fredag 27. juni 2014

Thông Tin Khẩn Cấp !


Những ngày tới xin nhớ: Không mở bất kỳ tin nhắn có chứa tin đính kèm gọi là: "Cập nhật choWindows Live" bất kể người thân gửi cho bạn. Nó là virus đốt cháy toàn bộ ổ cứng. Virus xuất phát từ 1 người biết danh sách địa chỉ của bạn.

Nên gửi tin nhắn này cho tất cả các địa chỉ liên lạc của bạn.

Nếu nhận tin nhắn với file đính kèm "Windows Live Update".

Ngay cả khi nó gửi bởi 1 người bạn, không mở, lập tức tắt máy.

Đây là virus tệ nhất do CNN công bố, và được phân loại theo Microsoft như là virus phá hoại mới nhất.

Virus này được phát hiện bởi McAfee.

Không có khả năng sửa chữa cho loại virus này.

Nó phá hủy Sector Zero từ đĩa cứng.

Xin nhớ:
 nếu gửi thông tin này đến địa chỉ liên lạc của bạn sẽ bảo vệ tất cả chúng ta.
Hương Sen.

Mãng Cầu Xiêm (Graviola) Tiêu Diệt Các Tế Bào Ung Thư


Kết quả nghiên cứu về loại quả này được đăng trên tờ Journal of Natural Products do một trường Ðại học ở Hàn Quốc thực hiện.

Những nghiên cứu về nước ép từ quả mãng cầu xiêm cho thấy đây là công cụ chữa ung thư an toàn, hiệu quả. Nó cũng bảo vệ hệ thống miễn dịch, tránh được một số bệnh truyền nhiễm. Ngoài việc chống ung thư, nước ép mãng cầu xiêm còn là tác nhân chống vi khuẩn, nhiễm nấm, chống ký sinh trùng đường ruột và giun sán, hạ thấp huyết áp, chống trầm cảm và những rối loạn tinh thần. Những phần khác của cây cũng rất hữu dụng.

Một nghiên cứu gần đây về nước ép từ quả mãng cầu xiêm cho thấy: Loại nước ép này là 1 liệu pháp chữa ung thư an toàn và hiệu quả, hoàn toàn từ thiên nhiên nên không gây nôn ói, sụt cân và rụng tóc. Bảo vệ hệ thống miễn dịch, tránh được một số bệnh truyền nhiễm. Giúp mạnh khỏe hơn trong quá trình chữa ung thư hay các bệnh khác. Tăng năng lượng và giúp thấy lạc quan hơn. Nó đến từ một công ty dược lớn nhất nước Mỹ, và trái mãng cầu xiêm đã là mục tiêu nghiên cứu của hơn 20 phòng thí nghiệm khoa học từ những năm 1970.

May mắn, có một nhà khoa học bị lương tâm cắn rứt đã làm lộ câu chuyện về “trái cây phép lạ” cho những người có trọng trách trong y tế Mỹ. Khi viện Khoa học Y tế Mỹ nghe tin này, bắt đầu truy tìm những công trình nghiên cứu chống ung thư liên quan đến cây Graviola lấy từ khu rừng mưa Amazon của Brazil.

Năm 1976, Viện Ung thư Quốc gia Mỹ tiến hành cuộc nghiên cứu đầu tiên về loại cây này và kết quả cho thấy, lá và thân của Graviola tiêu diệt hữu hiệu các tế bào ác tính. Nhưng nghiên cứu vẫn chỉ được lưu hành nội bộ chứ không công bố ra ngoài. Sau đó 20 nghiên cứu độc lập khác của các công ty dược hay viện nghiên cứu ung thư do chính quyền tài trợ đều cho thấy khả năng trị ung thư của Graviola.

Tuy nhiên, vẫn không có ca thử nghiệm nào được tiến hành chính thức tại các bệnh viện. Chỉ đến khi nghiên cứu của Đại học Cơ đốc giáo Hàn Quốc đăng trên tạp san Journal of Natural Products khẳng định một hoá chất trong Graviola đã tiêu diệt các tế nào ung thư ruột nhanh gấp 10.000 lần hoá chất Adriamycin thường dùng trong hoá trị ung thư người ta mới vỡ lẽ. không gây nôn ói, sụt cân và rụng tóc. Điều quan trọng là không như các hoá chất điều trị ung thư khác, Graviola và nước ép mãng cầu xiêm không hề làm hại gì cho các tế bào khỏe mạnh và không có tác dụng phụ. Người bệnh thấy mạnh khỏe hơn trong quá trình chữa ung thư và các bệnh khác; năng lượng được tăng cường và sống lạc quan hơn.

Một nghiên cứu tại Đại học Purdue University sau đó cũng phát hiện ra lá mãng cầu xiêm có khả năng giết các tế bào ác tính của nhiều loại ung thư khác nhau như ung thư ruột, ung thư vú, tuyến tiền liệt, phổi và tuyến tụy.

Hiện mãng cầu xiêm do thổ dân Brazil trồng hoặc sản phẩm bào chế từ nó đã có mặt nhiều ở Mỹ như một công cụ điều trị và ngăn ngừa ung thư. Một báo cáo đặc biệt có tên Beyond Chemotherapy: New Cancer Killers, Safe as Mother's Milk, do Viện Khoa học Y tế Mỹ công bố về Graviola đã xem loại cây này là “công cụ cách mạng hoá” chống ung thư.

Đã có bao nhiêu người thiệt mạng oan uổng khi công cụ chống ung thư hiệu quả này bị các công ty dược che giấu? Bây giờ bạn đã biết điều này thì hãy nói với những người bị ung thư mà bạn biết, và uống loại nước ép này để bảo vệ chính bạn.






Sưu Tầm. 

mandag 16. juni 2014

Hoàng Sa Của Việt Nam Ðã Bị Trung Cộng Chiếm 40 Năm Rồi

 
TẤT CẢ CÔNG DÂN VN PHẢI ĐỌC
NHỮNG HÀNG NÀY CHO KỶ
  
Theo luật quốc tế, nếu có tranh chấp lãnh thổ mà giữa các kháng nghị có 1 khoảng gián đoạn 50 năm hoặc nhiều hơn thì những đòi hỏi lãnh thổ trở nên vô hiệu. Như vậy, Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Cộng chiếm 40 năm rồi. Từ đó đến nay Việt Nam chưa gửi bất kỳ 1 kháng nghị, đơn kiện nào lên Tòa án Công lý Quốc tế hoặc Tòa án Quốc tế về luật Biển. 
Việt Nam chỉ còn 10 năm nữa, nếu không có bất kỳ một kháng nghị hay đơn kiện nào thì theo Luật biển quốc tế coi như Việt Nam chấp nhận mất Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa vĩnh viễn về tay Trung Cộng. 
Việt Cộng sẽ mắc vào một tội rất lớn đối với dân tộc mà nhân dân không thể nào tha thứ được.
PHẢI NỘP ĐƠN KIỆN TC NGAY BÂY GIỜ
TRƯỚC KHI TC CỐ GÂY CHIẾN TRANH ĐỂ KÉO DÀI THÌ GIỜ
 
Nếu TÀU không kéo DÀN KHOAN vào thì đảng VC, chắc chắn sẽ còn hữu nghị lâu dài, ít lắm thì cũng thêm 10 năm êm đềm, làm gì có chuyện đảng VC kiện cáo đàn anh TC. Rồi 10 năm sau, HOÀNG SA đương nhiên trở thành đảo của TÀU, khỏi lo ai kiện cáo gì nữa.
Cũng may mà thằng TÀU nó ngu, nó tham ăn quá, muốn ngốn cho lẹ nên bây giờ bị nghẹn cổ. Chứ nếu nó cứ đầm ấm với đảng VC thì có gì mà nó nuốt chẳng trôi. Cứ giáo dục cho đảng VC: "ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA", "còn đảng còn mình", thì đảng VC sẽ từ từ đem dâng vào miệng đàn anh TC cả nước lẫn dân VN.
 
CÒN CHẦN CHỜ GÌ NỮA MÀ CHƯA KIỆN TC ?
  
Báo South China Morning Post hôm nay tường thuật rằng, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Cộng Nguyễn Chí Vịnh nói rằng Hà Nội vẫn chưa quyết định bao giờ sẽ yêu cầu tòa án trọng tài quốc tế phân xử cuộc tranh chấp, nhưng ông nói quyết định đó còn tùy thuộc vào những hành động của Trung Cộbg ở Biển Đông.
Tờ báo dẫn lời Nguyễn Chí Vịnh nói rằng: 'Câu trả lời của chúng tôi (trước yêu cầu của Trung Quốc) là mọi sự còn tùy thuộc vào các hoạt động và cách hành sử của Trung Quốc, nếu họ tiếp tục lấn đẩy chúng tôi thì chúng tôi sẽ không có lựa chọn nào khác.

Tuyên bố như thế là cũng NGU! Không lẻ nếu TC cứ tử tế thì đành để mất HOÀNG SA một cách êm đẹp à ? Phải kiện TC trước khi thời hạn 50 năm chấm dứt. Cứ kiện để cho thế giới biết rõ VN CÓ LẼ PHẢI cái đã. Có lẽ phải rồi thì sau này nếu TC không trả lại mà VN phải dùng vũ lực để lấy lại thì Quốc tế cũng có thể bênh vực và hổ trợ VN.
 
Cho nên dầu TC tử tế hay không tử tế thì VC CŨNG PHẢI KIỆN TC VỀ HOÀNG SA NGAY LÚC NÀY. 

Nhưng VC đâu ngờ TC chơi cao tay hơn kiện VC trước, qua sự việc này cho thấy TC đã và đang nắm trong tay những hiệp ước mật của VC với TC. Cho nên VC chỉ còn con đường chết mà thôi.

Hòang Tùng.

Ai Là "Việt Kiều" ?


Trên truyền thông Việt ngữ, càng ngày hai chữ “Việt Kiều” càng thấy xuất hiện nhiều hơn. Chúng ta nên hiểu và sử dụng danh xưng này như thế nào để được chỉnh về chính trị (politically correct)?

“Kiều” có nghĩa là ở hải ngoại, được dùng làm tĩnh tự cho các danh tự, như: “Kiều dân” là người dân sống ở bên ngoài ranh giới quốc gia mà người ấy được sinh ra (native land); “Kiều hối” là tiền bạc ở ngoại quốc; “Kiều vận” là vận động dân mình ở ngoại quốc.

Chữ “Kiều” đã được dùng trong các chữ “Pháp kiều”, “Hoa kiều”, “Mỹ kiều”, và “Việt kiều yêu nước”. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, người Hoa sinh sống ở nam Việt Nam được chính thức gọi là Hoa Kiều. Suốt trong cuộc chiến Bắc-Nam Việt Nam (1954-1975), nhà cầm quyền Hà Nội gọi các thành phần người Việt ở hải ngoại có những sinh hoạt phản chiến, hỗ trợ, hay có lợi cho cộng sản Việt Nam là “Việt Kiều Yêu Nước”.

Tương tự, người Thái sinh sống ở ngoài Thái Lan là Thái kiều, và người Phi không ở nước Phi là Phi kiều. Trong hoàn cảnh chính trị quốc gia bình thường, liên hệ giữa chính phủ một nước với kiều dân của họ tốt đẹp, và không có vấn đề gì làm hai bên phải bận tâm: Khi những viên chức của chính phủ một quốc gia xuất ngoại công cán ở nơi xa có kiều dân của họ sinh sống, các viên chức cao cấp thuờng được kiều dân tiếp đón tưng bừng như các hình ảnh thấy trên các bản tin thời sự. Ngược lại, khi các kiều dân có dịp về thăm nơi “chôn rau, cắt rốn” của mình, họ thường được đối xử bình thường – có khi còn được biệt đãi – bởi các viên chức chính phủ, nhất là ở các cơ quan liên hệ đến hải quan, du lịch, hay thông hành.

Chữ “Kiều” sẽ trở nên khúc mắc hơn khi một quốc gia bị các biến cố chính trị đưa đến các cuộc di dân có khi là ngoài ý muốn tự nguyện của một số các công dân ra khỏi biên giới quốc gia, hay khi quốc gia bị chia thành các chế độ chính trị đối nghịch. Thí dụ: Hiện có hai nước Hàn quốc: Bắc Hàn, và Nam Hàn, cùng là hội viên của Liên Hiệp Quốc. Như vậy, nếu xét đến liên hệ giữa các Hàn kiều, và hai chính phủ đối nghịch chính trị, cũng như khác biệt về luật lệ quốc tịch, và di dân của Nam và Bắc Hàn, cần phải phân biệt có hai loại Hàn kiều: Nam Hàn kiều, và Bắc Hàn kiều.

Cũng tương tự như Hàn kiều, trường hợp các Hoa kiều của Trung Cộng, và Đài Loan cũng cần phải được phân biệt cho rõ ràng, để có thể tránh được những hiểu nhầm vô tình, hay “vơ đũa cả nắm”, có thể đưa đến những hậu quả chết người: Một Nam Hàn kiều trên đất Mỹ vi phạm những điều kiện của luật lệ di trú nếu bị trục xuất về Bắc Hàn thì khác gì như bị án tử hình?

So với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là một trường hợp khúc mắc liên hệ đến hai chữ “Việt Kiều”. Lý do là vì Việt Nam là quốc gia độc nhất trên thế giới có tỉ lệ dân Việt ở hải ngoại tương đối cao (khoảng 3 triệu, so với 84 triệu trong nước), mà hầu hết thành phần này lại là nạn nhân của chính phủ đang cầm quyền ở Việt Nam, hậu quả của biến cố 1975. Vốn là tị nạn chính trị chế độ cộng sản, người Việt ở hải ngoại luôn luôn tìm mọi cách để biểu lộ cho người dân trong nước, dân bản xứ, cũng như cộng đồng thế giới biết họ không chấp nhận những ngưới cầm quyền ở Hà Nội là đại diện chính thức, và hợp pháp cho quốc gia Việt Nam. Các viên chức của Hà Nội khi đi công cán ở hải ngoại thường bị các kiều dân “dàn chào”, biểu tình phản đối, làm cho bỉ mặt trước truyền thông quốc tế. Ngược lại, khi về thăm Việt Nam, người Việt ở hải ngoại thường bị các viên chức có thẩm quyền ở hải quan, liên hệ đến thông hành, và du lịch cố ý ấn định giá vé, lệ phí cao hơn gấp hai, gấp ba so với cho người trong nước, làm khó khăn để bòn tiền trà nước, để ý bằng con mắt nghi ngờ, cùng các biện pháp kỳ thị khác.

Trong thời chiến, trước khi chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội đã dùng một số “Việt Kiều Yêu Nước” để tuyên truyền cho chiêu bài “Chống Mỹ, cứu nước” của họ. Thật ra, “Việt Kiều Yêu Nước” chỉ là “người Việt thân cộng ở hải ngoại”.

Ngày nay, Hà Nội lại muốn tiếp tục “mập mờ đánh lận con đen” muốn lợi dụng nguồn tài nguyên (như ngoại tệ, và kiến thức kỹ thuật) càng ngày càng gia tăng của người Việt ở hải ngoại để duy trì chế độ. Họ dùng chữ “Việt kiều” để gọi chung tất cả 3 triệu người Việt ở hải ngoại, với tà ý “xập xí, xập ngầu” với đồng bào ở trong nước, cũng như cộng đồng thế giới rằng 3 triệu người Việt ở hải ngoại vẫn là “Khúc ruột ở xa ngàn dặm”, ám chỉ họ được sự công nhận, và hỗ trợ của 3 triệu “Việt Kều”. Những ai còn nghi ngờ ý đồ của Hà Nội xin hãy tìm đọc kỹ nội dung bộ luật hiện hành về quốc tịch của Hà Nội để thấy rằng: Cộng sản Hà Nội không nhượng bộ một ly nào đối với người Việt trong cũng như ngoài nước. Bộ luật quốc tịch Việt Nam cộng sản vẫn khăng khăng qui định: Người Việt nào chưa được giấy phép của Chủ tịch Nước từ bỏ quốc tịch Việt Nam vẫn là công dân Việt Nam, dù đã vào quốc tịch bất cứ nước nào. Hà Nội không chấp nhận song tịch, mà xác quyết người Việt có quốc tịch nước ngoài vẫn là người còn quốc tịch Việt Nam, nên vẫn bị luật lệ Việt Nam chi phối. Hà Nội còn triệt để hơn nữa khi áp dụng luật này cho các con cháu thế hệ thứ hai sanh tại ngoại quốc của người Việt ở hải ngoại: Những thiếu niên Việt sanh tại Mỹ, Pháp, Úc, v.v., con cái của cha mẹ có quốc tịch của các nước ấy, vẫn bị nhận vơ là “con dân” của cộng sản Hà Nội! Trên thế giới thử hỏi có chính phủ nào vừa vô lý, vừa trâng tráo, và nham hiểm như vậy không?

Trong khi đó, mỗi khi người Việt ở hải ngoại có vấn đề với các cơ quan thẩm quyền sở tại – thí dụ như về giấy tờ cư trú, di dân, hay mỗi khi bị dân bản xứ kỳ thị ở các quốc gia Đông Âu – các viên chức ở sứ quán của Hà Nội lại hoặc bất lực, hoặc cố ý quay mặt làm lơ, không hành xử nhiệm vụ thuộc phạm vi công vụ của mình.

Để tránh sự lợi dụng của nhà cầm quyền Hà Nội, cũng như những thành phần thân cộng ở hải ngoại, chúng ta, nhất là những người Việt đã có quốc tịch của nước sở tại (như Pháp, Đức, Anh, Úc, Mỹ), nên minh xác rõ ràng rằng chúng ta là “người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt, cựu tỵ nạn cộng sản (nếu thích hợp)”, chứ không phải là “Việt Kiều” gì hết! Con em của chúng ta được sinh ra ở hải ngoại là “người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt”, tự động có quốc tịch, và là công dân của nước mà chúng đã được sanh ra. Không kể một thiểu số thân cộng, hầu hết người Việt ở hải ngoại không những không là “Việt Kiều”, mà còn công khai cương quyết chống lại các kế hoạch kiều vận của bạo quyền Hà Nội, đồng thời tiếp tay hỗ trợ cho các chiến sĩ tranh đấu cho tự do, nhân quyền, và dân chủ ở trong nước.

Cũng đừng quên rằng, vì có quốc tịch của nước mà chúng ta sinh sống, đổi lại những quyền lợi đáng kể mà tất cả các công dân của nước đó đều được hưởng hàng ngày, chúng ta có bổn phận thực thi những nghĩa vụ công dân như đóng thuế, đi bầu, tôn trọng hiến pháp cũng như luật lệ, và phục vụ quyền lợi dân tộc và quốc gia sở tại.

Tóm lại, vô tình chấp nhận không đúng nghiã những từ ngữ Hà Nội láu cá sử dụng – như hai chữ “Việt Kiều” – chẳng khác gì như để mình rơi vào bẫy xập tuyên truyền của phỉ quyền CS gian manh.

Nguyên Giao.

Đọc Cho Vui !


Tình hình trong nước hiện nay, khắp các hang cùng ngõ hẻm đều rộ lên tin đồn Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị ám sát.

Thông thường tin đồn thường dính tới những sự kiện có chút manh mối và có thể vừa xẩy ra hoặc sắp xẩy ra, ví dụ như nhà nước đổi tiền.

Thế nhưng, tin đồn Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị ám sát là một chuyện không thể tưởng tượng nổi, nhất là ở một xứ sở công an trị như Việt Nam.

Đã nói là tin đồn thì không thể nào truy nguyên ra nổi nguồn gốc từ đâu vì tin tức là do dân chúng rỉ tai, truyền miệng với nhau.

Về vấn đề manh mối, chúng ta có thể có được chút dữ liệu, dựa vào những phân tích liên quan đến bộ sậu cầm quyền hiện nay ở Hà Nội.

Nguồn thạo tin từ trong nước, guồng máy cầm quyền đang chia ra làm ba phe bốn phái, và không phe nào phục tùng phe nào.

Chế độ ở Việt Nam là một chế độ tam đầu chế, bao gồm tổng bí thư đảng (Nguyễn Phú Trọng), chủ tịch nước (Trương Tấn Sang) và Thủ Tướng (Nguyễn Tấn Dũng).

Nguyễn Phú Trọng là người Bắc, sinh quán ở huyện Đông Anh, ngoại ô Hà Nội. Ngoài chức vụ tổng bí thư đảng, Trọng còn là bí thư Quân Ủy Trung ương và trưởng ban chỉ đạo trung ương phòng chống tham nhũng!

Trương Tấn Sang – biệt danh Tư Sang – là người miền Nam, quê quán ở huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Trước khi ra Hà Nội,  từng là thị trưởng Sài Gòn (1992), rồi bí thư thành ủy Sài Gòn (1996 – 2000). Sau đó bị chuyển sang những chức vụ hữu danh vô thực như trưởng ban Kinh tế Trung ương, mãi đến tháng Bẩy năm 2011 mới ngoi lên giữ chức vụ chủ tịch nước.

Nguyễn Tấn Dũng – còn được gọi là Ba Dũng – quê quán ở Cà Mau, từng là tỉnh ủy Kiên Giang, sau đó giữ các chức vụ như thứ trưởng Bộ Nội vụ (1995 – 1996), rồi phó Thủ Tướng (2002 – 2006).

Được người tiền nhiệm là Phan Văn Khải đề cử, vào ngày 27-06-2006, Dũng chánh thức trở thành Thủ Tướng và đến tháng Bẩy năm 2011, tiếp tục “tái đắc cử” nhiệm kỳ hai.

Trong số 3 tên nói trên, Nguyễn Tấn Dũng là nhân vật bị tai tiếng tham nhũng nhiều nhất. Dũng và Sang tuy đều là người miền Nam nhưng lại không ưa nhau và kình chống nhau ra mặt.

Tuy nhiên, sau vụ Hoa Lục mang giàn khoan tới khai thác ở thềm biển Việt Nam vào đầu tháng Năm, Dũng là người công khai lên tiếng bài bác đàn anh Bắc Kinh, đến nỗi phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Lục là Tần Cương vào ngày 27/05 mắng lại là “tráo trở lật lọng, bội tín bội nghĩa”!!

Các nguồn tin trong nước cho hay đang có âm mưu của Bắc Kinh, cùng các tay sai đàn em của Bắc Kinh muốn triệt Dũng để Việt Nam bớt đi thế lực chống đối với “thiên triều”.

Thật ra từ lâu đã có một người ở bên Mỹ tiên đoán Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị ám sát trong năm 2014.

Người này là Trần Dần, tự xưng là tiên tri gia vũ trụ.

Theo các tờ báo bằng tiếng Việt bên Hoa Kỳ, Trần Dần đã từng tiên đoán nhiều sự kiện chính xác và có thể liệt kê như sau:

- Đoán trúng các nhiệm kỳ đắc cử của 3 đời Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 41, 42 và 43.

- Đoán trúng Tổng Thống George H.W. Bush (tức Bush cha) thất cử nhiệm kỳ hai vì ông không thay đổi chữ ký.

- Đoán trúng Tổng Thống Bill Clinton đắc cử nhiệm kỳ nhì và ông sẽ gặp rắc rối vì có số đào hoa chiếu mệnh. Sau đó quả thật ông Clinton đã suýt nữa bị bãi chức trong vụ lẹo tẹo với cô thư ký tập sự tòa Bạch Cung là Monica Lewinsky.

- Đoán trúng Tổng Thống George W. Bush (tức Bush con) tái đắc cử nhiệm kỳ hai vì ông chịu đổi chữ ký theo đề nghị của nhà tiên tri Trần Dần.

- Đoán trúng những diễn tiến của cuộc chiến tranh Iraq cùng với số phận của lãnh tụ độc tài Saddam Hussein.

- Đoán trúng Tổng Thống Obama tái đắc cử nhiệm kỳ nhì.

- Đoán trúng về cái chết của trùm khủng bố Osama bin Laden xẩy ra trong nhiệm kỳ của Tổng Thống Obama.

Đó là những chuyện đã xẩy ra, còn dưới đây là những gì ông báo trước cho những việc sắp tới:

- Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị phe thân Trung cộng ám sát trong năm 2014.

- Việt Nam sẽ thay đổi chế độ hiện hành do dân chúng nổi lên lật đổ. Màu cờ Việt Nam cũng sẽ thay đổi trong năm 2014.

- Đảng cộng sản Hoa Lục sẽ tan vỡ trước năm 2016.

Trần Dần tiết lộ ông chính là cố vấn của Tổng Thống Obama.

Vào tháng Năm năm 2011, trong một cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình GlobalTV, đặt trụ sở ở Orange County, California, Trần Dần đã hé lộ những tiên đoán của ông về tình hình Việt Nam, trong đó có việc Nguyễn Tấn Dũng bị ám sát. Nguyễn Phú Trọng, Nông Đức Mạnh cùng các tay sai bán nước sẽ chạy sang Hoa Lục lánh nạn và đất nước Việt Nam sẽ lật sang trang sử mới, với các cuộc bầu cử tự do đa đảng.

Về chuyện gần nhất, ông đã đoán luật sư Cù Huy Hà Vũ bị lãnh án 7 năm tù, 3 năm quản chế nhưng sau đó ông Vũ được trả tự do. Quả đúng như thế, luật sư Cù Huy Hà Vũ đã được thả vào đầu tháng Tư năm nay và được cho đi Mỹ.
Được biết, Trần Dần trước đây là một thương gia làm ăn lớn ở miền Nam Việt Nam. Trước 1975, ông là nhà thầu quân cụ, được mệnh danh là “Vua Bạc Đạn”.

Chính Trần Dần xác nhận, lúc đó ông làm ăn ngang hàng với Lâm Huê Hồ, Trịnh Đức, Lý Long Thân cùng nhiều tay đại tài phiệt ở Việt Nam Cộng hòa bấy giờ.

Gia đình giàu có, ông có nhiều thê thiếp lên tới 10 bà cho đến khi sang Mỹ. Ở Hoa Kỳ, ông vẫn tiếp tục kinh doanh với bề thế khá lớn.

Phóng viên của đài truyền hình GlobalTV là Nguyên Hà có đặt câu hỏi tại sao là một Phật tử thuần thành nhưng khi đưa ra những tiên tri, ông Trần Dần luôn nói đến “Thiên lệnh của Thượng Đế và Chúa Jesus”?

Trần Dần trả lời rằng việc ông trở thành tiên tri chỉ là “ngẫu nhiên”.

Hồi năm 2003, lúc còn cư ngụ ở thành phố Fountain Valley, Orange County, California, vào một buổi bình minh, “khoảng 6 giờ rưỡi sáng, tôi không nhớ rõ ngày tháng, tình cờ tôi nhìn thấy Chúa Jesus hiện ra ngay trước mặt tôi với hình ảnh của một trái tim màu đỏ chói với hào quang màu vàng bao phủ khắp châu thân của Ngài. Tôi nhìn thấy rõ ràng như vậy thì biết ngay, đó không phải là hình ảnh giống như ở bên đạo Phật. Nhưng tôi không biết được đó là vị thánh nào. Tôi dụi mắt định thần nhìn lại cho rõ, nhưng ngay trong phút đó, bên tai tôi nghe văng vẳng có tiếng nói: “Con được chọn trong hàng triệu người tốt để cứu nhân độ thế, vì con có lòng yêu nước và thương yêu nhân loại.”

Sau sự kiện đó, ông dọn tới San Diego cũng ở California, bỏ hết công việc làm ăn, đêm đêm ngồi viết lại những sự việc và những “thiên lệnh của Thượng Đế và Chúa Jesus”.

Cũng trong buổi phỏng vấn đó, ông nhận định chế độ cộng sản đương quyền “đã làm vô số những điều không tốt, không hạp với đạo lý của Trời, trái nghịch với ý hướng của toàn dân. Lòng Dân và ý Trời đều đang bị đảng CSVN xúc phạm trầm trọng, cho nên họ sẽ phải nhận chịu cái lực của Trời Đất, và sẽ bị tiêu diệt không cho nắm giữ quyền hành nữa.”


Việt Long.

Nước Chưa Mất Mà Ðã Mất Dân



Dân tộc Việt Nam từ khi lập quốc đến nay chưa bao giờ xảy ra tình trạng này, chỉ có trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của cộng sản với chính sách trăm năm trồng người của Hồ Chí Minh mới có tội ác như câu chuyện thật kể ra dưới đây.


Chuyện như thế này:

Trong một chuyến về Sài Gòn vào đầu tháng 4 năm nay (2014) vợ tôi có đến thăm hai người cháu, một trai và một gái, con của một bà chị trong họ. Cậu trai 32 tuổi và cô gái 27 tuổi, cả hai đều được nuôi ăn học đàng hoàng (tốt nghiệp đại học 4 năm), có công ăn việc làm tốt ở Sài Gòn. Họ đều đã lập gia đình cách đây vài năm và đã có con. Dì cháu lâu ngày gặp nhau mừng mừng tủi tủi, trong câu chuyện hàn huyên vợ tôi ôm đứa con trai của người cháu trai và hỏi nó rằng:

 
- Con tên chi ?
Đứa bé trả lời:

- Dạ, con tên Miêu Văn Dũng ạ.

Vợ tôi tưởng mình nghe lộn nên hỏi lại:

- Ủa, con họ chi ?

Đứa bé trả lời:

- Dạ, con họ Miêu ạ.

Vợ tôi ngạc nhiên, ngước mặt lên hỏi cha của nó:

- Sao lạ vậy, con họ Nguyễn mà tại sao con của con họ Miêu ? Người Việt mình làm gì có họ Miêu hả con ?

 
Biết vợ tôi ngạc nhiên, cậu cháu vội giải thích một tràng như sau:
- Dì à, đó là con cho nó lấy họ mẹ, vợ của con gốc người Hoa họ Miêu. Con không được may mắn bằng em của con, nó lấy thằng em của vợ con nên con nó sinh ra không cần phải lấy họ mẹ vẫn có được họ Tàu.

 
Vợ tôi bực mình hỏi lại:
- Sao lạ vậy, mình là người Việt Nam tại sao phải lấy họ Tàu ?

Cậu cháu trả lời:

- Dì ở nước ngoài lâu quá nên không biết đó thôi, chứ ở đây (Việt Nam) thanh niên nam nữ khi lớn lên lập gia đình đều muốn con của mình mang họ Tàu để sau này có tương lai hơn! Dì không thấy sao? bây giờ ở nước mình đi đến đâu cũng thấy Tàu, công ti, hãng xưởng đa số là của người Tàu. Mang họ Tàu đi xin việc, làm giấy tờ gì cũng dễ dàng và được nể vì, tụi con cũng cũng vì tương lai của mấy cháu đấy thôi.

 
Nghe người cháu phân bua như vậy vợ tôi gằn giọng:
- Thì ra là vậy, như vậy thì hết đời tụi bây, giữa tao và con của tụi bây coi như không bà con, dòng họ gì nữa rồi phải không ?

 
Biết vợ tôi tức giận, cậu cháu vội giả lả:
- Dì nói vậy thôi, chứ họ gì thì họ, bà con vẫn cứ bà con mà dì. Dì thấy không, cô Đại sứ Du lịch Việt Nam Trần Thị Thanh Nhàn cũng lấy tên Tàu là Lý Nhã Kỳ mà được trọng vọng, nên danh nên phận và giàu có đó, có sao đâu.

 
Vợ tôi buột miệng nói:
- Vậy sao ?

 
Nhận thấy không khí có vẻ nặng nề và ngượng nghịu, vợ tôi vội vàng kiếm cớ bận rộn công việc để từ giã hai đứa cháu. Trên đường về bâng khuâng tự hỏi:
Không biết mình có còn chúng nó hay không ?!
 
Duy Huỳnh.

tirsdag 3. juni 2014

CÂU CHUYỆN CÔNG HÀM 1958

 
Sau hai vòng đàm phán không chính thức với mục đích nếu không đạt được Hiệp Ước Liên Minh Quân sự với Hoa Kỳ thì ít ra cũng được phép mua vũ khí từ Mỹ, đại diện CSVN đành về nước tay không với gói quà 18 triệu đô viện trợ cho Cảnh Sát Biển.
 
Trước khi ra sân bay về nước, đại diện CSVN có ngõ lời mời người đối tác phía Mỹ một buổi cơm tối thân mật tại một nhà hàng Tàu trong vùng Virginia. Nhà hàng này nổi tiếng với món Vịt Bắc Kinh và có rất nhiều Tổng Thống Mỹ ghé qua ăn và chụp hình lưu niệm. 
 
Vừa bước vô cửa người đại điện Mỹ nói chào một cách dí dỏm:
- Ông cũng khéo chọn lựa chứ? Mỹ gặp Việt trong nhà hàng Trung Quốc?
Đại diện CSVN cười và giải thích:
- Nhà hàng này có chủ là người Đài Loan. Cứ xem như kẻ thù của kẻ thù là bạn.
Đại diện Mỹ buột miệng ra một câu tiếng Việt:
- Thế ra là nhà hàng của “Thế lực THÙ (của) ĐỊCH” à?
Đại diện CSVN phá lên cười:
- Gớm. Ông cũng rành tiếng Việt đấy chứ?
- Tôi học tiếng Việt ở Mỹ, học tiếng lóng tiếng láy ở Sài Gòn khi còn làm tùy viên văn hóa bên đó trước năm 1975. Sau này vẫn theo dõi thời sự và trao đổi trên Facebook. Chúng ta có thể thảo luận bằng tiếng Việt để khỏi mất thì giờ. Ông muốn gặp tôi lần cuối chắc là có câu hỏi gì cho tôi?
Đại diện CSVN vào thẳng vấn đề:
- Hai vòng đàm phán qua ông đã kết luận chúng tôi không thể có Liên minh Quân sự với Mỹ vì Trung Quốc sẽ cản trở. Chúng tôi không có đủ ngân sách để mua vũ khí tự túc. Xem ra giải pháp quân sự lúc này với Trung Quốc không khả thi. Thế thì giải pháp pháp lý, ông nghĩ có khả thi hay không? Ý tôi muốn nói rằng đưa Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế để kiện như Philipines đang làm thì có khả thi không?
 
- Cơ hội rất ít, thưa ông. Và các ông nên cân nhắc cẩn thận về các bằng chứng trình trước tòa. Vì nếu tòa phán quyết các ông THUA thì con đường tương lại còn gian nan hơn nữa. Phán quyết mới nhất của tòa cấp quốc tế xem ra là bản án tử hình cho các ông tại Biển Đông. Khi ấy các ông bị đẩy ra bên lề mọi tranh chấp sau này của các nước trong vùng đối với Biển Đông.
 
- Nhưng nếu chúng tôi liên kết kiện với Phi hay các nước khác?
 
- Tôi cũng nhận thấy các ông đang có hướng này. Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ghé thăm Phi hôm qua. Nhưng khả năng Phi liên kết với ông trong vụ kiện rất thấp vì khi Phi kiện các ông không ủng hộ. Bây giờ các ông tham gia với BẰNG CHỨNG BẤT LỢI hơn thì dĩ nhiên Phi khó chấp nhận.
 
- Chúng tôi có đầy đủ các bằng chứng THUẬN LỢI từ thời Thực dân Pháp đến Việt Nam Cộng Hòa rằng Việt Nam có đã xác định chủ quyền trên hai quần đảo này liên tục cả trăm năm cơ mà. Sao ông lại nói BẤT LỢI?
 
- Các ông đang trưng dẫn bằng chứng của những chế độ đã qua mà không hề có bằng chứng xác nhận chủ quyền cấp quốc tế từ chế độ của các ông. Xem ra khó thuyết phục tòa án. Các ông có thể trưng dẫn hình ảnh thời thơ ấu trong một căn nhà, những câu chuyện tuổi thơ ở đó, trong khi người ta trình ra GIẤY BÁN NHÀ của bố các ông, thì dĩ nhiên tòa án không thể cho các ông vào nhà được.
 
- Ý ông muốn nói đến Công Hàm Phạm văn Đồng năm 1958?
 
- Đúng. Các ông biết Công Hàm này đã lâu nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy các ông cố NÉ TRÁNH nó. Trong khi ngược lại gần đây Trung Quốc lại trưng công hàm này ra trước quốc tế. Xem ra họ có nắm đàng cán về vụ này!
 
Đại diện CSVN cười sặc sụa:
- Công hàm đó KHÔNG CÓ HIỆU LỰC ông ơi. Phạm văn Đồng dù có nói thẳng là “giao Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Quốc” thì cũng không có hiệu lực. Đó chỉ là ĐÒN NGOẠI GIAO … KHÔN NGOAN của chúng tôi để nhận viện trợ từ Trung Quốc mà đánh Mỹ. Năm 1958 chúng tôi không có chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa.
 
Chờ cho người đại diện CSVN cười xong, uống một ngụm nước, thì đại diện Mỹ mới từ tốn lên tiếng:
- Đối với luật pháp Tây Phương chúng tôi thì chúng tôi phân biệt rất rõ sự tách biệt giữa “khế ươc buôn bán” và “chủ quyền”.
 
- Ý ông nói là các ông có thể bán những gì các không có cơ à. Thật là HOANG ĐƯỜNG và TRẺ CON.
 
- Chuyện có thật ông à. Khế ước buôn bán là giao kết giữa hai hay nhiều bên về chuyển nhượng một cái gì đó nó có thể trong hiện tại hay trong tương lai để đổi lấy giá trị tiền bạc hay vật chất có thể giao hôm nay hay giao vào một thời điểm trong tương lai. Như vậy vào năm 1958 các ông hứa bán một cái gì đó các ông không có ngay lúc đó, và lời hứa sẽ giao hàng ngay khi các ông có. Vấn đề là phía Trung Quốc tin như vậy và ủng hộ các ông biến điều đó thành hiện thực. Đổi lại họ cung cấp viện trợ cho các ông gần cả tỉ đô la về vật chất và con người để tiến hành chiến tranh chống chúng tôi. Năm 1958 các ông không có CHỦ QUYỀN nhưng các ông đã làm KHẾ ƯƠC, thì khi các ông có chủ quyền các ông phải thực hiện khế ước buôn bán đó.
 
- Thế các ông có trường hợp buôn bán kiểu đó trong thực tế không?
 
- Có chứ ông. Trong sở hữu chứng khoán, thị trường thế giới có cái gọi là “future options”. Ông không dám mua chứng khoán đó vì ông sợ thua lổ, ông có thể trả tiền với LỜI HỨA sẽ mua và công ty đó phải giao “chủ quyền” chứng khoán đó cho ông trước thời điểm nào đó, dù nó lên hay xuống thấp hơn giá trị ông trả. Rồi ông cần tiền ông vẫn có thể bán LỜI HỨA đó cho người khác và cứ thế cho đến khi thời điểm hứa đó đến thì người cuối cùng phải … THỰC HIỆN. Cái đó là buôn bán thứ ông không có chủ quyền …
 
Đại diện CSVN nghiêm mặt lại biện hộ:
- Nhưng ông không đọc thấy trong ngôn từ Thủ Tướng Phạm văn Đồng rất KHÔN NGOAN không hề đề cập để chuyện “giao chủ quyền” như cái ví dụ mà ông nêu. Ông ta chỉ nói …
“có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển”.
 
Đại diện Mỹ cười rồi nói:
- Các ông đã có lịch sử CÔNG NHẬN công hàm này. Đó là vào năm 1974 khi Trung Quốc tấn công Hoàng Sa thuộc chủ quyền VNCH. Các ông đã “tôn trọng hải phận của Trung Quốc trong mọi quan hệ trên mặt biển” nên các ông hoàn toàn để mặc cho Trung Quốc hành động chiếm chủ quyền … TƯƠNG LAI của các ông. Thế thì sao các ông có thể biện minh trước tòa rằng một văn bản không hiệu lực lại được tôn trọng?
 
- Chúng tôi cũng như các ông thôi. Hạm đội 7 các ông nằm đó đâu có động tĩnh gì!
 
- Hoa Kỳ bị ràng buộc bỡi Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc và Hiệp định Paris, phải rút quân và trả lại quyền tự quyết cho VNCH.
 
Đại diện Mỹ ngừng một lát rồi nói tiếp:
- Tôi xem công hàm Phạm văn Đồng nhiều lần và phải công nhận vào thời điểm năm 1958, ông Đồng hay ai đó soạn cho ông Đồng ký công hàm này là “khôn liền” ngay lúc đó mà không có … “khôn lâu”.
- Ý ông là?
- Ngôn từ trong công hàm này vào năm 1958 rất là KHÔN NGOAN. Vì các ông BÁN VỊT TRỜI mà thu được gần cả tỉ đô la viện trợ của Trung Quốc cho một món hàng tương lai không biết có chiếm được hay không. Ví như một người muốn đi cướp nhà người khác không có súng, không có tiền, đi hứa với thằng cướp khác “khi nào tao cướp được nhà đó thì tao tôn trọng quyền của mày được trồng rau ở sân sau”. Khi cướp được thì phải thực hiện lời hứa đó.
 
Đại diện CSVN mỉa mai:
- Nếu “khôn lâu” như ông trong trường hợp đã lỡ ký LỜI HỨA đó thì ông phải làm sao?
 
- Nếu tôi là các ông mà tôi bắt buộc phải viết công hàm đó để có viện trợ thì tôi vẫn viết như thế.
 
- Huề tiền!
 
- Tôi vẫn nhận gần cả tỉ đô la để đánh Hoa Kỳ và kéo nó đến bàn Hội Nghị Paris năm 1973 để nó phải rút quân.
 
Đại diện CSVN phá liên cười:
- Ông khôi hài quá, thế mà lại “dạy ngoại luộc trứng”.
 
Đại diện Mỹ vẫn từ tốn nói:
- CSVN ký công hàm Phạm văn Đồng là khôn liền ngay năm 1958 nhưng ai đó quyết định xé hiệp định Paris chiếm Miền Nam năm 1975 là ĐẠI NGU để Trung Quốc nó …. (xin lỗi tôi hay có tật nói láy) 
Chiếm Miền Nam là biến công hàm đó thành hiện thực và đối diện gần 1 tỉ đô la nợ Trung Quốc, là từ bỏ 4 đến 6 tỉ đô la bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ … Việt Nam bỏ cơ hội thành một nước Đức và nước Nhật sau thế chiến thứ hai.
 
Đại diện CSVN hết kiên nhẫn ngắt lời:
- Ông có khiếu kể chuyện cổ tích. Xin phép trở lại trọng tâm. Thế thì có giải pháp nào cho chúng tôi trong bế tắc này không?
 
Đại diện Mỹ nhìn quanh rồi pha trò:
- Có tình báo Hoa Nam Cục ở đây không?
 
Rồi ông nói tiếp:
- Theo tôi thì các ông phải tuân thủ công hàm Phạm văn Đồng vì 1974 các ông đã tuân thủ thì hôm nay phải tuân thủ để yên cho Trung Quốc đặt giàn khoan.
 
- Không còn cách nào hết sao?
 
- Chỉ còn cách mà tôi đã nói với các ông hôm đầu tiên.
 
- Cách gì ông nhắc lại đi.
- Một cách vô cùng giản dị, không cần viện trợ của Hoa Kỳ, chẳng cần ủng hộ của thế giới, mà lại đoàn kết, hòa hợp hòa giải với mọi thành phần người Việt trong và ngoài nước và quan trọng là vô hiệu hóa công hàm Phạm văn Đồng.
 
- Làm cách nào?
 
- Ngay ngày mai ...
Đổi lại tên nước thành Việt Nam Cộng Hòa.
Lấy lại tên Sài Gòn và dời thủ đô về đó.
Lấy CỜ VÀNG làm quốc kỳ.
Có như thế thì trước diễn đàn thế giới. VNCH chỉ VẮNG MẶT … 39 năm chứ KHÔNG CHẾT. Công hàm Phạm văn Đồng chỉ là tờ “giấy lộn” vì tên cướp có vô nhà nhưng chủ nhà về lại và đã đuổi cổ nó ra … Trời Việt lại … HỪNG ĐÔNG.
 
Đại diện CSVN vuốt mồ hôi lạnh trên trán:
- Chỉ đơn giản thế thôi sao?

Vịt Bắc Kinh trên bàn đã NGUỘI LẠNH, lớp mỡ trắng đã bắt đầu đóng viền quanh dĩa vì không ai còn đoái hoài đến nó.

Đại diện Mỹ vỗ vai đại diện CSVN nói một câu tiếng Anh:
- All road lead to Rome (Đường nào cũng về La Mã)
Hãy trả cho Ceazar những gì của Ceazar. 
Các ông chỉ có một ĐƯỜNG BINH … cầm bài chi lâu cho nó … ƯỚT.
 
Minh Võ.