mandag 18. mai 2015

40 Năm Cai Trị Của Ðảng CSVN


Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu một khúc quanh bi thảm trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Hơn 2 năm ”hấp hối’ vì Hiệp Định Paris năm 1973, Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn bị Cộng Sản Miền Bắc chiếm đóng sau 21 năm hiện hữu. 
Chế độ Việt Nam Cộng Hòa, tuy phải đối phó với những khó khăn do cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhứt 1945 -1954 để lại, vẫn là một chế độ dân chủ, hoàn toàn khác biệt với chế độ độc tài toàn trị ở Miền Bắc vĩ tuyến 17.  Ta duyệt xét thành quả của VC sau 40 năm cai trị.

1. Chính trị: lường gạt, tráo trở, bán nước:
– lường gạt
a) lường gạt lần 1: khi đã lường gạt dư luận thế giới thành công về MTGPMN, lúc chiếm miền Nam xong thì VC miền Bắc lột bỏ ngay mặt nạ và giải tán liền tụi tay sai dàn dựng này, thống nhất hai miền với danh xưng VNDCCH.
b) lường gạt lần 2: Rồi lộ bộ mặt thật, trở lại với tên Đảng CS VN trước đó núp dưới tên Đảng Lao Động, và đổi quốc hiệu thành CHXHCNVN.
c) lường gạt lần 3: Kêu gọi đi học tập cải tạo 3 ngày, 2-4 tuần mà biến thành tù cả chục năm, hãm hại trên 1 triệu quân cán chính miền Nam với hơn 165 ngàn người chết trong loại ngục tù này. Tuyên bố Độc lập-Tự Do-Hạnh Phúc mà cả nước biến thành một nhà tù khổng lồ, nhốt hơn 20 triệu con dân Miền Nam.
d) lường gạt lần 4: Dàn cảnh các trại tù cải tạo mỗi khi có phái đoàn ngoại quốc viếng thăm
e) lường gạt lần 5: Tuyên bố cởi mở đổi mới nhưng rồi xiết lại thành chủ thuyết quái thai « kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã». Theo lời Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng C SVN, dù cho có đến 100 năm nữa Việt Nam vẫn chưa đạt tới Cộng Sản Chủ Nghĩa.
f)  lường gạt lần 6: CSVN đã hô hào người Việt ở hải ngoại đem tiền và tài về VN để giúp xây dựng quê hương. Một vài người đã về nhưng đều thất vọng. Một số đã bị CS cầm tù, tịch biên tài sản như các Ông Trịnh Vĩnh Bình (Hòa Lan), Trần Triệu Quân (Canada)… Cho tới giờ phút này, chưa có một Người Việt Hải Ngoại nào về làm ăn với CS mà thành công, yên lành.
g) Đang kêu gọi xoá bỏ hận thù, hoà hợp hòa giải, nhưng chỉ kêu gọi một phiá quốc gia mà thôi, phiá VC thì vẫn khư khư ôm chiến thắng, không xin lỗi, thay đổi gì hết, chỉ có nghiã là kêu gọi người quốc gia đầu hàng VC ! Ai dại tin thì sập bẫy. Chủ ý là đánh lừa giới trẻ và dư luận thế giới.
h) Màn lường gạt thường trực: nhân dân làm chủ ? nhưng tất cả quyền hành nằm trong tay đảng (điều 4 hiến pháp) Tự Do ư, chỉ có tự do tuân hành chỉ thị và lệnh của đảng và đảng viên. Hạnh Phúc ở đâu ? quả thật chỉ có đảng viên và gia đình họ hưởng hạnh phúc, còn toàn dân thì è cổ còng lưng mà phục vụ !
 – Tráo trở
a) Theo Nga bỏ Tàu : Hiến Pháp năm 1982, lời mở đầu ghi Trung Cộng là kẻ thù nguy hiểm lâu đời
b) Sau khi bị Tàu dạy bài học từ 1979 đến 1984, sau khi khối Liên Sô sụp đổ, để tiếp tục thống trị đất nước bộ ba Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh vội sang Tàu xin thần phục và dâng hiến tổ quốc, xin làm một tỉnh tự trị của Tàu (Hội nghị Thành Đô 1990), Hiến pháp 1991 bỏ lời mở đầu ghi Tàu là kẻ thù.
c) Chửi Mỹ rồi lạy Mỹ để được công nhận, để thoát cảnh cô lập ngoại giao, để gia nhập Mậu Dịch Quốc Tế, để xin Mỹ quy chế tối huệ quốc … Ngày xưa chửi Mỹ hơn người, Ngày nay nịnh Mỹ chẳng ai bằng mình.
d) Chửi thuyền nhân là đĩ điếm, tàn dư Mỹ nguỵ rồi lại nịnh là « khúc ruột ngàn dặm » để moi tiền.
Ngày đi, đảng gọi “Việt Gian”, Ngày về thì đảng chuyển sang “Việt Kiều”, Chưa đi: phản động
trăm chiều, Đi rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng.
– Bán nước «Hèn với giặc, ác với dân»
a) Năm 2000 lén lút đổi mốc ranh biên giới, nhượng Tàu trên 10,000 km2 lãnh thổ, hiến dâng Ải Nam Quan, Núi Lão Sơn, Thác Bản Giốc… và lãnh hải Biển Đông … mở đầu kỷ nguyên Bắc thuộc lần thứ ba.
b) Sau đó xây lăng mộ và đài kỷ niệm « liệt sĩ » Tàu  chết khi xâm lăng  địa đầu Bắc Việt, hủy bỏ các lễ truy điệu bộ đội chống Bắc xâm.
c) Mở đầu các màn dâng đất cho Tàu cộng bằng mỹ từ cho thuê, cho mướn dài hạn như ở Tây Nguyên (Bauxite), Rừng thượng nguồn (sông Hồng), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Quảng Trị, Cam Ranh, Bình Dương lấy tiền bỏ túi, … tại các nơi này tụi Tàu hoàn toàn làm chủ từ hành chánh cho đến kinh tế, tư pháp …  tha hồ hà hiếp dân, tổ chức quân đội…thâu thuế, kinh doanh. Nhà nước VC hoàn toàn mất chủ quyền để những cứ điểm này thành đất Tàu. Dân Tàu nhập cảnh không cần chiếu khán, vào ở vô hạn định bất cứ nơi đâu, xem toàn thể đất VN như là một tỉnh của Tàu.
d) Hải quân Tàu tung hoành Biển Đông, chiếm Hoàng Sa-Trường Sa để lập huyện Tam Sa, dân chúng yêu nước bất bình phản đối thì bị chính nhà nước VC đàn áp vì sợ bị quan thầy mắng mỏ.
e) Không dám kiện Tàu trước Toà Quốc Tế  LaHaye về vụ Biển Đông và Hoàng Sa-Trường Sa
f) Ngư dân và thuyền chài VN bị Tàu ức hiếp, bắn chìm giết người thì bỏ mặc và nói là bị tàu lạ tấn công rồi làm lơ, rất đúng với lời thán oán của dân chúng « Hèn với giặc, ác với dân »

2. Xâm lăng Cao Miên:
Trước 75 giúp Khờ Me Đỏ lật đổ Lon Nol, sau thì lại mang quân, nhất là lính miền Nam làm «nghiã vụ quốc tế», xâm lăng Căm Bốt, giúp Tàu cộng có cớ «dạy cho một bài học» vì phản phé, làm chết biết bao mầm non đất nước và bị cô lập về ngoại giao trong 15 năm trời.

3. Dân sinh
Ăn cướp của dân để thành XHCN (xuống hố cả nước)
Khi chiếm miền Nam dân số cả nước ước lượng 50 triệu người và nay có thể lên đến hơn 85 triệu.
– Ăn cướp của dân
a) Tịch thu các hãng xưởng, các công ty tư nhân, các cơ sở thương mại …….trong chiến dịch đánh   « tư sản mại bản » long trời lở đất do Đỗ Mười từ Bắc vào Nam chỉ huy.
b) Tịch thu, chiếm cứ tất cả các dinh thự, nhà cửa của những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa, của những người mà CS gọi là ”kẻ thù của nhân dân”, của những người trốn chạy chế độ độc tài CS, năm 1975 và những năm sau đó…
c) Bằng các chiến dịch đổi tiền (ngày 22.09.1975, ngày 02.05.1978, tháng chín 1985) chỉ báo trước 24 giờ, cũng như giới hạn số tiền được phép đổi,  CSVN đã cướp một cách trắng trợn tiền của  người dân Miền Nam, biến họ thành những người ”vô sản” theo đúng nghĩa của từ ngữ này.
d) Nắt dân chúng vào hợp tác xã để nhà nước làm chủ tất cả ruộng đất, cơ sở kinh doanh và truất quyền tư hữu của người dân.
e) Tổ chức bán bãi vượt biên để cướp nốt tài sản, vàng vòng còn dấu diếm được của người dân. Sau đó đẩy họ ra biển trên những con thuyền mong manh, sống chết mặc bay. Quả thực là vô nhân đạo ngoài sức tưởng tượng của con người. Hậu quả là trên 1/2 triệu người đã bỏ mình nơi biển cả, trên những con thuyền nhỏ nhoi để chạy trốn một chế độ bất lương.
f) Cướp các thiết bị tối tân của kỹ nghệ Miền Nam, các trang bị tối tân, đắt tiền của các nhà thương trên toàn Miền  Nam để mang về Bắc bằng hàng ngàn xe Molotova.
g) Cán bộ cướp đất : mượn cớ lợi ích công cộng, cán bộ tha hồ cướp đất của người dân, của các giáo hội trên toàn quốc, tạo nên hiện tượng dân oan khiếu kiện, bị nhà nước trấn áp dã man (Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng bán ruộng đất lấy tiền đảng tiêu).
– Hồng hơn chuyên
Lý lịch là bùa hộ mệnh của cán bộ đảng viên. Thất học, vô hạnh cũng quyền cao chức trọng, thét ra lửa mửa ra khói (Giỏi a đồng chí Đỗ Mười, Lớp ba chưa đỗ đã ngồi bí thư) tha hồ tung hoành, phạm pháp, tham nhũng. Con cháu và gia đình quân cán chính miền Nam thì bị gọi là “ngụy” và bị tước đoạt hết mọi công bằng, quyền lợi, không xin được việc làm, không được học tiếp.
• Các lớp chuyên tu, tu nghiệp tại chức chỉ là hình thức để tăng bề thế cho cán bộ, che dấu sự dốt nát và mặc cảm của lớp cầm quyền.
– Ðoàn ngũ hoá và kiểm soát bằng công an
a) Tổ chức công an phường, khóm để theo dõi, kềm kẹp bằng:
• Hội họp thường xuyên, kiểm thảo, loa phát thanh tuyên truyền…
• Theo dõi lẫn nhau, tố cáo lẫn nhau (hàng xóm tố nhau, trẻ thơ báo cáo về cha mẹ, vợ tố chồng …).
• Khai báo lý lịch ba đời:
• Dọa liên đới tới thân nhân đang ở tù học tập.
• Hạn chế di chuyển, đi đâu cũng phải xin phép, xin chứng nhận…trình báo công an (Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa, Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền, Xuất trình giấy phép liên miên, Chứng từ thị thực ở miền nào qua).– cai trị bằng bao tử-đe dọa
a) Bần cùng hoá dân miền Nam xong thì đặt hộ khẩu, tem phiếu theo chế độ bao cấp hòng tiêu diệt sức tự lực tự cường của người dân để dễ kiểm soát. Khi quá đói thì vì miếng ăn dễ bị sai bảo hơn. Lấy miếng ăn để dễ áp đảo mẹ goá con côi, con đàn hay người già, người bệnh.
b) Nên nhớ là lúc ấy dân miền Nam phải ăn cơm độn, phải nuốt bo bo, phải bán hết ngoài chợ trời của cải còn sót lại, phải thăm nuôi chồng, con “cải tạo” nơi rừng thiêng nước độc…Ở với Hồ Chí Minh, Cây đinh phải đăng ký, Trái bí cũng sắp hàng, Khoai lang cần tem phiếu, Thuốc điếu phải mua bông, Lấy chồng nên cai đẻ, Bán lẻ chạy công an, Lang thang đi cải tạo, Hết gạo ăn bo bo, Học trò không có tập, Độc Lập với Tự Do, Nằm co mà Hạnh Phúc !
c) Bắt đi vùng kinh tế mới, bắt làm thuỷ lợi không công …bắt làm “nghiã vụ quốc tế”.
d) Ai may mắn có thân nhân ở ngoại quốc gửi quà tiếp tế thì dễ thở hơn một chút, nhưng phải biết đút lót mới mong được yên thân.– đạo đức
Đạo đức đỉnh cao trí tuệ của VC trong 40 năm cai trị đất nước vô cùng băng hoại khi:
a) Xuất cảng lao nô sang khối Đông Âu và Liên Sô để trả nợ !
b) Bán phụ nữ làm vợ người ngoại quốc như Tàu, Đại Hàn, Mã Lai, làm nô lệ tình dục …
c) Tổ chức những đường giây lén lút sang Canada, sang Anh, Đông Âu, Hoa Kỳ trồng cần sa …
d) Cán bộ và con cháu xuất ngoại thì buôn lậu, ăn cắp đến nỗi các cửa hàng tại Nhật hay Nam Hàn phải dán thông cáo cấm người Việt, nhục nhã chưa từng thấy.
e) Chưa bao giờ trong nước nhiều dịch vụ … “ôm” như dưới sự cai trị của VC.
f) Chưa bao giờ trong nước nhiều hiện tượng vô cảm như dưới sự cai trị của VC.
g) Chưa bao giờ trong nước nhiều tội ác như dưới sự cai trị của VC.
h) Chưa bao giờ có thương nhân hỗn hào chửi bới khách hàng như người miền Bắc hiện nay.
i) Chưa bao giờ có thương nhân gian lận tráo hàng,  bóc lột khách hàng ngoại quốc (hay người việt hải ngoại) như bây giờ.
j) Chưa bao giờ người cầm sổ thông hành VN xuất ngoại bị khinh thường như bây giờ.

4. Kinh tế
Đó là nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã» quái đản. Trên lãnh vực kinh tế, Việt Nam vẫn ì ạch đuổi theo các nước ở vùng Đông Nam Á. Một bài báo ở VN đã viết: VN chưa chế tạo nổi 1 cái đinh làm ta thấy đau đớn, thấm thía thương quê nhà.a) Quốc doanh: tất cả các cơ quan kể cả quân đội, công an đều được nâng đỡ làm kinh doanh với tiền vay ngân hàng và làm việc giỏi đến độ 99 % lỗ nặng mà nhà nước vẫn phải bao che. Tới nay đã có trên 500 000 công ty quốc doanh.
b) Các cơ sở tài chính đều do con cái, thân nhân của các ”ông lớn ” trong đảng CS nắm giữ, thí dụ như nhà băng Vietnamcomk Bank do Lê Kiến Thành, con của Lê Duẩn làm chủ nhân ông, con gái Nguyễn Tấn Dũng là Thanh Phượng thì mở Ngân Hàng tư Bản Việt, lớn hơn, kiêm nhiệm luôn rất nhiều Quỹ tài chánh và tập đoàn kinh doanh quan trọng bậc nhất…
c) Tham nhũng-biển thủ-lường gạt là những độc chiêu xuất quỷ nhập thần làm thất thoát cả tỷ mỹ kim vào túi giới chóp bu, vd như vụ Vinashin, vụ Vinalines đều bị dìm chìm xuồng sau khi giết người diệt khẩu (vd tướng công an Phạm Qúy Ngọ) …”Nhà ai giàu bằng nhà cán bộ? Hộ nào sang bằng hộ đảng viên? Dân tình thất đảo bát điên, Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi”.
d) Các công ty ngoại quốc muốn đầu tư thì phải có thủ tục đầu tiên là 20 % hoa hồng cho cán bộ trên tổng giá công trình, và biết bao nhân viên, giám đốc các công ty tây phương, nhật, đại hàn đã bị chính phủ họ truy tố khi bị lộ.
e) Nhờ nhân công rẻ mạt mà khéo léo nên thu hút được nhiều công ty lớn ngoại quốc như Samsung, Nike, Microsoft, Toshiba…
f) Tới nay lợi tức đầu người của VN là dưới 1000 dollars, ngang ngửa với Cao Mên, Lào, thua cả nhiều nước châu Phi.
g) VN nhập cảng nhiều hơn xuất cảng, cán cân thương mại luôn luôn bị thâm thủng hàng chục tỷ dollars.
h) Hàng nhập cảng phần lớn đến từ Tầu Cộng qua ngả biên giới bị bỏ ngỏ, đang đánh gục các sản phẩm nội địa do người dân VN sản xuất. Không kể hàng độc hại và những đòn gian thương làm kiệt quệ tài nguyên trong nước.
Với các đặc khu Trung Hoa mọc lên như nấm trên khắp nước, với một nền kinh tế đang bị Hoa hóa, VN đang trở thành một phần của TC. Người CS Tàu đang bất chiến tự nhiên thành. Mọi biểu lộ lòng yêu nước, chống đối sự xâm lấn của TC đều bị VC đàn áp triệt để.
i) Trong một cuộc gặp gỡ giữa Ban lãnh đạo của Tp HCM và các doanh nhân vào ngày 3-3-2015, các doanh nhân đã thẳng thắn nêu ra các khó khăn của họ trong các hoạt động, họ đã than phiền là các thủ tục hành chánh ”không thông thoáng, bất cập” đã cản trở các hoạt động của họ.
j) Theo các tài liệu trên mạng trích từ những báo cáo khả tín thì số chóp bu VC giàu bạc tỷ đô Mỹ trên 10 người, giàu hằng trăm triệu đô mỹ  đến 300 người, còn hàng triệu mỹ kim thì đếm không hết. Với lương bổng nhà nước thì làm sao họ giàu đến thế được ?

5. Giáo dục:
Lại là truyện dài bất lương vì không như thời Việt Nam Cộng Hòa, Giáo Dục không được dựa trên 3 nguyên lý: nhân bản, dân tộc và khai phóng nên giáo dục CS chỉ nhằm đào tạo ra những con người ”trung với Đảng”. Việc giáo dục của CS không có một mảy may mục đích đào tạo ra những con người có khả năng để góp phần vào việc phát triển đất nước mà chỉ nhằm mục tiêu chánh trị để phục vụ cho chế độ.  CSVN đã rêu rao: Giáo Dục là quốc sách, nhưng căn bản của nền giáo dục của CS vẫn là theo đường lối của Đảng: ”bát nháo, hỗn loạn, lạc hậu, gian dối ”.
a) bằng dỏm-bằng giảCHXHCNVN là nước có nhiều bằng tiến sĩ và hàm GSTS nhiều nhất thế giới. Ban thường vụ Bộ Chánh Trị có 16 người, tất cả đều có bằng Tiến Sĩ, trừ Bà Tòng Thị Phóng, người thiểu số, chỉ có Cao Học. Ông Nguyễn Trọng Nhân, bộ trưởng giáo dục, khoe có bằng Tiến sĩ của một Đại Học Đức nhưng khi người ta tò mò tra cứu thì thấy năm ông Nhân khai đậu TS lại là năm ĐH này mới mở. Nguyễn Thiện Nhân là người tuyên bố rất hách dịch: các người Việt Hải Ngoại đều đáng tội chết.
Theo thống kê của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo của CSVN, niên khóa 2011-2012, VN có một đội ngũ nhân viên giảng huấn là  84 149 người trong đó có 9152 người ( 11 % ) có học vị Tiến Sĩ. Trong một Hội Nghị về Giáo Dục năm 2013, Bà Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ Tịch Nước đã trăn trở: số học sinh ra trường càng ngày càng đông, số Thạc Sĩ, Tiến Sĩ càng ngày càng nhiều, nhưng tại sao đất nước chậm đổi mới và có vẻ tụt hậu xa so với các nước khác ở trong khu vực.Với đội ngũ Tiến Sĩ, Thạc Sĩ đông đảo như vậy nhưng không một ĐH Việt Nam nào có tên trong danh sách 200 ĐH dẫn đầu trên thế giới.Tính trên số bằng sáng chế VN là nước cầm đèn đỏ trong khu vực, thua cả Brunei là nước nhỏ chỉ có 1/2 triệu dân. Tổng số các bài nghiên cứu khoa học của VN đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế không bằng một trường đại học ở Thái Lan.
b) chương trình học thay đổi như chong chóng.
c) Sách giáo khoa quá tệ và hán hoá, lịch sử bị bẻ cong, gian dối, công trạng tiền nhân dựng nước, giữ nước chống bắc xâm bị gạt bỏ … gương liệt sĩ, anh hùng cách mạng hoàn toàn bịa đặt.
d)  Xin được cho con em vào học là cả một mối ưu tư, một ác mộng cho các bậc cha mẹ. Nào là phải hối lộ, phải tốn tiền – rất là nhiều tiền – không kể tiền học tại các lớp luyện thi, lớp dậy kèm.
e) Du sinh: VNCS đã cho phép một số sinh viên có điều kiện đi du học tại Mỹ, Anh, Pháp, Gia Nã Đại… Điều kiện nói ở đây là phải có tiền. Điều kiện này chỉ có con cháu các cán bộ đảng viên mới hội đủ. Còn người dân thường thì ”con sãi ở chùa lại quét lá đa ”.
f) kỷ cương theo đạo đức cộng sản nghiã là tha hồ chạy tiền mua bằng thật, nhờ thi hộ, đút lót giám khảo, mua bằng giả, bằng ma…

6. Y tế:
Về phương diện Y Tế, CS đã cho xây thêm một số nhà thương mới với ý định giải quyết tình trạng quá đông bệnh nhân mà họ gọi là ”quá tải ”. Trước 1975, Sàigòn chỉ có 1 nhà thương Nhi Đồng cộng với các Khu Nhi Khoa tại các Bệnh viện Đa khoa ở khắp mọi nơi trên toàn cõi Miền Nam Cộng Hòa. Hiện nay Sàigòn có 2 Nhà Thương Nhi Đồng 1 và 2. Mỗi nhà thương có chỉ số là hơn 1000 giường. Một nhà thương Nhi Đồng 3 đang được xây cất, cũng đồ sộ với hơn 1000 giường. Tuy vậy vẫn không đủ chỗ cho bệnh nhân. Hai, ba em bệnh nhân nằm một giường là điều thông thường ở VN. Với sự trợ giúp của Pháp, bệnh viện Tim được thành lập ở Hà Nội và Sài gòn, ngoài ra ở Sàigòn còn có 1 Viện Tim Tâm Đức là một nhà thương tư nhưng vẫn không đủ khả năng trước những nhu cầu của số bệnh nhân rất đông đảo.
a) Y đức: tiền
Nhập viện để được chữa trị tại các nhà thương thuộc Bộ Y Tế hay thuộc trường Y Khoa là cả một vấn đề, một nỗi sợ hãi. Gọi là bệnh viện của Bộ Y Tế, của Trường YK nhưng bệnh nhân vẫn phải trả tiền, đủ thứ tiền: tiền phòng, tiền thuốc, tiền trả cho các cuộc giải phẫu. Ngoài ra lại phải hối lộ từ y công cho đến điều dưỡng. Phong bì đưa Bác sĩ là điều thường  xuyên để hy vọng được BS săn sóc. Y đức của giới thầy thuốc đã xuống rất thấp như chưa từng bao giờ thấy. Nhiều người bệnh bị chết oan.
Mới gần đây đã xẩy ra 1 vụ làm chấn động dư luận của cả nước. Đó là chuyện thủ tiêu để phi tang xác của 1 bệnh nhân chết tại 1 phòng Giải Phẫu Thẩm Mỹ Cát Tường ở Hà Nội.
b) Giai cấp
Các giới chức được ưu tiên chăm sóc tuỳ theo chức vụ, phẩm hàm trong đảng, người thì nằm bệnh viện cao sang, kẻ được đưa ra ngoại quốc chăm sóc rồi du hý. Như trường hợp Anh Sáu Búa Lê Đức Thọ được chữa trị ở Nhà thương Val De Grâce, một nhà thương nổi tiếng của Pháp; Trần Văn Trà được đưa sang Tân Gia Ba. Nguyễn Cơ Thạch được mổ tim ở Pháp…
c) Y thuật
– Năm 1975, ngay sau khi chiếm được Miền Nam, CSVN đã tịch thu tất cả các cơ sở Y Tế của Miền Nam. Họ đưa các BS thuộc loại ”top” của Miền Bắc vào tiếp thu Trường Y Khoa Đại Học, các cơ sở Y Tế của VNCH. Các BS Miền Nam đã nhận ra ngay sự yếu kém của các đồng nghiệp Miền Bắc. Thí dụ về Bệnh Lý Nội Thương, cuốn sách Pathologie Médicale của Pasteur Valérie Radot xuất bản năm 1954 ở Paris – được dịch ra tiếng Việt bởi BS Đặng Văn Chung. – Là cuốn sách gối đầu giường của Y Giới Miền Bắc mãi cho tới năm 1975. BS Tôn Thất Tùng, ông vua không ngai của Y Giới Miền Bắc, khi vào thăm Bệnh Viện Bình Dân ở Sàigòn đã thú thực khả năng của các BS ở BV Bình Dân hơn hẳn các BS của Miền Bắc (theo lời kể của BS Việt Nguyên Nguyễn Đức Tuệ, nguyên BS của BV Bình Dân, là người đã ở lại VN cho tới năm 1979 . BS Tuệ hiện ở Texas, Hoa Kỳ ).
– Nhân tài y tế VC xuất thân dựa theo kinh nghiệm và công lao với đảng, từ từ thăng chức từ y công, lên y tá, y sĩ rồi sau một khoá chuyên tu ngắn trở thành bác sĩ để chữa cho bệnh nhân miền Nam.
– Năm 1978-1979, để cứu vãn nền Y Tế tại Miền Nam đang xuống dốc , Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng đã kêu gọi một số BS ”Nguỵ” cứu nguy như các Bs Nguyễn Chấn Hùng, Võ Thành Phụng, Trần Thành Trai, Trần Đông A, Bùi Văn Đức, Phùng Văn Đức …….
– Ngoài ra rất nhiều BS ở Miền Nam được Pháp bảo trợ, đã được CS cho qua Pháp tu nghiệp. Gần như tất cả đã hồi hương, làm cột trụ cho Y Tế của Miền Nam.
– Hiện nay ở VN, hệ thống Y Tế Công Tư hỗn hợp đang được nhà nước cổ võ. Tại Saigon, các BV tư như BV Hoàn Mỹ, Hopital Franco-Vietnamien … được mở cửa hoạt động để phục vụ những người có khả năng tài chính. Kể từ giữa thập niên 80, các BS được phép mở phòng mạch tư, cũng như làm việc tại các dưỡng đường tư nhưng chỉ có tại Sàigòn, Hà Nội mới có sự cởi mở này. Tại Hà Nội, BS Nguyễn Thanh Liêm, nguyên Y Sĩ Giải Phẫu Trưởng của Bệnh Viện Nhi Trung Ương, đã ra làm tại bệnh Viện tư Vimec. Đây là 1 Bệnh Viện tư với độ 500 giường. BV này hoàn toàn có vốn đầu tư từ 1 công ty ngoại quốc.
Bộ Trưởng  Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã bị chỉ trích về cách điều hành nền Y Tế của cả nước VN. Bà cũng là người bị đổ trách nhiệm trong các tai nạn chết người ở các bệnh viện trong đó người ta nói tới hơn 100 trẻ em chết vì bệnh sởi trong năm 2014.
Nói tóm lại, Y Tế VN vẫn luộm thuộm, nặng nề và kém hiệu quả. Nhà nước không đề ra được một chánh sách về Y Tế, tránh cho dân chúng cơn ác mộng khi bị đau ốm.

7. Truyền thông – Văn hoá:
Đâu ai lạ gì tuyên truyền bịp bợm của CS vì “nói dối như vẹm”. Nhưng đảng và nhà nước vẫn trơ trẻn bất lương ngoan cố lừa gạt người dân và thế giới.
a) Báo chí đều do đảng và nhà nước chỉ đạo, bưng bít tin tức, loan báo tin thất thiệt hay bẻ cong.
b) Đài truyền thanh truyền hình cũng chỉ là công cụ tuyên truyền hay ru ngủ dân chúng
c) Thơ, sách, truyện, biên khảo… phải qua hội nhà văn kiểm duyệt, phải có những câu tâng bốc chế độ thì mới may ra được in và được cho đem bán, ai sai đường lối thì mất chức hay bị sa thải ngay, hoặc bị tù tội.
d) Nhạc, phim ảnh cũng phải đi đúng đường lối của nhà nước.
e) nhờ máy vi tính và mạng internet mà “bức màn sắt” không hoàn toàn hiệu quả như ngày xưa
f) Và quan trọng nhất là khi chiếm được miền Nam, vì sợ nhân dân và cán bộ choáng ngợp như Dương Thu Hương, mở mắt quá sớm thì đảng và chế độ sụp đổ ngay nên phải vội vàng phát động phong trào “đốt sách”, cấm nhạc vàng … giam cầm nhà văn miền Nam.
g) Và bây giờ tung rất nhiều cán bộ văn hoá ra ngoại quốc thi hành nghị quyết 36.

8. Tôn giáo:
Các tôn giáo cũng không thoát sự kềm kẹp của VC, mặc dù tự do tôn giáo được công nhận trong hiến pháp. VC cố tình phân hoá, bắt giam tu sĩ không tuân theo họ và dựng lên những thành phần “quốc doanh” để đánh lận con đen và lừa gạt dư luận thế giới. Họ tung ra hải ngoại những tu sĩ giả này, thường là công an được đào tạo, ban ngày làm tu sĩ, ban đêm hiện nguyên hình… tìm cách quyên tiền từ thiện, tuyên truyền giảm tiềm lực chống cộng của tín đồ và quan trọng nhất là làm tai mắt thâu lượm tin tức tình báo, tình hình…Họ cũng khá thành công, bằng chứng là một tu sĩ đạo bụt bị mắc hỡm, mất cả uy tín lẫn tiền bạc mà há miệng mắc quai không dám than thở tố cáo…

9. Tư pháp:
Hiến pháp còn không được thi hành huống chi là công lý. Tư pháp chỉ là cánh tay nối dài, là công cụ của đảng.
a) Toàn quyền bắt giam
Muốn bắt ai thì bắt, muốn giam không xét xử bao lâu cũng được, muốn kết tội thì tha hồ ngụy tạo chứng cớ, muốn tra khảo ép tội tù nhân đến chết cũng toàn quyền.
b) Món hàng trao đổi
Khi bị áp lực quốc tế thì đem sự thả tù nhân chính trị để trao đổi kiếm lợi, để ra vẻ cởi mở, nhượng bộ … vd các vụ bắt-thả-bắt lại các người chống đối như bs Nguyễn Đan Quế, l.m. Nguyễn Văn Lý.
c) bản án định sẵn
trước khi tòa xử thì đảng đã chỉ thị trước bản án, thẩm phán, bồi thẩm giả hiệu chỉ việc thi hành,
công an bịt miệng bị cáo, cấm báo chí tham dự hay tường thuật.
d) công lý  thui chột
– ai chạy tiền đút lót giỏi thì án nhẹ, do đó trong nước có thành ngữ “chạy án”
– thẩm phán, công an toàn quyền đổi trắng thay đen, tha phạt theo tiền hối lộ
– viên chức cao cấp dù phạm tội tày trời, chứng cớ đầy đủ thì được đảng bao che, chỉ bị “kỷ luật hành chánh” một thời gian ngắn rồi lại tựu chức tiếp tục phạm tội như trước, có khi còn được thăng chức vào chính trị bộ
e) đồng loã với xã hội đen
Nếu cần thì sai côn đồ, du đãng của xã hội đen dằn mặt hay tiêu diệt phi tang.
Trong giới hạn của TSYS, bài này chỉ kể rất sơ lược thành quả 40 năm cai trị của đảng cộng sản trên đất nước thân yêu. Họ tôn thờ và áp dụng một chủ thuyết ngoại lai, áp bức và lường gạt dân chúng (Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ, Mũ tai bèo che khuất nẻo tương lai), chà đạp nhân quyền (Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý, Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do) đưa đất nước đến diệt vong.

Để bám víu quyền lực, CSVN đã lén lút dâng tổ quốc cho Tàu cộng để trong 5 năm nữa sẽ thành một tỉnh của Tàu (Hiệp ước Thành Đô 1990, Wikileaks). Muốn không bị Bắc thuộc lần 3 chỉ còn một cách lật đổ chế độ để tự quyết vận mạng quốc gia.
Xin mượn 2 câu thơ của thi sĩ Ngô Minh Hằng thay lời kết:
Đứng lên, toàn quốc, Việt Nam  !
Diệt Việt cộng, dẹp mưu toan của Tàu …

BS. Nguyễn Lương Tuyền & BS. Thân Trọng  An.

Bôi Bác Lịch Sử


Mới sưu tầm được 2 tấm hình về lễ k niệm khởi nghĩa của Hai Bà Trưng rất hay và rất ý nghĩa. Hình thứ nhất chụp ở Sài Gòn, có lẽ vào thập biên 1960 hay 1970 (đã được tô màu). Hình thứ hai cũng chụp ở Sài Gòn mới đây trong cuộc tập dược diễu hành ngày 30/4. Các bạn thử nhìn và so sánh …

Nửa thế k trước ở miền Nam người ta tổ chức buổi lễ k niệm có vẻ đơn giản, nhưng nhìn qua thì thấy ngay cái tính trang trọng. Khen người thiết kế chọn màu sắc rất tốt, không phường tuồng, mà phản ảnh được vương quyền thời xưa. Quan trọng nhất là người ta dùng voi thật để diễu hành.


Năm mươi năm sau con cháu Hai Bà dùng voi dỏm để diễu hành ! Thật không có gì hài hước và bôi bác hơn khi nhìn thấy 4 cái bánh xe giống như xe "trolley" trong siêu thị thực phẩm. Cũng có thể đây là cái xe rác. Đã giả mà còn giả một cách thô kệch, và sự thô kệch đó cứ như là thách thức dư luận. Còn con voi dỏm thì được khoác lên cái tấm vải đỏ chói, trông cứ như là lên đồng. Nhìn toàn cảnh là một sự nhuộm màu đỏ. Tôi không nghĩ thời xưa, màu đỏ "đồng bóng" là màu chủ đạo hay màu của vương quyền. Nhìn k hơn (hình 3) thì thấy đó chẳng phải là con voi mà là con quái vật nào đó. 


Nên nhớ rằng voi là một linh vật (theo truyền thống Lào và Thái Lan), chứ không phải con vật bình thường. Nhưng đến đời con cháu thời XHCN thì cái gì cũng giả. Đến một vật mang tính lịch sử của Hai Bà cũng giả ! Chỉ cần so sánh hai bức hình này thì chúng ta cũng có vài dữ liệu cho thấy tình trạng văn hoá đang xuống cấp như thế nào. Nhưng quan trọng hơn hết, bức hình cho thấy đó là một sự bôi bác lịch sử.

GS Nguyễn Văn Tuấn.

Xưng Hô Với Tu sĩ


Văn hóa truyền thống dạy cho người Việt chúng ta kính trọng các bậc tu hành, vì những vị tu hành là những người đã dứt khoát trần tục, từ bỏ giàu sang danh vọng phú quý để tìm con đường tu thân, và từ đó, dẫn dắt người đời đến một cuộc sống thánh thiện, chân thiện mỹ…
Sở dĩ chúng ta trọng những người tu hành vì những vị nầy đã trở thành những kẻ hơn người. Họ đã từ bỏ được ba cái tầm thường ‘Tham Sân Si’ của giới phàm tục. Như vậy, những ai một khi quyết định xa gia đình, dứt bỏ phú quý danh vọng để tự nguyện trở thành kẻ phục vụ chúng sinh, lấy đức bác ái, tinh thần từ bi hỷ xả làm lý tưởng để lo cho đời sống tâm linh con người, đồng thời chấp nhận làm kẻ thấp hèn trong xã hội cũng như quên mình để hiến dâng cho lý tưởng, thì đều được xã hội quý trọng.Người Việt chúng ta rất sùng đạo, đó là vấn đề rất tốt .
 Nhưng hành động trọng cha, kính thầy một cách quá đáng, có thể nói rằng đi đến lố bịch của một số con chiên, Phật tử đã làm hư các thầy các cha, đồng thời biến các vị tu hành thành Phật, thành Chúa, là thần thánh oai nghiêm và quyền uy vô lượng! chứ không còn là những kẻ tu hành hèn mọn, mà những vị nầy đã tâm nguyện dâng hiến cuộc sống để trọn đời phục vụ Phật tử, tín đồ cũng như con chiên ! 
Những hình ảnh chấp tay cúi đầu: "con lạy thầy, con lạy cha" làm cho các nhà tu hành quên hẳn vai trò một nhà sư, một cha xứ đạo...! để rồi những vị nầy tự ban cho mình cái quyền linh thiêng, đại diện Phật,Chúa ban phát ân huệ cho chúng sanh, con chiên và bắt người phàm tục phục dịch cho mình.
 Hình ảnh và thái độ của thầy cha ngày nay thường bị hư hỏng và đôi lúc trịch trượng bởi hai  lý do.
 Trước hết là số người người sùng đạo có thái độ tôn trọng cha thầy một cách quá đáng: việc gì của thầy của cha làm đều tốt đều đẹp, lời thầy lời cha nói gì nghe cũng hay cũng phải.
  Thứ đến là một số tín đồ, giáo hữu cò mồi dựa vào tôn giáo để làm chính trị cũng như kinh doanh, họ bám sát vào thầy vào cha, nhà chùa, nhà thờ, đánh trống thổi kèn, chấp tay lạy sống thầy, cha khúm núm trình thưa như đang đứng trước mặt quan quyền vua chúa ngày xưa.
Hành động nầy chẳng những đưa "cái tôi" của thầy cha lên tận mây xanh, do đó, những cái tầm thường xấu xa trong lòng các vị tu hành đã không diệt được mà còn được bơm lên thì Tham Sân Si trong lòng các vị tu hành càng ngày càng lớn hơn những người phàm tục nữa ! Như vậy tu hành đã không đạt được kết quả…mà một khi cái Tham Sân Si trong các vị tu hành thường xuyên bị dồn nén thì sẽ bộc phát dữ dội.
Nên nhớ rằng, các nhà tu hành một khi đã đi lạc đường, thì cái Tham Sân Si sẽ quậy tới bến còn hơn những người phàm tục !!!   
 Cá nhân tôi là người trong cuộc và đã chứng kiến tận mắt hai trường hợp, từ đó lòng tôi mất đi rất nhiều kính trọng đối với một số vị tu hành:
 1.    Trong một cuộc biểu tình, tôi được giới thiệu với một vị linh mục còn trẻ hơn tôi. Sau câu chào hỏi thân mật xong thì vị linh mục quay mặt đi nơi khác, hình như có thái độ không muốn nói chuyện với tôi nữa vì tôi đã thẳng thắng kêu bằng cha và xưng tôi. Có lẽ chữ tôi trong cách xưng hô không thích hợp giữa một giáo dân với một vị linh mục nơi đông người đã làm giảm giá trị một vị tu hành nên vị nầy đã quay mặt đi giã vờ nói chuyện với những người chung quanh.
 Nếu tôi trịnh trọng gọi bằng cha thì phải xưng con như những người khác thì câu chuyện sẽ được tiếp tục trong tình thân mật ! Tôi có thể gọi cha và xưng con trong nhà thờ, lúc xem lễ hay vào tòa xưng tội theo con người Kytô hữu của tôi. Nhưng ngoài đời, trong một buổi biểu tình chính trị, thì giữa hai người tu hành và giáo dân cũng đều là những người dân tỵ nạn Việt Nam. Tôi nghĩ rằng một người già trên 70 xưng con với một vị linh mục còn trẻ giữa nơi công cộng thì cũng khó nghe ! Như vậy trong bộ áo màu đen quý trọng đang mặc trên linh mục nầy, cái sân si vẫn còn quá nặng mùi trần tục trong một vị tu hành.
2.  Dịp cúng thất cho một người trong gia đình, nhằm buổi cơm chay, tôi có dịp phải đi ngang qua phòng ăn - nối liền từ chân cầu thang đến chánh điện – trong lúc các vị sư đang dùng bữa. Chuyện đập vào mắt tôi, vị trụ trì ngồi đầu bàn, sau khi ăn hết chén cơm vị nầy ngồi yên, không quay lại, đưa cái chén ra phía sau…thì một Phật tử chấp tay vái lạy ba cái, cúi mình xuống và đưa hai tay lên khỏi đầu đở lấy cái chén, lấy cơm xong lại cung kính dâng lên vị trụ trì như lúc đầu…trong lúc tô cơm đang nằm ngay trước mặt và trong tầm tay của vị trụ trì ! Phía bên kia, một Phật tử cầm quạt đang phe phẩy để cho thầy dùng cơm mặc dù Paris lúc đó đang mát trời ! Tôi thấy vị trụ trì nầy đã quên hẳn mình là kẻ tu hành mà có thái độ trịch trượng như một vị vua chúa ngày trước.
Trở về với đề tài, nhiều người hỏi tôi thời đại nầy làm nghề gì sướng nhất, tôi có thể trả lời tức khắc không cần đắn đo suy nghĩ rằng: "Nghề Đi Tu" ! Một nghề không đòi hỏi vốn kiến thức, không cần đầu tư tài chánh mà chỉ cần thuộc vài bài kinh – như loại tu hành quốc doanh - là có thể hành nghề một cách dễ dàng. 
Khi hành đạo, không cần làm việc, nhưng tài sản đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc do con chiên thiện nam tín nữ cung hiến cũng quá dư thừa cho phép những vị nầy ăn uống no say, vợ con đầy đủ và nếu muốn thì tình nhân cũng sẵn sàng có  ngay !
Nhà cửa được giảm hoặc miễn thuế, ăn khỏi tốn tiền, có người hầu hạ, có kẻ làm bếp dâng lên tận miệng. Có vị còn biến từ nhà ở cho đến nơi thờ phương thành cơ sở kinh doanh với giá bán cắt cổ từ cuốn sách cho đến gói thực phẩm. Tất cả hoạt động kinh tế đều theo hình thức chui và chỉ thu tiền mặt.
 Các lễ lộc phục vụ tôn giáo không có tình trạng miễn phí hoặc giảm giá cho nhà nghèo mà phải tuân theo theo từng bậc giá cả khác nhau. Cước phí xin lễ, cầu nguyện đối với các vị tu hành người nước ngoài hoàn toàn do tín hữu tự nguyệnkhông bắt buộc theo một hình thức khuôn mẫu nào.
 Tôi chứng kiến một cha người Pháp đã từ chối số tiền lớn do một tín hữu người Việt Nam đến nhà thờ Tây xin lễ bình an cho gia đình. Chẳng những thế, nhà thờ còn làm hóa đơn chính thức để ghi vào sổ của nhà thờ.
 Nhưng trái lại, trong một dịp gặp một cha người Việt Nam để xin lễ, vị linh mục nầy cho giá đàng hoàng và tỏ vẽ không hài lòng khi tôi đề cập đến giá cả của nhà thờ ! 
 Từ chỗ nầy người ta xem các vị tu hành từ trong nước ra đến hải ngoại hành nghề tôn giáo với giá cả cắt cổ tín hữu và Phật tử một cách vô tội vạ.
Riêng việc tang chế, giá cả được ấn định bao nhiêu tiền cho cha thầy đến tư gia, đến nhà xác để tụng niệm. Bao nhiêu tiền để tổ chức theo hình thức lớn, trung bình, nhỏ đối với một lễ tiễn đưa người quá cố, bao nhiêu tiền để mang cốt tro về chùa, nhà thờ… và bao nhiêu tiền theo đẳng cấp giàu sang hay bình dân để thuê một cái hộc để đựng hủ cốt người chết !
Tiền nhiều thì nhà chùa nhà thờ tổ chức lớn, với nhiều cha nhiều thầy làm lễ. Nhiều tiền thì tổ chức lễ riêng rẽ một cách trang trọng vào cuối tuần.
Ít tiền thì tổ chức cầu siêu tập thể và vào những ngày giờ làm việc.
Chính các thầy các cha đòi hỏi giá cả để tổ chức những buổi lễ đình đám cho hôn nhân, cầu siêu, án táng, đưa hài cốt về chùa, về nhà thờ.
Những tiền lệ nầy đã tập cho tín đố Phật tử những tính xấu, xem thường việc linh thiêng tôn giáo đồng thời tạo cho những gia đình nghèo, thiếu phương tiện bị mặc cảm và đau lòng mỗi khi có người thân vừa nằm xuống.
Chắc tất cả mọi người đều công nhận rằng nghề đi tu chẳng những là một nghề ấm thân cho kẻ tu hành mà còn giúp họ trở thành triệu phú một sớm một chiều. Chẳng mất một giọt mồ hôi, suốt đời không đóng thuế, nhà cửa được giảm tiền điện nước lại còn hưởng trợ cấp đặc biệt của xã hội.
 Cuộc đời tu hành thật đáng giá ngàn vàng, chỉ một sáng một chiều trở thành triệu phú, trở nên kẻ ăn trên ngồi trước và được trọng vọng nhất trong thiên hạ : Nhà cao cửa rộng, đi Mercedes, BMW… có tài xế, ngày ăn no, đêm ngủ với vợ, ngày thì đệ tử tự nguyện (!) thời gian rổi rảnh thì đếm bạc giấy rồi đem cất vào tủ sắt…Như vậy nghề tu hành thời nay của người Việt quả thật là tuyệt hảo và độc nhất vô nhị của thế giới tính, từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đến nay.
 Nhà thờ nhà chùa đã biến thành cái chợ và hơn nữa các nơi nầy còn cạnh tranh tổ chức văn nghệ mừng Xuân, ca hát ăn uống…thì chắc Chúa và Phật cũng phải quay mặt trước tình trạng tu hành thời nay.
Bây giờ giới trẻ ai cũng muốn đi tu, một nghề ngồi mát ăn bát vàng mà được thiên hạ đội lên đầu, chắp tay vái lạy thì còn gì quý hơn khi phải phí cuộc đời gần hai chục năm trong các nhà trường để rồi vác bằng chạy đôn chạy đáo kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp.
 Cái thiên đường ‘đỉnh cao trí tuệ’ và ‘cái nôi nhân loại’ của chế độ cộng sản đã đẻ ra nhiều nghề quái gở : Từ nghề ăn xin, mai mối, bịp bợm, nô lệ…đã nổi tiếng trên thế giới và bây giờ còn thêm nghề đi tu thật độc đáo vô cùng ‘hoành tráng’ không có một quốc gia nào bắt kịp… Chính cộng sản đã dàn dựng lên hình thức tu hành trưởng giả nầy từ ngay từ trong nước để chứng tỏ với thế giới rằng Việt Nam hòa toàn có tự do tôn giáo.
Thật vậy, cần phải ghi nhận, trong nước đi đến đâu cũng gặp đầy dẫy nhà thờ, nhà chùa…là những khu vực nguy nga to lớn bên cạnh những ngôi nhà của con chiên, Phật tử vẫn còn nghèo nàn đói rách.
Các thầy các cha thì đua nhau xin tiền để sửa sang cơ sở tôn giáo của mình càng lớn càng đẹp để tranh với  chùa, nhà thờ bên cạnh !!!
 Đi đâu các vị tu hành cũng hân hạnh khoe rằng, ông nầy bà nọ là Phật tử hoặc con chiên nằm trong khuôn hội hay họ đạo dưới quyền ! Các vị tu hành đâu có hay rằng dưới mắt Chúa và Phật những ông bà nầy là những tay ăn hối lộ, cướp của, giật vợ cướp chồng người ta, buôn bán cần sa, rửa tiền dơ mà các vị tu hành cứ đội lên đầu những người núp bóng tôn giáo cho mưu đồ chính trị, xem họ như một vinh hạnh của nhà chùa, nhà thờ.
 Các vị tu hành cứ giành nhau ôm chân các ông bà nầy và ca tụng hết mình…thì thật tội nghiệp cho Chúa và Phật quá ! Việc tu hành không màng nghĩ đến, kinh kệ hằng ngày không quan tâm mà thầy cha chỉ chú trọng đến các hình thức phô trương bên ngoài. Đó là cái nghiệp tham sân si đang lấn át các đức tính bình dị, liêm khiết, vị tha, bác ái trong con người các vị tu hành hiện nay.
Tình trạng thầy cha mượn Phật-Chúa để phục vụ cho cái tham sân si vô đáy cá nhân đang thịnh hành đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại !.
Cộng sản đố kỵ tôn giáo nhưng chúng lại xây dựng một số giáo hội gọi là quốc doanh nhằm thu nạp những vị tu hành mà tâm vẫn còn nặng nợ trần gian đồng thời cộng sản còn ‘sản xuất’ ra một số sư đỏ, cha đỏ để phân hóa các giáo hội chính thống, đồng thời chia đôi khối giáo dân cũng như Phật tử làm nhiều phe phái nhằm phá hoại tôn giáo.
Âm mưu của cộng sản là chúng tạo ra một lớp tu hành gồm thầy, cha quốc doanh với tất cả những cái xấu xa hơn những người trần tục, không ngoài mục đích để cho giáo dân, Phật tử nhìn thấy tư cách các vị lãnh đạo tinh thần để rồi từ đó họ sẽ xa dần Chúa và Phật…
Trong nước chính cộng sản bỏ tiền xây dựng chùa, nhà thờ để đưa vào đó những cha thầy quốc doanh với hai mục đích. Một là chứng minh với thế giới rằng Việt Nam là nơi mà các tôn giáo đều được phát triển tối đa, và hai là, chùa nhà thờ là những cái ổ trú ẩn của những tên cộng sản đội lốt tôn giáo.
Tình hình ở hải ngoai cũng vậy, chùa và nhà thờ mọc lên như nấm, nguy nga đồ sộ, nhưng thử tìm hiểu tiền ở đâu để các thầy cha vừa mua đất vừa xây những cơ sở tôn giáo vượt quá khả năng ? Đồng ý rằng tiền của do tín đồ Phật tử đóng góp, nhưng đó chỉ là số nhỏ nhằm che đậy bên ngoài, phần tài chính quan trọng là do cộng sản cung cấp để thành lập những động ổ an toàn cho bọn cộng sản mặc áo nâu, áo đen từ trong nước ra trú ẩn.
 Trong nước thì giáo gian Huỳnh công Minh, tổng thư ký tòa Tổng Giám Mục Sàigòn và cũng là ‘tổng tư lệnh’ giáo hội công giáo quốc doanh. Giáo gian nầy đang tận tình ‘điều khiển’ ngài Hồng Y Tổng Giám Mục ‘dính chàm’ Phạm Minh Mẫn. Do đó tín đồ không lạ gì khi ngài Hồng Y thi hành lệnh một cách tích cực, từ vụ Cờ Vàng cho đến ‘tống khứ’ Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đi Vatican chữa bệnh theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội.
Ngoài ra, linh mục nào muốn ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc đầy túi, muốn được lấy vợ đẻ con chính thức công khai, muốn có nhà thờ to lớn và đông giáo dân (như Phan Khắc Từ) thì đến cúi mình trước mặt giáo gian Huỳnh Công Minh, ký giấy tờ cam kết rồi lãnh vài ba trăm triệu để xây nhà thờ và xây tổ ấm !      
 Trước năm 1975 tôi thường đến thăm và dùng cơm chay với nhiều vị Thượng Tọa trụ trì tại các chùa nhỏ (chùa nghèo) trong vùng Gia Định cũng như với những vị linh mục dòng Phanxicô  hoặc dòng Vinh Sơn. Các vị nầy sống bình dị, mặc thô sơ, ăn uống thanh đạm. Khi tiếp xúc với những vị nầy tôi cảm nhận được Phật tính cũng như tinh thần Kytô thoát ra từ lời nói, cách cư xử đến cử chỉ và ánh mắt bao dung…Thâm tâm tôi lúc nào cũng quý trọng những vị chân tu nầy…
Nhưng ngày nay, với chủ trương diệt tôn giáo, cộng sản đã sản xuất ra một số quốc doanh để mưu đồ phá hoại các tôn giáo chân chính và thành phần nầy hiện đang đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại. Các chất bổ béo trong cơ thể các vị tu hành ngày nay quá dư thừa, thân hình các vị tu hành phì nộn và đa số mang bệnh nhà giàu (tiểu đường, cao huyết áp…) vì các cha cai quản họ đạo được con chiên mời dùng bữa luân phiên từ nhà nầy qua nhà khác. Các thầy thì được Phật tử làm các món chay dưới dạng tôm rim, cá chiên, cua lột, thịt kho tàu…giúp cho các thầy tự đánh lừa cả thị, xúc, vị giác của mình để được ngon miệng. Như vậy cái si vẫn còn  quá lớn, làm sao cho trọn kiếp tu  !!!
Xin kết thúc bài viết: Chống cộng sản thì phải chú tâm đến vấn đề tôn giáo vận. Địch đã gài sẵn cha thầy quốc doanh vào nhà thờ, vào chùa… nếu chúng ta vô tình hay thiển cận, vẫn tôn vinh, nuôi dưỡng và đùm bọc thành phần nầy thì Phật tử, con chiên đã tự chính mình ra tay diệt tôn giáo của mình.

ĐINH LÂM THANH.

Nhận Diện Ðao Phủ Bức Tử Việt Nam


Hiện vẫn còn một nước tên là Việt Nam nhưng cái tên chưa đủ để minh chứng rằng nước chưa mất. Việt Nam bây giờ cũng như một cây cổ thụ ngàn năm tuổi đang bị lưỡi cưa máy đốn hạ, lá trên cây dù chưa rụng hết nhưng dưới gốc thì thân gỗ đã bị xẻ làm muôn mảnh đem bán để ghép thành cái tràng kỷ kê chỗ ngồi cho nhiều nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Đám người này đã sốt sắng dâng lên đám đầu lĩnh Trung Quốc bữa đại tiệc với món chính là máu thịt của đất nước Việt Nam.


Chi tiết quan trọng nhất khiến người ta nghi ngờ rằng VN đã mất chủ quyền lãnh thổ vào tay TQ đã thể hiện trong một sự kiện chấn động khiến thế giới sửng sốt và bất bình nhưng nhà cầm quyền VN thì im lặng chấp nhận.


Tại cuộc họp báo ngày 8/3/2015, ông Vương Nghị - Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc đã lớn tiếng tuyên bố với thế giới rằng việc TQ xây các đảo đá trên biển Đông là xây trên sân nhà của họ và chỉ trích kịch liệt những ai phản đối hành vi này của TQ. Và cái phần mà TQ khẳng định là “sân nhà” ấy, lại đang là lãnh hải của VN có lịch sử từ lâu đời và đã được công ước quốc tế đương nhiên thừa nhận.


Tuyên bố trên của TQ gây bàng hoàng và phẫn nộ cho những người công tâm và am hiểu lịch sử vấn đề. Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về biển Đông tại Học viện Quốc phòng Australia khi trả lời phỏng vấn của RFI đã không che giấu sự bất bình: “Tôi vô cùng kinh ngạc khi đọc thấy ý kiến của Ngoại trưởng Trung Quốc đưa ra vài hôm trước ngày kỷ niệm 27 năm cuộc tấn công của Hải quân Trung Quốc vào tàu hậu cần Việt Nam ở khu vực quan Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) ngày 14/3/1988. 

Nhận xét của ông Vương Nghị vừa thô bạo, vừa ngạo mạn.”
Dù liên tục lấn chiếm VN từ biên giới đến biển đảo, nhưng đây là lần đầu tiên TQ dám ngang ngược tuyên bố biển Đông là sân nhà. Việc TQ xây dựng những chuỗi đảo nhân tạo trên lãnh hải VN rõ ràng là hành động xâm lược, là bàn đạp để TQ thôn tính VN.


Trước sự xâm lược trắng trợn đó, trách nhiệm tối thiểu của nhà cầm quyền VN là phải lập tức phản đối mạnh mẽ trước hết trên lĩnh lực ngoại giao, đồng thời vận dụng các lực lượng quân sự, chính trị , sức mạnh quốc tế để buộc TQ trả lại chủ quyền lãnh thổ.
Nhưng sự ngược đời đã xảy ra. Sau tuyên bố của Vương Nghị, đến tận hôm nay VN vẫn không lên tiếng phản đối. Càng lạ lùng hơn là cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao VN dự định tổ chức vào ngày 12/ 3/2015, ba ngày sau tuyên bố của TQ lại bị xóa bỏ.
Lộ trình đao phủ bức tử VN


Trước sự im lặng chấp nhận của VN, TQ đã nuốt trọn phần còn lại của con mồi. Phần đầu đã được tiêu hóa xong từ những năm trước đây, khi những nhà cầm quyền VN từ cấp địa phương tới Trung ương đã hăm hở giao đất rừng dọc biên giới mà hầu hết là những vị trí hiểm yếu về an ninh quốc phòng cho TQ thuê và quản lý tới 50 năm theo phương thức người TQ tha hồ tung tác trong đó.


Thiếu tướng Nguyễn Kim Khoa - chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh của Quốc hội cho biết trên báo Đất Việt ngày 18/6/2014: Qua khảo sát ở một số nơi, đã thấy có 19 dự án được các địa phương cấp phép cho thuê tới khoảng 398.374 ha đất rừng dọc biên giới Việt - Trung, đặc biệt là những vị trí trọng yếu về an ninh quốc phòng. (Trong khi đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chỉ báo là 10 tỉnh).


Mức giá mà VN cho TQ thuê đất rừng biên giới rẻ mạt đến mức không tưởng tượng nổi: nhiều nơi TQ chỉ phải trả 2,75 đ cho mỗi mét vuông đất mỗi năm! (Theo đại biểu QH Trần Việt Hưng (Hòa Bình) – báo Thanh niên đưa tin ngày 12/6/2010)


Nhận định của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng thực sự các cấp chính quyền đã bán rừng và dồn đất nước VN vào tình trạng tự sát, khiến VN mất đi vùng lãnh thổ quan trọng nhất về quốc phòng an ninh.
Mặc dù vậy, cho đến nay không một ai phải chịu trách nhiệm về những hành vi có thể coi là bán nước và phản quốc này.
Cùng trên lộ trình các cấp chính quyền VN để ngỏ cửa cho những kẻ xâm lược VN, họ còn tạo điều kiện đặc biệt dễ dàng cho người TQ vào kinh doanh, sản xuất, trốn thuế, thuê đất trồng lúa, rau quả, thuê mặt nước nuôi tôm cá... lập những đặc khu TQ như ở Vũng Áng – Hà Tĩnh và nhiều nơi.Song song với những chính sách về chính trị, ngoại giao và quốc phòng, an ninh, những chính sách về kinh tế thương mại đã giết chết nền sản xuất của VN và biến VN thành thị trường tiêu thụ hàng rởm và hàng độc hại của TQ.


Không những nền kinh tế chính trị và văn hóa của VN bị bức tử mà cả VN đang bị biến thành một bệnh viện khổng lồ trong đó chen chúc những người dân đang chết dần mòn vì hóa chất độc hại của TQ.
Trong tình thế ấy, thay vì bảo vệ đất nước và nhân dân, nhà cầm quyền VN đã liên tục dùng mọi lực lượng từ văn hóa tư tưởng, báo chí truyền thông tới công an và côn đồ để ngăn chặn, vu cáo, mạt sát, khủng bố, đánh đập, bỏ tù, bao vây về kinh tế, cắt cả nguồn sống của những ai dám bày tỏ lòng yêu nước, bảo vệ tự do dân chủ và phản đối TQ xâm lược. Đến các cuộc dâng hương tưởng niệm những người đã hy sinh trong những cuộc chiến bảo vệ đất nước chống TQ tàn sát cũng bị nhà cầm quyền cho các lực lượng công an, dân phòng, dư luận viên và côn đồ ngăn cản.


Với những hành động có hệ thống, nhất quán trong nhiều năm như vậy, dư luận có quyền nhận định rằng nhà cầm quyền VN đã có quyền lợi chung với đám đao phủ TQ đang bức tử đất nước VN.
Để dẹp tan dư luận, Bộ trưởng quốc phòng VN – lại có những hành động bất chấp sự thật, trách nhiệm và và lương tâm khi khẳng định rằng “quan hệ Việt Trung vẫn phát triển tốt đẹp” và coi việc xâm lược của TQ chỉ là “mâu thuẫn gia đình”. Hơn thế nữa, Ngày 31/12/2014, vị này còn lớn tiếng răn đe và kết tội rằng người VN ghét TQ là một việc nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước cũng như quan hệ giữa hai quốc gia. (theo tinphapluat.com)
Dù không muốn thừa nhận sự thật đau lòng, người VN cũng không thể không nhận thấy dù cái tên VN còn đó, nhưng hồn nước thì đã bị nhiều nhà cầm quyền cộng sản làm tay sai cho TQ giẫm đạp mỗi ngày.


Tung hoành trên mảnh đất này là dòng máu phản trắc đớn hèn đã được tiêm vào động mạch của vô số nhân vật trong các bộ máy quyền lực. Đó thực sự là đám tay sai của TQ, núp dưới chiêu bài Đảng cộng sản VN, lấy chủ nghĩa Mác Lê nin và ý thức hệ xã hội chủ nghĩa mà nhân loại đã lên án là tội ác chống lại loài người làm bức màn sắt che cho những tham vọng, quyền lợi nhóm, để chĩa họng súng độc tài vào người dân, biến VN thành một “nhà tù” khổng lồ đàn áp bất cứ ai dám phê phán, ngăn cản con đường bán nước của chúng.


Người VN trong tình thế đó, là những con gà bị trói chặt, dao đã kề cổ. Ai cam tâm im lặng, chịu đi nhặt cơm thừa canh cặn, tung hô khen ngợi đám tay sai bán nước, tiếp tay cho bọn xâm lược, hoặc tiếp tục vắt kiệt máu mỡ mình nuôi bộ máy cầm quyền phè phỡn trên xương máu nhân dân thì sẽ được tồn tại.
Nhưng thế có phải là cuộc sống con người?
Người VN đã tê dại. Đã lạc mất linh hồn, Đến mức số đông đã mặc kệ mọi sự, cam chịu dao kề cổ và trong khi đang kê chiếc cổ gầy dưới lưỡi dao đao phủ, người VN cũng tương tự nhà cầm quyền của họ, chỉ dám mơ tới một con dao đao phủ cùn hơn để cứa cổ mình lâu chết hơn, chứ không dám mơ tới việc phải làm gì để thoát khỏi lưỡi dao ấy.
Không ít người do không am hiểu tình hình nên đã trở thành độc ác, đứng về phía đao phủ bức tử VN, a dua mạt sát những dân oan hoặc những đồng bào đã không quản nguy hiểm đấu tranh cho quyền lợi của đất nước và cho cả chính họ.
Mất nước là bởi nhà cầm quyền VN


Vùng đảo Gạc Ma nhìn từ trên cao, ảnh minh họa chụp hôm 15/5/2014.
TQ thực sự rất ngang ngược, tham lam và đã dùng nhiều thủ đoạn đối với loài người trên thế giới này. Không ngẫu nhiên khi có nhiều tài liệu khoa học thống kê, phân tích về những thủ đoạn thâm hiểm, tàn bạo của nhà cầm quyền cộng sản TQ và một trong những cuốn sách rất nổi tiếng đã được xuất bản mang tên “Chết bởi tay Trung Quốc” của hai giáo sư kinh tế học Perto Navarro và Greg Autr đã cảnh báo loài người về những tham vọng và hiểm họa mà TQ mang tới để các nước đối phó.
Việt Nam “đã chết bởi tay TQ”! Nhưng khốn khổ khốn nạn ở đây là cái chết do VN tự chuốc lấy. Chết chỉ vì nhà cầm quyền cộng sản đã bằng mọi giá, thà hy sinh lãnh thổ, danh dự, đất nước, nhân dân chứ không chịu mất Đảng, mất thể chế cộng sản.


Họ yêu Đảng, yêu Mác Lê nin, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đến thế kia ư?
Hoàn toàn không. Ở trong bộ máy, họ biết quá nhiều hành vi bỉ ổi độc ác của nhau và của thứ chủ nghĩa này. Họ gắn bó chẳng qua thể chế ấy, chủ nghĩa ấy là một cỗ xe bọc thép mang vũ khí hạng nặng bảo vệ hữu hiệu nhất cho băng cướp tham nhũng tha hồ lừa bịp và cướp bóc người dân.
Thế giới đã chứng minh cỗ xe cộng sản càng lăn đi càng chất chồng tội ác. Sự sợ hãi bị mất tất cả đã khiến nhà cầm quyền gắn với thể chế cộng sản như mạng sống. Họ đã lựa chọn con đường hy sinh đất nước và nhân dân để giữ chế độ độc tài nhằm bảo vệ cho giai cấp thống trị tha hồ cướp bóc.
Đó cũng là điều mà TQ đã rất khôn ngoan tận dụng để thao túng đám cướp bóc này. Đám này còn rất sốt sắng thực hiện mưu đồ nhập VN vào TQ trong năm 2020 theo như cam kết của Hội nghị Thành Đô 1990. Tham vọng vĩ cuồng mang hơi hướng Mao Trạch Đông của Tập Cận Bình cộng với và sự nôn nóng muốn rảnh tay nên giao đất sớm cho TQ của đám bán nước VN, nay đã về đích trước 5 năm so với kế hoạch ?!


Albert Camus nói: “Việc của người biết suy nghĩ là không đứng cùng phía với đao phủ”. Khi nhà cầm quyền hoặc người VN đứng về phía đao phủ , thì chính họ đang hái quả trên ngọn cây nhưng lại dùng lưỡi cưa xẻ nát thân cây đã dung dưỡng họ.
Xét những động thái khác thường qua tuyên bố của TQ và sự im lặng chấp nhận của VN, dư luận 

không thể không nhận ra VN đã nằm gọn trong cái mõm tham lam của TQ. Cánh tay của nước Mỹ dù mạnh nhưng đã bị khước từ bởi chính nhà cầm quyền VN không những chỉ đứng về phía đao phủ mà còn là tay trong cho đao phủ. Nước Mỹ và khối các nước văn minh hiện giờ chỉ còn chứng kiến những cú đong đưa cầu lợi của VN đang được điều khiển bởi đầu não TQ mà thôi.
Nhưng chính TQ cũng đang phải đối diện với nguy cơ sụp đổ trong tương lai gần bởi chính những khối ung thư nội bộ của họ. Sự phát triển nôn nóng bất chấp danh dự và thủ đoạn của nền kinh tế TQ đương nhiên sẽ mau chóng phá vỡ cái vỏ chật chội lạc hậu của thể chế chính trị phi tự nhiên theo ý thức hệ cộng sản đã bị loài người tẩy chay. Việc cộng dồn những tội ác chống lại loài người mà nhiều thế hệ nhà cầm quyền TQ đã làm với người dân của họ và thế giới cũng sẽ đến ngày “tức nước vỡ bờ”, chưa kể những chấn động mạnh mẽ của cuộc tranh giành quyền lực phe nhóm đang diễn ra dưới vỏ bọc “đả hổ diệt ruồi” tại TQ.


Sự sụp đổ ấy đương nhiên sẽ kéo theo sự tan vỡ bi thảm trong một ngày không xa của thể chế cộng sản VN đã tự nguyện nộp mình vào tay TQ thay vì thức thời đón nhận những cơ hội của “Cách mạng Nhung” Việt Nam, tự cải cách thể chế, đồng hành với quyền lợi của toàn dân tộc.


Và dẫu nước VN có mất về tay TQ, những người gắng gỏi vì đất nước và người dân VN không tuyệt vọng. Cuộc đấu tranh đòi thoát khỏi thể chế cộng sản để cứu nước, đem lai toàn vẹn lãnh thổ, dân chủ, tự do và nhân quyền cho người VN dù khó khăn nhưng là một cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ. Nhà cầm quyền không bao giờ có thể tiêu diệt hết được những người yêu nước yêu công lý và yêu tự do.


Nhà văn Võ Thị Hảo.