn theo thuyết Mác-Lê. Cộng sản Việt Nam cảm thấy mất đi điểm tựa, lại bị đàn anh Trung Quốc sẵn sàng sửa phạt vì tội phản bội.. Chỉ còn lại một đường sống là "tự túc tự cường". Nhưng tự túc tự cường làm sao đây? Và đỉnh cao trí tuệ đã không khó khăn tìm ra giải pháp. Nếu Ðảng cộng sản Việt Nam sống trên xương máu của nhân dân, thì đảng cộng sản cũng có thể chết vì sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh của nhân dân, khi cộng sản yếu thế, là sức mạnh tinh thần, do các tôn giáo nuôi dưỡng. Như vậy muốn sống còn thì phải dựa vào tôn giáo. Sức mạnh tôn giáo lớn nhất là công giáo. Nếu hòa đồng được với công giáo là cộng sản sẽ sống còn.

Bắt đầu là các linh mục quốc doanh. Họ là con cái đứng ra chống đối cha mẹ, là Giáo Hội Việt Nam nói chung. Nhưng đây chỉ là đoạn mở đầu để tạo nên bỡ ngỡ. Họ là con cờ chống đối chiến thuật, rồi sự chống đối nầy sẽ trở nên sự tiếp tay, như chúng ta sẽ thấy về sau. Tiếp đến các năm sau 1995, không ai trong chúng ta ở hải ngoại mà không thấy "cha mẹ chúng ta" là các giám mục đã tỏ ra một thái độ khó hiểu, mơ hồ, xem ra như gián tiếp bênh vực cho CSVN và trách móc con cái ở hải ngoại: Các Ngài tuyên bố: nếu lên tiếng chống đối thì các ngài sẽ khó làm việc tại quê nhà. Ðó là gián tiếp bịt miệng con cái, gián tiếp còng tay chân con cái không cho hoạt động giúp giải phóng Giáo Hội và quê hương. Và trong khi đó thì tại quê nhà, con cái ngày đêm rình chực nghe đài Vatican, Veritas hoặc B.B.C, V.O.A hay R.I.F để mong có tin hoạt động gì của anh em bên ngoài, hầu giúp giải thoát được quê hương và Giáo Hội.

Nếu chính sách mềm dẻo nầy, cuối cùng có thể giải thoát được Giáo Hội, thì tại sao Ðức Giáo Hoàng của chúng ta đã loại bỏ ? Và nếu Ngài đã loại bỏ và nhờ đó làm sụp đổ được bức tường Bá Linh, thì tại sao chúng ta lại còn tiếp tục chạy theo, để đưa vào áp dụng cho Việt Nam, chúng ta không muốn cứu Giáo Hội Việt Nam khỏi ách cộng sản ư ?Chính sách của cha mẹ chúng ta hiện nay có phải là chính sách của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không ?
Chỉ còn một cách duy nhất là chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ lại thật chu đáo biến cố và tìm hiểu ý nghĩa của nó. Rồi hãy cùng nhau lui lại sự thật lịch sử của ngày 20/7/1954 và ngày 30/4/1975.

Trích lời Ð.Ô Hoài

Ingen kommentarer: