onsdag 31. oktober 2012

Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế Lên Tiếng



 

Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế Lên Tiếng 

về phiên Tòa 30-10 của hai Nhạc sĩ 

Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình.

Hai nhạc sĩ Việt Nam đang phải đối mặt với bản án 20. Đó là thông cáo báo chí của Tổ chức Ân Xá Quốc Tế đã lên tiếng chỉ trích nhà nước Việt Nam trước phiên toà ngày 30-10-2012 của TADN Thành Phố Sài Gòn.

Võ Minh Trí tức nhạc sĩ Việt Khang 34 tuổi và nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình tức Hoàng Nhật Thông 37 tuổi ,đã bị bắt giam từ cuối năm 2011.

Cả hai nhạc bị TAND thành phố Sài Gòn cáo buộc với tội danh tuyên truyền chống nhà nước XHCN ở khoản 2 theo điều 88 của Bộ luật hình sự VN với mức án lên đến hai mươi năm tù giam.

“Đây là một điều lố bịch của CSVN nhằm mục đích đàn áp những người bất đồng chính kiến qua việc sáng tác nhạc.Những người này họ là tù nhân lương tâm ,bị bắt giam chỉ vì họ thực thi quyền tự do ngôn luận thông qua sáng tác những bản nhạc yêu nước và những hoạt động ôn hòa phi bạo lực chiến tranh. Vì vậy họ phải được trả tự do”. Đó là lời phát biểu của ông Rupert Abbott một nhà nghiên cứu về Việt Nam của Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế.

“Nhà cầm quyền CSVN phải biết tuân thủ, thực thi theo Hiến Pháp Nhân Quyền Quốc Tế là phải tôn trọng quyền làm người của người dân Việt Nam.Trong đó có quyền tư do ngôn luận, bao gồm quyền sáng tác và quyền được xử dụng các phương tiện truyền thông khác”.
Hai nhạc sĩ, sáng tác nhạc chỉ nói lên chủ quyền lãnh thổ lãnh hải quê hương đất nước, trước sự gây hấn của Trung Cộng. Và thái độ ươn hèn của nhà nước CSVN. Trong đó được nêu bật lên quyền con người và sự bất công trong xã hội.

Công AN CSVN đã bắt giam nhạc sĩ Võ Minh Trí tức VIệt Khang vào giữa tháng 9 năm 2011sau thả ra. Nhưng sau đó, ngày 14-12-2012 bắt giam trở lại. Trần Vũ Anh Bình bị bắt ngày 21-9-2012 cả hai đều gị giam giữ tại nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu.

“Đây là điều, nói lên sự lo sợ của nhà nước cs Việt Nam và tiếp tục gia tăng đàn áp những người bày tỏ chính kiến dưới hình thức ôn hòa” Ông Abbott.

Một trường hợp khác vào ngày 17-10-2012 công an CSVN đã bắt giam cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên 20 tuổi, cùng với ba sinh viên khác tại Tp. Sài Gòn. Sau vài ngày giam giữ thì ba sinh viên được thả ra. Nhưng cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên hiện vẫn bị giam giữ và được biết hiện nay đã chuyển đến giam giữ tại nhà tù công an tỉnh Long An.
Sinh Viên Nguyễn Phương Uyên đang bị buộc tội tham gia rãi truyền đơn chỉ trích Trung Quốc và nhà nước CSVN.

Lúc đầu Công An từ chối là không có bắt giam sinh viên Nguyễn Phương Uyên. Nhưng sau khi gia đình cô lên tiếng về việc mất tích của cô, thì sau đó công an mới gửi thông báo đến gia đình cô về việc bắt giam để điếu tra tội tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam theo điều 88 Bộ luật hình sự của CSVN.Trường hợp này cũng giống như việc bắt giam và khởi tố với hai nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình.

“ Thay vì dùng mọi cách để bịt miệng những người trẻ trong đất nước Việt Nam hiện nay, thiết nghĩ nhà nước Việt Nam nên cho phép họ bày tỏ ý kiến của họ và ghi nhận sự góp ý của họ trong việc xây dựng phát triển đất nước” Ông Abbott.
“ Hai nhạc sĩ yêu nước và cô sinh viên trẻ phải được trả tự do vô điều kiện ngay lập tức”.

Lê hoàng Châu.

 

Phiên Tòa 30-10-2012



Phiên Tòa 30-10-2012 của Nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình.


Vào lúc 9 giờ,  ngày 30 tháng 10 năm 2012 tại Tp. Sài Gòn - VN.

Cái gọi là “Toà Án Nhân Dân thành phố Hồ Chí Minh” xét xử hai thành viên của Tuổi Trẻ Yêu Nước là Nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình và nhạc sĩ Việt Khang tức Võ Minh Trí. với tội danh: ở khoản 2 Điều 88 BLHS của nhà nước Việt Nam.

Nơi xét xử tại số 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Nghé, quận I, Tp. Sài Gòn.
– Ngồi vào ghế thẩm phán chủ tọa là Vũ Phi Long.
– Hội thẩm đoàn gồm: Bùi Quang Việt, Đặng Phi Công.
– Thư ký phiên tòa: Hà Đình Lăng.
– Đại diện cái gọi là “viện kiểm soát nhân dân”: Nguyễn Quang Vinh.

Tuy nói phiên tòa được xử án tự do, nhưng người thân hai nhạc sĩ chỉ có mẹ của nhạc sĩ Việt Khang và anh trai của nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình.

Phán quyết bỏ túi :
1. Nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình, sinh năm 1974, cư ngụ tại Kỳ Đồng, Sài Gòn, bị bắt giam từ 21-9-2011
– Bị kết án: 6 năm tù giam và 2 năm quản chế.
2. Nhạc sĩ Việt Khang tức Võ Minh Trí , sinh năm 1978, cư ngụ tại Tp. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. bị bắt giam từ 14-12-2011.
– Bị kết án:4 năm tù giam và 2 năm quản chế.

Nhạc sĩ Việt Khang được nhiều người biết đến qua một số nhạc phẩm thể hiện lòng yêu nước trước những hành động xâm lấn của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa như “Anh là ai ?” và “Việt Nam tôi đâu ?”. Anh đã từng tham gia các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc vào mùa hè năm 2011.
Còn nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình là thành viên một ca đoàn thuộc Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, do các cha Dòng Chúa Cứu Thế phụ trách. Theo Truyền thông Chúa Cứu Thế, những tác phẩm của Trần Vũ Anh Bình được nhiều bạn trẻ yêu thích, như "Người Việt Nam", "Rạng Ngời Nước Nam".


Luật sư Trần Vũ Hải, người bào chữa cho nhạc sĩ Việt Khang, khẳng định rằng không thể xem những sáng tác của anh là hành động chống Nhà nước và cho biết ông sẽ tiếp tục yêu cầu trả tự do cho Việt Khang, để anh được đoàn tụ với vợ con.

Bài hát « Anh là ai ? », thì chỗ giám định có nói rằng: (bài hát này) chỉ phản kháng lại việc giải quyết của chính quyền. Tức là có một số vụ biểu tình được coi là trái phép và chính quyền giải tán, thì bài hát này phản kháng lại việc đó. Như vậy, bài hát này không thể coi là chống (Nhà nước), mà chỉ có thể nói là phản kháng thôi. 

Bài hát thứ hai, Viện kiểm sát có nói và  chính Việt Khang có nói là : Có một cái câu, một cụm từ,  Việt Khang không ghi, nhưng một người bạn ở bên Mỹ, một chủ trang mạng, họ sửa lại, nhưng  với tư cách là tác giả phải chịu trách nhiệm. Tức là câu «Chống quân xâm lược phương Bắc, chống bè lũ bán nước ». Việt Khang nói rằng, thực tế là  viết « Chống quân xâm lược phương Bắc cướp nước Việt Nam », chứ  không  viết câu «Chống quân xâm lược phương Bắc, chống bè lũ bán nước ». Thế thì, anh cũng thừa nhận rằng, nếu viết theo người sửa chữa kia, thì (có thể) được hiểu là phỉ báng Nhà nước.
 

Viện Kiểm sát cũng nói cái đoạn thêm bớt từ, Việt Khang có thể không có ý thức được điều đó, nhưng để cho người khác lợi dụng, và từ đó mà dẫn tới nói xấu chính quyền Việt Nam. Cái này cũng chỉ là nói ám chỉ thôi, chứ không phải là đích danh. Bởi vì nếu chống ai, thì phải nói rõ là chống người đó, kể tên đích danh, còn nếu ám chỉ thì hiện nay trong văn học, có rất nhiều tác phẩm ám chỉ, có thể đúng, có thể sai. Nhưng nếu chúng ta kết tội tất cả các tác phẩm văn hóa nghệ thuật có ám chỉ, thì rất là không hay.
 

Tin Tổng Hợp.

Thư Gửi Nhạc Sĩ Việt Khang



Anh Việt Khang mến.

Thuở còn đi học Anh văn, cô giáo tôi thường bắt thuyết trình các đề tài có tính triết lý. Đề tài mà tôi phải làm là “luận anh hùng”. Thời nay người ta có vẻ lạm dụng chữ anh hùng này. Bơi lội giỏi cũng làm anh hùng, anh hùng thể thao. Cuốc đất giỏi cũng là anh hùng, anh hùng lao động.

Cũng may là chúng ta chưa có anh hùng "hối lộ", nếu không thì các quan nhớn ở VN đã là anh hùng cả rồi. Vào cái dạo đó, tôi nghĩ "anh hùng" là người làm được chuyện mà người bình thường không dám làm, vì một mục tiêu cao thượng. Ăn cướp, buôn ma túy cũng là làm chuyện người thường không dám làm, nhưng không cao thượng. Như vậy, anh hùng bao gồm hai đặc tính, cao thượng và can đảm.Hôm nay tôi lật tự điển ra xem, không ngờ họ cũng định nghĩa tương tự như vậy.

Có bao nhiêu nhạc sĩ đặt những bài ca cho dân tộc? Không nhiều.
Phần lớn là những bài khóc lóc thảm thiết vì tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Cũng đồng thời là cảm xúc, nhưng cái khắc khoải của anh dành cho cả dân tộc. Do đó, hành động của anh là cao thượng. Trong số những nhạc sĩ đặt những bài nhạc cho dân tộc, có bao nhiều người sáng tác ngay trong lòng địch?

Thưa, con số này chỉ đếm được trên đầu ngón tay. So với lão tiền bối Phạm Duy, xin về VN để xênh xang khoác lác, so với lão bà lão ông ca sĩ, xin về VN để kéo vài hơi nhựa cuối đời, thì nhạc phẩm và giọng ca của anh là niềm hãnh diện cho giới theo kiếp đàn ca.

Sự can đảm của anh thật tuyệt vời. Thế nhưng tinh thần đó mà không có tài nghệ này, đặt một bản nhạc mà người ta nghe rồi phải uống thuốc sổ, thì cũng không được. Có được một bản nhạc đi vào lòng hàng triệu triệu người như anh sáng tác thật là hơn hẳn sự bình thường.

Cái phi thường của anh đã được những tên thái thú tham nhũng đáp lại bằng cùm gông. Phạm Duy, các lão ca nhạc sĩ VN về nước để được hưởng ánh đèn màu của sân khấu.

Còn anh, ngày  ra tòa, anh sẽ đứng dưới ánh cực quang của hai vầng nhật nguyệt. Phạm Duy chạy từ Bắc vào Nam, từ Nam sang Mỹ, rồi lại quay về khúm núm trước nhũng tên thái thú hèn hạ, đểu cáng. Thật là đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Còn anh, anh là một cánh hoa nở trong địa ngục.

Ngày  anh ra tòa, tôi không cầu chúc cho anh may mắn, bởi vì tôi nghĩ anh không cần cái gọi là sự khoan hồng đạo đức đểu của VC ban cho anh bản án 4 năm tù giam va 2 năm quản chế.

Điều anh cần là tự do, độc lập cho dân tộc. Cho nên ngày  anh ra tòa, trong lòng tôi và hàng triệu người khác sẽ đốt lên một ngọn lửa phản kháng. Ngọn lửa không cháy bằng xăng dầu, bằng hơi đốt, mà cháy bằng dòng máu anh hùng của Việt Khang. 

Nguyễn văn Hoàng.

tirsdag 30. oktober 2012

Những Dòng Nhạc Yêu Nước




Ngày  30 tháng 10, nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội đem xử hai nhạc sĩ trẻ Việt Khang và Trần Vũ An Bình, với cáo trạng là tuyên truyền chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa, chỉ ví hai nhạc sĩ trẻ này đã sáng tác những dòng nhạc nói lên lòng yêu nước, và khơi dậy tinh thần dân tộc. Những người trẻ biểu tình chống sự xâm lấn lãnh thổ của Trung Cộng mà bị chính quyền cho công an đàn áp đánh đập. Hành vi đàn áp giới trí thức trẻ nói lên tình trạng hoảng loạn của CS Hà Nội.

Cộng Sản bỏ tù Việt Khang và Trần Vũ An Bình là triệt tiêu tuơng lai dân tộc:

Nhạc Sĩ Việt Khang và Trần vũ An Bình là những người trẻ sinh ra và lớn lên trong chế độ Cộng Sản, được học và nhồi nhét đầy đủ về lý thuyết CS. Những thanh niên này không phải là những thành phần băng đảng, ăn chơi trụy lạc đàn điếm, mất dạy như con cái những đảng viên cao cấp Cộng Sản. Họ cũng không phải là những người thuộc thành phần con cái ngụy, nên không thể kết luận rằng những người trẻ này là ngụy, là thế lực thù địch, hay bất cứ một loại phản động nào. Vậy tại sao CS Hà Nội lại phải rat ay đàn áp những nhạc sĩ trẻ này?

Thưa vì Việt Khang và Trần Vũ An Bình Họ là những người tiêu biểu cho thành phần trí thức trẻ, thành phần rừờng cột của tương lai đất nước, những người đã nhìn thấu bối cảnh đen tối, đầy tuyệt vọng hiện nay của VN. Họ xác định được ai là kẻ bán nước, hại dân, ai là kẻ đang đưa đất nước và dân tộc này đến bờ vục thẳm như hiện nay.

Việt Khang và Trần Vũ An Bình chính là tinh hoa của đất nước, là tiêu biểu cho những tấm gương anh hùng một lòng vì dân vì nước. Họ chấp nhận hiểm nguy, chấp nhận tù đày, họ ngang nhiên thách thưc cả một thế lực có hàng triệu công an cảnh sát với súng đạn và nhà tù, vũ khí của họ là những dòng nhạc và những âm giai phát tiết từ tâm hồn những người có trái tim biết rung động trước đau khổ của người dân thấp cổ bé miệng. Họ biết xót thương những người chân quê chất phác đang bị tước đoạt nhà cửa ruộng vườn, đang phải lê lết khắp các cửa quan để kêu oan, nhưng bị ruồng đuổi, trù dập. Họ biết xót thương thân phận của những người cùng khốn do hậu quả hơn 60 năm Cộng Sản trên quê hương.

Những âm thanh từ những ca khúc do Việt Khang và Trần Vũ An Bình viết ra đang xóay vào tim óc của đồng bào trong nước cũng như hải ngoại, nó trở thành những thông điệp vừa tha thiết, vừa dũng mãnh, đánh thức lòng yêu nước và sự tự hào dân tộc, mà CSVN cố tình nhận chìm trong bao nhiêu năm qua. Những ca khúc này đang trở thành những cơn bão lửa lan nhanh, lan mạnh có sức tàn phá thiêu rụi cái chế độ độc tài, phi nhân, hà khắc đang cố khóac lên dân tộc ta cái ách nô lệ từ phương bắc.

Rõ ràng CS Hà Nội run sợ trước trào lưu dân chủ đang tràn tới, khi những ca khúc đầy hào khí của Việt Khang làm bùng lên ngọn lửa đấu tranh ngay giữa lòng chế độ. Chính vì thế CS Hà Nội ngoan ngoãn vâng theo chị chị cuả Bắc Kinh phải thẳng tay tiêu diệt ý chí đấu tranh của lớp trí thức trẻ trong nước, bằng cách ghép cho những người trẻ cái tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước.
Trong quá khứ CSVN đã đàn đáp các nhà văn trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, ngày hôm nay CSVN đang tái diễn cái hành vi hèn hạ và đớn mạt ấy bằng cách hủy hoại thành phần trí thức, đây là một trọng tội đối với tổ tiên và dân tộc.

Hôm nay CS Hà Nội đem xử hai nhạc sĩ trẻ, chắc chắn họ vẫn tái diễn cái trò hề xử án theo luật rừng. Cho dù bản án thế nào đi nữa, cho dù Việt Khang và Trần Vũ An Bình có bị khóa miệng, còng tay, giam hãm trong lao tù, thì những thông điệp yêu nước của các bạn trẻ ấy sẽ được đồng bào yêu mến gấp bội. Rồi đây âm vang của các ca khúc yêu nước của Việt Khang và Trần Vũ An Bình sẽ được hát vang trên khắp mọi miền đất nước, và khắp các phương tiện truyền thanh trên mặt địa cầu. Cái nghịch lý trước mắt mà CS Hà Nội vẫn không nhận ra, đó là CS Hà Nội càng thù ghét những người yêu nước bao nhiêu, thì quần chúng càng yêu thương những người trẻ ấy bấy nhiêu. Hiện tượng ấy cho thấy ngày tàn của chế độ chẳng còn bao xa nữa.

Nguyên Khải.

mandag 29. oktober 2012

Suy Tôn TT. Ngô Đình Diệm



Kính thưa Quý Đồng Hương,
Cứ mỗi năm vào mùa Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tôi xin phép post lại bài tổng hợp liên quan đến cuộc đảo chính năm 1963 mà tôi viết cách đây khoảng 10 năm. 
Như lời phi lộ trong bài, tôi không phải là sử gia và cũng không phải là người hoạt động trong chính quyền hay tham dự vào biến cố này vì thời điểm đó tôi còn quá nhỏ khoảng 11 tuổi. Lý do mà tôi cố gắng tổng hợp một cách ngắn gọn biến cố này để xin gởi đến Quý Đồng Hương kính tường, vì tôi nghĩ đây là một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước nên cần biết để "ôn cố tri tân".Tuy nhiên tôi rất phẫn nộ và lên án bất cứ tôn giáo nào, bất cứ tổ chức nào, bất cứ cá nhân nào đang cố tình bươi móc quá khứ này để cố tình tạo sự chia rẽ trong khối người Việt Quốc Gia, hay tạo sự ly gián, thù hằn giữa Đệ Nhất Cộng Hòa và Đệ Nhị Cộng Hòa nhằm làm lợi cho cộng sản. Đối với tôi, bọn cộng sản khát máu, ác ôn mới là kẻ thù chính yếu của dân tộc và của cộng đồng người Việt tỵ nạn mà thôi. Kẻ nào xuyên tạc lịch sử nhằm thỏa mãn "thú tính" và làm lợi cho cộng sản đều bị nhân dân khinh tởm, nguyền rủa và đào thải.
Không ai có đủ tư cách, trình độ để phê phán một cách quả quyết về những biến cố lịch sử còn quá mới mẽ này. Những định kiến nào được đưa ra trong lúc này, theo tôi nó chỉ nằm trong sự hiểu biết rất giới hạn, thô thiển, cục bộ, chủ quan mà thôi. Nói cách khác, bất cứ kết luận nào được lý giải một cách "khẳng định" trong lúc này chỉ là việc "thằng mù rờ voi" mà thôi, không có giá trị nào cả.
Là công dân của hai nền Cộng Hòa, tôi thành kính biết ơn công lao đóng góp và sự hy sinh lớn lao của cả hai vị Cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Công hay tội hãy để lịch sử phán xét. Kẻ nào cố tình khai thác sự kiện lịch sử nhằm dèm pha, nhục mạ, phỉ ng nhị vị Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đều là tay sai của cộng sản.
Trân trọng kính chào Quý Đồng Hương và kính mời Quý vị thưởng lãm bài tổng hợp dưới đây. Quý vị nào đã có dịp đọc qua rồi thì xin Quý Vị miễn chấp vì đây là tài liệu lịch sử không bị lỗi thời vì yếu tố thời gian.
Trân trọng,
Ngô Kỷ.
 Ngày 01 tháng 11 năm 1963, 49 năm qua, có thể chuyện đã trở thành cũ so với một đời người, nhưng lại quá mới nếu đem so với chiều dài của lịch sử. Từ trước đến nay, có rất nhiều cựu tướng lãnh, chính trị gia Việt Nam lẫn Mỹ viết những cuốn hồi ký nói về ngày đảo chánh, nhưng hầu hết đều có tính cách chủ quan và mang màu sắc đánh bóng, chạy tội.

Vì viết về "cái tôi" nên các chi tiết họ đưa ra chứa đầy thiên kiến, ích kỷ và cố tạo thành một "diễn đàn" để nhục mạ đối tượng nhằm thỏa mãn tự ái và trốn chạy mặc cảm tội lỗi. Vì không đồng ý với lề lối viết đó, nên chúng tôi cố gắng sưu tầm và trích dịch một số dữ kiện có tính cách khả tín vì được trình bày trùng hợp với nhau từ hơn chục quyển sách ngoại quốc. Các chi tiết này được thâu thập từ văn khố chính phủ, từ các cuộc phỏng vấn trực tiếp, từ các bản tự thú hữu thệ và từ các buổi điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ v.v...


NDD2.gif
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Trong tập tài liệu này, có đề cập đến những chữ như "chính phủ Diệm", "Tổng Thống Diệm", điều đó không nhất thiết Tổng Thống Diệm là người đích thân hay trực tiếp ra lệnh, sắp xếp, thông tường tất cả mọi sự kiện, vấn đề đang xảy ra trong nước. Nhưng vì với chức vụ Tổng Thống, nên Tổng Thống Diệm phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi hành động, lời nói của thuộc cấp, luôn cả của ông bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn v.v...

Vì đề tài quá rộng lớn và vô cùng phức tạp, vì chúng tôi không phải là sử gia, do đó các chi tiết trong tập tài liệu chỉ có tính cách tóm lược mà thôi. Vì tôn trọng sự trung thực của vấn đề, chúng tôi cố gắng giữ vai trò thật khách quan trong khi dịch thuật, mà không suy diễn, không phân tích, không ca ngợi, không chỉ trích, không vu cáo, không bênh vực, không lên án, không bào chữa...

Chúng tôi chỉ ước ao những người từng chủ trương, tham dự cuộc đảo chánh năm 1963 nhân danh vì đạo pháp, vì tự do, vì dân chủ, vì nhân quyền, vì hạnh phúc, vì độc lập dân tộc, thì cũng xin đừng quên rằng hiện nay nơi quê nhà, Cộng Sản Việt Nam là một tập đoàn "đảng trị", đang kỳ thị, đàn áp, bắt bớ, giam cầm các lãnh tụ tôn giáo, đang đóng cửa, tịch thu các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, đang thủ tiêu, giết chóc các nhà chính trị đối lập, đang liếm gót giày Nga, Tàu, "đế quốc Mỹ", và đang vi phạm gấp hàng triệu lần những gì mà quý vị đã từng hô hào xuống đường, tranh đấu.

Tiểu sử và sự nghiệp tổng thống Ngô Đình Diệm

Ông Ngô Đình Diệm sinh ngày 03 tháng 01 năm 1901 trong một gia đình có 9 người con. Thân phụ là ông Ngô Đình Khả từng phục vụ dưới triều vua Thành Thái. Ông Diệm thuộc gia đình Công Giáo và từng có ý muốn lớn lên làm linh mục. Học trường Quốc Học Huế và tốt nghiệp lúc 16 tuổi. Sau đó ghi danh học trường Luật và Quản Trị của Pháp ở Hà Nội, tỏ ra là một sinh viên thông minh, xuất sắc và ra trường đứng đầu lớp. Tốt nghiệp, ông Diệm đi làm việc ngay cho chính phủ.

Ông tiến thân rất mau trên con đường công danh. Lần lượt ông được bổ nhậm vào các chức vụ: Quan Hậu Bổ, Tri Huyện tỉnh Thừa Thiên, Tri Phủ tỉnh Quảng Trị, Quản Đạo Ninh Thuận tỉnh Phan Rang và Tuần Vũ Bình Thuận tỉnh Phan Thiết.

NDD5.gif
TT. Ngô Đình Diệm và gia đình tại Phú Cam, Huế
Là người Việt Nam ái quốc, ông Diệm chống đối sự đô hộ của Pháp và lên án chủ nghĩa Cộng Sản, mà theo ông đó là kẻ thù của người Việt Quốc Gia. Vì thấy ông Diệm có khả năng và năng động, nên vào ngày 02 tháng 03 năm 1933, Vua Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm nắm chức vụ Thượng Thư Bộ Lại đứng đầu nội các (tương đương với Bộ Nội Vụ).

Ông Diệm rất thích thú với công việc mới này, ông đưa ra một số biện pháp và chương trình cải tổ guồng máy cai trị, nhưng bị Vua Bảo Đại và Pháp từ chối. Thất vọng và bất mãn, ông từ chức và không giữ chức vụ gì sau đó nữa cho đến khi ông làm Thủ Tướng vào năm 1954.

Ông Diệm sống tại nhà của thân sinh gần Huế. Ông từ chối mọi sự mời mọc của Nhật, Việt Minh, Bảo Đại và không tham gia vào bất cứ chính quyền nào lập sau Đệ Nhị Thế Chiến. Có một lần ông bị Việt Minh bắt và giải đến Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông tham gia chính phủ nhưng ông từ chối với lý do Việt Minh giết anh cả của ông.

Năm 1949, Pháp lập lên chính phủ Bảo Đại, ông Diệm yêu cầu Vua Bảo Đại đòi Pháp nới rộng tự do cho đất nước, nhưng bị từ chối nên ông Diệm rất thất vọng.

NDD6.gif
Ngày 2 tháng 1 năm 1955, Tổng Thống Ngô Đình Diệm xuất hiện trong buổi lễ long trọng mừng ngày thành lập chính thể Việt-Nam Cộng-Hoà tại Sài Gòn.
Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ và sống 2 năm tại Lakehurst , New Jersey . Ông đi vòng quanh nước Mỹ để vận động độc lập cho Việt Nam . Ông Diệm nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Đức Hồng Y Francis Cardinal Spellman, Phát ngôn viên của Công Giáo Hoa Kỳ, Đức Hồng Y Richard Cardinal Cushing, Linh Mục Raymond J. de Jaegher, Thượng Nghị Sĩ William F. Knowland, Thượng Nghị Sĩ John Kennedy, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd và Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ William O. Douglas.

Vào năm 1954, khi có triệu chứng Pháp thua tại Đông Dương và Cộng Sản có cơ hội chiếm Việt Nam , Hoa Kỳ quyết định can thiệp để thay thế Pháp và cố bảo vệ miền Nam Việt Nam . Chính phủ Mỹ muốn tìm người để ủng hộ. Lúc đó Ngoại Trưởng Mỹ John Foster Dulles biết được ông Diệm. Với tài quản trị, ái quốc, và chống Cộng triệt để, ông Diệm lấy được cảm tình của nhân dân Mỹ.
Vua Bảo Đại cử ông Diệm làm Thủ Tướng. Về nước ngày 25 tháng 06 năm 1954, ông Diệm lấy làm lo lắng và xót xa khi thấy quốc gia đang bị băng hoại, tham ô, và quan lại. Ông phải phấn đấu và giữ sáng suốt để đương đầu trước một hoàn cảnh đầy khó khăn, phức tạp và tế nhị khi hai cường quốc Pháp và Mỹ đang tranh giành xâu xé ảnh hưởng tại Việt Nam .

NDD7.gif
 NDD8.gif
Tổng Thống Mỹ Eisenhower với nghi lễ tiếp đón Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tháng 5 năm 1957.
Vào ngày 01 tháng 10 năm 1954, Tổng Thống Mỹ Eisenhower viết cho ông Diệm một lá thư và được Đặc Sứ Mỹ Donald R. Heath trao vào ngày 23 tháng 10 năm 1954 với nội dung Mỹ cam kết ủng hộ kinh tế và quân sự cho chính phủ Ngô Đình Diệm.

Những nhân vật Mỹ chính yếu đứng sau lưng ông Diệm thời đó là Giám Đốc Cơ Quan Trung Ương Tình Báo (CIA) Đại Tá Không Quân Edward G. Landsdale và Tướng J. Lawton "Lightning Joe" Collins, Đặc Sứ của Tổng Thống Eisenhower đặc trách miền Nam Việt Nam.

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý. Ông Diệm đạt 98.2% phiếu thắng Vua Bảo Đại, và ông Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam.

Trong 9 năm thăng trầm của lịch sử, có những lúc Tổng Thống Diệm phải đương đầu với ý muốn bành trướng quân đội Mỹ tại Việt Nam . Vì muốn có chủ quyền và khỏi mất chính nghĩa, nên Tổng Thống Diệm mạnh mẽ chống lại việc đưa lính "tác chiến" Mỹ vào Việt Nam, ông chỉ nhận viện trợ và cho phép Cố Vấn Mỹ vào Việt Nam mà thôi, sự kiện này đã sinh ra bất đồng giữa hai chính phủ.

Sau những chua cay ngọt bùi, khó khăn, nguy hiểm, vinh nhục trong chức vụ Tổng Thống, sự nghiệp và sinh mạng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã kết thúc vào năm 1963, mà bắt nguồn từ biến cố Phật Giáo ngày 08 tháng 05 năm 1963 tại Huế.

Diễn biến đưa đến đảo chánh

Ngày 05 tháng 05 năm 1963, thành phố cổ kính Huế treo đầy cờ và khẩu hiệu để mừng Đức Giám Mục Ngô Đình Thục, bào huynh của Tổng Thống Diệm. Trong số cờ đó có cờ của Giáo Hội Công Giáo Vatican tức cờ nửa vàng nửa trắng và hình Đức Giáo Hoàng. Biểu tượng này được nhìn như là Tòa Thánh Vatican công nhận miền Nam và đạo Công Giáo tại Việt Nam , xóa đi hình ảnh đô hộ của Pháp Quốc lâu nay.

Ngày 08 tháng 05 năm 1963, Phật tử tại Huế treo cờ Phật Giáo để mừng Đại Lễ Phật Đản thứ 2.507, nhưng chính quyền không cho phép. Vì tức giận, tối đó một số Phật tử kéo đến biểu tình tại đài phát thanh để phản đối chính quyền. Trong khi xô xát, một quả bom nhỏ hay một trái lựu đạn phát nổ, tình hình hổn loạn. Kết quả có 9 người chết, trong đó có một trẻ em, và 20 người khác bị thương.

NDD9.gif
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Sứ Mỹ Henry Cabot Lodge
Chính quyền quy kết Cộng Sản trà trộn đặt chất nổ giết người để gây xáo trộn. Phía biểu tình kết án Thiếu Tá Đặng Sỹ ra lệnh nổ súng giết người biểu tình. Theo lời kể của ông Lãnh Sự Mỹ tại Huế: "Lính chính quyền hốt hoảng vì tiếng nổ và la hét của đám biểu tình nên xả súng bắn vào đám biểu tình". Ông John Mecklin, Phát ngôn viên tòa Đại Sứ tuyên bố: "Cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Phật Đản không khác chi đi cấm người Mỹ hát nhạc mừng trong ngày Chúa Giáng Sinh". Cũng có tin cho rằng chính phủ Tổng Thống Diệm không cho phép treo cờ Phật Giáo lớn hơn và ngang hàng với cờ Quốc Gia Việt Nam vì đó là theo luật lệ của chính phủ đã có từ lâu, chứ không phải là cấm treo cờ Phật Giáo.

Vào thời điểm này, Phật giáo có khoảng 10.5 triệu người, và Công Giáo có khoảng 1.5 triệu người.

Hôm sau, ngày 09 tháng 05 năm 1963, hơn 10 ngàn người kéo đến nhà Tỉnh Trưởng Huế biểu tình và đòi hỏi 5 điểm:

1. Hủy bỏ lệnh cấm treo cờ Phật Giáo.
2. Phật Giáo được quyền bình đẳng như Công Giáo.
3. Không được đàn áp Phật Giáo.
4. Phật Giáo được quyền thờ phượng tôn giáo của mình.
5. Chính quyền phải bồi thường cho các gia đình nạn nhân, và phải trừng trị các người có trách nhiệm trong vụ bắn chết người trong ngày 08 tháng 05 năm 1963.

Ngày 15 tháng 05 năm 1963, phái đoàn Phật Giáo gồm 8 người từ Huế vào Sài Gòn trình kiến nghị cho Tổng Thống Diệm. Tổng Thống Diệm đồng ý hầu hết các yêu sách, và hứa sẽ điều tra. Tuy nhiên Tổng Thống Diệm không chịu bồi thường cho các gia đình nạn nhân vì sợ Phật Giáo làm tới. Nhưng tuần sau Tổng Thống Diệm đổi ý, không chịu nhượng bộ Phật Giáo, sự kiện này làm Phật Giáo bất mãn.

Ngày 28 tháng 05 năm 1963, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Lãnh Đạo Phật Giáo Việt Nam lên tiếng kêu gọi biểu tình. Tại Huế, hàng ngàn tăng ni xuống đường.
NDD10.gif
Tổng Thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam : Ngô Đình Diệm

Tại Sài Gòn hàng trăm tăng ni biểu tình và tuyệt thực 48 giờ trước Quốc Hội. Đại Sứ Mỹ Frederick E. Nolting vắng mặt tại Sài Gòn, Bộ Ngoại Giao Mỹ Mỹ chỉ thị ông Phó Đại Sứ William C. Trueheart (Deputy Chief of Mission ) giải quyết.


Ngày 02 tháng 06 năm 1963, tại Huế, 500 sinh viên biểu tình chống chính quyền kỳ thị. Biến thành bạo động, cảnh sát dùng chó, lựu đạn cay tấn công đoàn biểu tình, 67 sinh viên bị thương phải vào bệnh viện. Chính quyền ra lệnh giới nghiêm Huế và cho cảnh sát, công an kiểm soát đường phố. 

Để tránh đụng chạm, Tổng Thống Diệm thải hồi 3 viên chức có trách nhiệm vụ bắn chết người biểu tình ngày 08 tháng 05 năm 1963, trong đó bị thải hồi có Thiếu Tá Đặng Sỹ. Chính quyền lên tiếng xin lỗi Phật Giáo, nói là các nhân viên chính quyền đã thiếu tế nhị khi hành xữ công tác và hứa sẽ cho một phái đoàn chính phủ tiếp xúc với Phật Giáo để bồi thường các gia đình nạn nhân.

Ngày 04 tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart gặp Ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống để yêu cầu giải quyết. Phật Giáo có gặp nhưng hai bên bất đồng ý kiến.

Ngày 07 tháng 06 năm 1963, bà Ngô Đình Nhu tức bà Trần Lệ Xuân ca ngợi tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và lên án những vị lãnh tụ Phật Giáo do Cộng Sản giật dây.

Sáng ngày 11 tháng 06 năm 1963, Phát ngôn viên của Phật Giáo thông báo cho các phóng viên, ký giả Mỹ biết sẽ có một biến cố quan trọng sẽ xảy ra tại ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng thành phố Sài Gòn. Hàng ngàn tăng ni, phật tử đứng chung quanh, HòaThượng Thích Quảng Đức 73 tuổi ngồi bình thản tự thiêu bằng xăng. Chính quyền tuyên truyền rằng Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngồi bình tỉnh là do bị chích ma túy nên không biết nóng. 

Bà Ngô Đình Nhu tuyên bố về cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức: "Tất cả cái mà các vị lãnh đạo Phật Giáo đóng góp vào quốc gia này là đi nướng một vị tăng (barbecue)".. Chính quyền Tổng Thống Diệm cho rằng việc tự thiêu là do Cộng Sản sắp đặt, và chính Đại Sứ Mỹ Nolting cũng ủng hộ lời giải thích này, ông nói: "Theo tôi nghĩ, đây là do Việt Cộng. Động lực thúc đẩy việc này là do chính trị chứ không phải do vấn đề tín ngưỡng".
NDD11.gif
Thượng Toạ Thích Quảng Ðức tự thiêu lúc 9:22 sáng ngày 11 tháng 6 nãm 1963

Cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức là ngọn lửa châm ngòi cho Phật Giáo đấu tranh kịch liệt và mạnh mẽ hơn. Hình ảnh tự thiêu đã gây xúc động nhân dân, chính phủ Mỹ và toàn thế giới. Chính phủ Mỹ lên án Tổng Thống Diệm. Bộ Ngoại Giao Mỹ chỉ thị Phó Đại Sứ Trueheart bí mật tiếp xúc với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ để báo tin cho biết là Mỹ sẽ ủng hộ Phó Tổng Thống Thơ nếu Tổng Thống Diệm ra đi.


Vì thấy Đại Sứ Mỹ Nolting quá thân với Tổng Thống Diệm, nên Tổng Thống Kennedy tuyên bố thay thế Đại Sứ Nolting bằng tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge trong khi Đại Sứ Nolting đang đi Âu Châu mà không thông báo cho ông biết.

Đại Sứ Nolting chỉ được biết qua đài phát thanh mà thôi. Tức bực, Đại Sứ Nolting phát biểu: "Tôi nói thẳng là tôi nghĩ có một số người có thế lực tại Bộ Ngoại Giao, họ là những người rất vui mừng khi thấy tôi phải ra đi bởi vì họ muốn cho ông Diệm thật nhiều sợi dây thừng để ông tự treo cổ ông ta. Có một chiến dịch đạp đổ ông Diệm làm tôi nghĩ rằng nó phát xuất từ các ông Thứ Trưởng Averrell Harriman, Roger Hilsman và một số viên chức trong Tòa Bạch Ốc. Điều đó đi ngược lại sự cố vấn của CIA. Tôi muốn các điều tôi nói đây được ghi vào hồ sơ". 

Sau này, Tướng Maxwell D. Taylor, từng là Chủ Tịch Liên Quân Hoa Kỳ (Tổng Tham Mưu Trưởng) thời đó kể lại là Ban Cố Vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm 2 phe: một phe thì muốn lật đổ Tổng Thống Diệm vì nói là "không thể thắng Cộng Sản nếu còn Tổng Thống Diệm", còn phía ủng hộ Tổng Thống Diệm mà trong đó có Tướng Taylor thì nói là "có thể chúng ta không thể thắng Cộng Sản nếu đi với Tổng Thống Diệm, nhưng nếu không đi với Diệm thì đi với ai?" Mọi người đều im lặng, không ai trả lời được câu này.

Ngày 16 tháng 06 năm 1963, Ủy Ban Chính Phủ và Phật Giáo ký bản Thông Cáo Chung, đồng ý thỏa mãn các đòi hỏi của Phật Giáo, nhưng lại không nhận trách nhiệm. Báo chí Mỹ, đài VOA chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm. Phật Giáo thay thế Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết bằng Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo cuộc đấu tranh. Theo báo cáo của CIA, Thượng Tọa Thích Trí Quang là người Bắc, sinh năm 1922, là "một người khôn lanh, thâm hiểm, không tình cảm, có mưu đồ chính trị và đầy tham vọng lãnh tụ".

Ngày 25 tháng 06 năm 1963, Trưởng Phòng CIA John Richardson tại Sài Gòn (CIA Chief Station) thất bại trong việc đứng ra điều đình giữa chính quyền Tổng Thống Diệm và Phật Giáo. Ông Cố Vấn Nhu nói: "Các lãnh tụ Phật Giáo không bao giờ tuyên bố và cũng không bao giờ chống Cộng Sản cả". Ông Nhu cũng chỉ trích thái độ mềm dẽo của Tổng Thống Diệm vì làm như vậy khiến cho chính quyền khó giải quyết vấn đề. Ông Nhu tuyên bố: "Nếu chính phủ không áp dụng luật pháp thì chính phủ sẽ sụp đổ và tôi là người đầu tiên nghĩ như thế". Ông Nhu hàm ý rằng trong tình trạng khẩn trương của đất nước, nếu cần, ông sẽ đứng ra ngoài tình cảm gia đình, ông có thể chống cả chính phủ và Tổng Thống Diệm.

Khi thấy phong trào đấu tranh của Phật Giáo bùng nổ mạnh mẽ dưới sự chỉ đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang, Tổng Thống Kennedy hỏi ông Phụ Tá Tổng Thống Michael Forrestal rằng: "Họ là ai? Tại sao chúng ta không biết đến họ trước kia vậy?”

Những ngày cuối tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart tiếp xúc Tổng Thống Diệm hàng ngày để đòi hỏi Tổng Thống Diệm nhượng bộ Phật Giáo. Vì thấy Tổng Thống Diệm không nghe lời, Phó Đại Sứ Trueheart đe dọa Mỹ sẽ không ủng hộ chính phủ Tổng Thống Diệm. Bị xúc phạm bởi những lời đe dọa của Mỹ, kể từ đây Tổng Thống Diệm tỏ ra bất cần Mỹ, và kêu gọi dân chúng thắt lưng buộc bụng để độc lập với Mỹ.

NDD12.gif
Ông Ngô Đình Nhu
Ngày 04 tháng 07 năm 1963, tờ báo viết bằng Anh ngữ Times of Viet Nam do ông Nhu tài trợ viết bài tấn công Mỹ và nói Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vì bị chích ma túy. 


Tại Hoa Thịnh Đốn, các giới chức cao cấp Bộ Ngoại Giao phúc trình Tổng Thống Kennedy biết tình trạng bất ổn tại Việt Nam và kết tội ông Nhu phá hoại bản Thông Cáo Chung ký ngày 16 tháng 06.

Tại Hoa Thịnh Đốn, bàn tán xôn xao về kế hoạch loại ông Cố Vấn Nhu và bà Nhu ra khỏi chính quyền.. Đại Sứ Nolting được gọi họp tại Tòa Bạch Ốc. Tại đây, ông Nolting khuyến cáo Tổng Thống Kennedy rằng nếu đảo chánh sẽ tạo ra nội chiến, và ông Nolting hy vọng là ông có thể thuyết phục được Tổng Thống Diệm. Mặc dù Tổng Thống Kennedy đã tuyên bố bổ nhiệm ông Henry Cabot Lodge thay thế ông Nolting để làm đại sứ tại Việt Nam, nhưng Tổng Thống Kennedy lại chỉ định ông Nolting qua Sài Gòn lần nữa để thuyết phục Tổng Thống Diệm.

Ngày 11 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting trở lại Sài Gòn. Tuyên bố với báo chí, ông nói ông qua lần này nhằm thuyết phục Tổng Thống Diệm thay đổi lập trường. Ông khuyến khích Tổng Thống Diệm lên đài phát thanh để nhận lỗi về việc tranh chấp với Phật Giáo.

Ngày 18 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting dành cả ngày thuyết phục, khuyến khích, yêu cầu và ngay cả đe dọa Tổng Thống Diệm, tuy nhiên không đạt được gì khả quan cả, trừ việc Tổng Thống Diệm đồng ý lên đài phát thanh để hứa "cộng tác" chặt chẽ với Phật Giáo. Vụ tự thiêu lần thứ hai xảy ra.

Ngày 19 tháng 07 năm 1963, Tổng Thống Diệm nói trên đài phát thanh chỉ 2 phút. Với giọng nói lạnh lùng, Tổng Thống Diệm hứa hẹn rất ít, yêu cầu mọi người kính trọng chức vụ Tổng Thống của ông, và hứa sẽ chỉ định một Ủy Ban Chính Phủ khác điều tra các khiếu nại của Phật Giáo. Dù vậy, cảnh sát vẫn tiếp tục bao vây các chùa chiền bằng dây kẽm gai.

Ngày 05 tháng 08 năm 1963, tại Phan Thiết, sư Nguyên Hương tự thiêu bằng xăng.
Ngày 13 tháng 08 năm 1963, một vị sư ở Huế quấn cờ Phật Giáo tự thiêu. 

Tại Ninh Hòa, một ni cô ngồi tại nhà thờ Công Giáo tự thiêu. 

Ngày sau đó, một vị sư 71 tuổi tự thiêu trong sân chùa Từ Đàm Huế. 

Vì phong trào Phật Giáo đấu tranh mạnh tại Huế và Nha Trang, nên chính quyền Tổng Thống Diệm ban tình trạng thiết quân luật tại hai tỉnh này. Quân đội xao động, truyền đơn rải cùng các căn cứ lính. Các quân nhân bắt đầu mang khăn quàng vào tay ủng hộ Phật Giáo đấu tranh.

Ngày 14 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting từ biệt Tổng Thống Diệm về Mỹ. Ông Nolting yêu cầu Tổng Thống Diệm thỏa hiệp với Phật Giáo và muốn Tổng Thống Diệm lên tiếng phủ nhận lời tuyên bố "đổ dầu vào lửa" của bà Nhu, cũng như muốn Tổng Thống Diệm cho biết ai là người thực sự lãnh đạo đất nước. Nếu Tổng Thống Diệm không thực hiện các điều kể trên thì "chính phủ Mỹ khó có thể tiếp tục giữ tình hữu nghị như hiện tại".
NDD13.gif
Ông cố vấn Ngô Đình Nhu, bào đệ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Tổng Thống Diệm nói với Đại Sứ Nolting rằng Hoa Kỳ phải nên hiểu rằng việc rối rắm này "không phải do Phật Giáo mà cũng chẳng phải do gia đình ông tạo nên". Tuy nhiên, có lẽ vì chỗ thân tình với ông Nolting nên Tổng Thống Diệm hứa là sẽ đưa ra một bản Thông Cáo. Thế nhưng, trong buổi phỏng vấn ngày sau đó, Tổng Thống Diệm lại tuyên bố: "Chính sách liên kết với Phật Giáo của tôi không thể thực hiện được".


Chính phủ Tổng Thống Diệm muốn đánh một ván bài chót là đàn áp Phật Giáo thật mạnh mẽ, với hy vọng là nếu thành công thì đây là món quà đón tiếp tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge.. Mỹ cho đây là kế hoạch của ông Cố Vấn Nhu.

Ngày 15 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting rời Sài Gòn. Ông Nhu cảnh giác cho các tướng lãnh Việt Nam biết chính sách Mỹ thay đổi và có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam . Ông trưng dẫn bằng chứng là Mỹ vừa ký thỏa hiệp cấm thử bom nguyên tử với Liên Sô, có nghĩa là Mỹ đi hòa hoãn với Cộng Sản.

Ngày 20 tháng 08 năm 1963, mười vị tướng lãnh yêu cầu Tổng Thống Diệm ban bố tình trạng thiết quân luật để quân đội có thể đưa các vị tăng ni ngoài Sài Gòn trở về chùa. Tối đó, ông Nhu tự ý hành động mà không thông báo cho các tướng lãnh. Tấn công chùa Xá Lợi, phá cửa chính bằng súng, lựu đạn cay, bắt bớ lên xe. Tại Huế, lực lượng an ninh dùng súng tiểu liên M1 bắn chùa Từ Đàm, bắn bể tượng Phật và tịch thu 30 ngàn mỹ kim của chùa. Gần chùa Diệu Đế, đàn bà, đàn ông, trẻ em đương đầu với cảnh sát. Sau năm tiếng đồng hồ xô xát cho đến khi có xe tăng tới, tại chùa có 30 người chết, 200 bị thương và chở giam 10 xe người.

Ngày 21 tháng 08 năm 1963, sau khi Tổng Thống Diệm ban bố tình trạng thiết quân luật, ông Nhu ra lệnh Lực Lượng Đặc Biệt (Special Forces) do Đại Tá Lê Quang Tung cầm đầu, và Cảnh Sát Dã Chiến (Combat Police) tấn công chùa chiền. Có khoảng 2 ngàn chùa chiền bị bố ráp trên toàn quốc và bắt giam hơn 1.400 vị tăng ni. Ít nhất có năm mươi đến hàng trăm người bị chết. Sự kiện này đã làm cho Mỹ tại Sài Gòn cũng như Hoa Thịnh Đốn bực tức và lên án Tổng Thống Diệm gắt gao. Tại Honolulu, ông Nolting gặp tân Đại Sứ Lodge và một số giới chức Mỹ. Ông Nolting gởi cho Tổng Thống Diệm một điện thư: "Đây là lần đầu tiên ông đã nuốt lời hứa với tôi". Hết sức chịu đựng, và không còn nhẫn nại được nữa, Tổng Thống Kennedy quyết định giao cho CIA giải quyết vấn đề.

Cũng trong ngày này, 6 giờ sáng, đài phát thanh Sài Gòn phát thanh lời Tổng Thống Diệm nói rằng 3 tháng thương thảo với Phật Giáo thất bại... Ông tuyên bố toàn nước đặt trong tình trạng thiết quân luật. Binh sĩ tại Sài Gòn mặc áo giáp, mang tiểu liên, lựu đạn cay và canh gác khắp các ngã đường, các cây cầu chính yếu. Xe Jeep trang bị súng lớn 30 caliber tuần tiểu thành phố. Sinh viên xuống đường biểu tình bất tuân lệnh thiết quân luật.
NDD14.gif


BộTrưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu từ chức, cạo trọc đầu để phản đối Tổng Thống Diệm và xin đi Ấn Độ tu học. Tệ hại hơn là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ là ông Trần Văn Chương, thân sinh của bà Trần Lệ Xuân (tức bà Nhu) từ chức và chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm là chế độ độc tài. Phái đoàn Mỹ cứu trợ phải quay trở lại Mỹ vì cảnh sát không cho phép máy bay hạ cánh. Chính phủ Mỹ bị hiểu lầm là đứng sau vụ đàn áp Phật Giáo.

Ngày 22 tháng 08 năm 1963, lúc 9 giờ 30 tối, tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Tân Sơn Nhất, Sài Gòn.
NDD15.gif
CIA Lucien E. Conein

Ngày 23 tháng 08 năm 1963, Tướng Trần Văn Đôn mời ông CIA Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu để nhận thư trao tận tay cho tân Đại Sứ Lodge, nói là quân đội không có nhúng tay trong việc đàn áp Phật Giáo vừa rồi. (Ông Lucien Conein, CIA Operative, giữ vai trò chính yếu trong việc phối hợp với các tướng đảo chánh). 


Tướng Lê Văn Kim là phụ tá của tướng Đôn và là anh em rể của tướng Đôn đòi triệt hạ ông Nhu và yêu cầu chính phủ Mỹ lên tiếng ủng hộ thì quân đội sẽ đứng lên lật đổ chính phủ Tổng Thống Diệm.

Bí thư của Tổng Thống Diệm là ông Võ Văn Hải yêu cầu bảo toàn Tổng Thống Diệm nếu loại bỏ ông Nhu. Tân Đại Sứ Lodge báo cáo về Hoa Thịnh Đốn tất cả sự kiện, nhưng ông Lodge không ủng hộ việc loại bỏ ông Nhu. Ông Lodge khuyên nếu Mỹ ủng hộ đảo chánh thì nên núp trong bóng tối.

Bức điện văn tố cáo "ông Nhu đang bị dân chúng chán ghét" được gởi đến bàn ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Roger Hilsman. Ông Hilsman lên án ông Nhu và nói rằng nếu còn ông Nhu thì chẳng những đưa miền Nam Việt Nam vào thảm họa, mà còn kéo theo Mỹ xuống bùn đen nữa. Ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Đặc Trách Chính Trị Vụ Averell Harriman cũng đồng ý là Mỹ không nên ủng hộ chính phủ Diệm-Nhu nữa.

Ngày 24 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Lodge đánh điện văn cho Bộ Ngoại Giao. Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman phúc đáp, chỉ thị cho tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn tiếp xúc với các tướng lãnh để thực hiện đảo chánh. 

Trúng vào thứ bảy cuối tuần, Tổng Thống Kennedy, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara không có mặt tại Hoa Thịnh Đốn, nhưng các phụ tá của họ như ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman, và ông Phụ Tá Tổng Thống Forrestal có mặt làm việc, với sự hỗ trợ của Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman. Các người này thảo một bức điện văn để trả lời cấp tốc cho Đại Sứ Lodge. Bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 8 năm 1963 này có nội dung như sau:

"Bộ Ngoại Giao gởi Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn để thi hành ngay lập tức.
Tối Mật. Không được phép phổ biến.
Chỉ đích thân Đại Sứ Lodge mới được phép đọc mà thôi. Đối với CINPAC/POLAD thì chỉ Đô Đốc Felt được phép đọc mà thôi.
Theo CAS Sài Gòn 0265 báo cáo về quan điểm của Tướng Đôn; Saigon 320, Saigon 316, Saigon 329. (Các con số là những ký hiệu mật mã).

NDD16.gif
Bức điện thư Mỹ ra lệnh thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu ngày 24 tháng 8 năm 1963.


Bây giờ thì rõ là hoặc quân đội đề nghị lệnh thiết quân luật hoặc ông Nhu đã lừa họ. Ông Nhu đã lợi dụng tình trạng đó để tấn công chùa chiền bằng cảnh sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Tung trung thành với ông ta, làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới ngỡ lầm rằng quân đội làm. Hơn nữa, cũng thật quá rõ là ông Nhu đã âm mưu sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy.


Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng tình trạng mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu. Ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và các thuộc hạ của ông để thay vào đó bằng quân đội tinh nhuệ và các chính trị gia có tư cách.

Nếu ông (tức Đại Sứ Lodge) cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối thì chúng ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồn tại được.

Ký tên: Hilsman, Forrestal, Ball, W.Everell Hariman ".

Sau khi soạn bản điện văn này, ông Forrestal gọi Tổng Thống Kennedy đang nghỉ cuối tuần tại Hyannis Port , Massachusetts và đọc cho nghe. Tổng Thống Kennedy hỏi lại: "Có thể chờ cho đến thứ Hai để có đủ người họp được không?". Ông Harriman và Hilsman trả lời là "phải cần gởi gấp ngay bây giờ". Nghe thế, Tổng Thống Kennedy đồng ý và bảo "hãy gởi đi". Ông Hilsman cũng gọi báo cho Ngoại Trưởng Rusk và cũng được đồng ý cho phép gởi đi. Ông Hilsman gởi ngay điện văn này qua Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, và được coi như Mỹ "bật đèn xanh" đảo chánh.

Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và Giám Đốc CIA McCone chưa được đọc bức điện văn trước khi gởi đi nên rất bất mãn. Đại Sứ Lodge nhận được điện văn và gởi ngay cho ông Xếp CIA William Colby, lúc đó đang làm Giám Đốc CIA Vùng Viễn Đông (Chief of the CIA's Far East Division) trụ sở tại Langley Virginia. Ông Xếp CIA Colby có quyền đọc tất cả điện văn tại trung tâm chỉ huy CIA ở Virginia .

Ngày 25 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Lodge báo cáo Bộ Ngoại Giao là ông đã nhận được bức điện văn, nhưng nói "căn bản quyết định vẫn là từ Hoa Thịnh Đốn".

NDD17.gif
Tướng Mỹ Maxwell Taylor và Tồng Thống Ngô Đình Diệm

Ngày 26 tháng 08 năm 1963, sáng thứ Hai, các cố vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm hai phe: Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Maxwell Taylor phàn nàn Bộ Ngoại Giao quyết định làm bức điện văn ngày 24 tháng 08 mà không hội ý các nhân vật cao cấp, tạo nên sự nghi ngờ về mức độ thành công của việc đảo chánh. Bộ Trưởng Quốc Phòng và Giám Đốc CIA cùng quan điểm. Giám Đốc CIA McCone cho rằng: "Tổng Thống Diệm là người lãnh tụ xứng đáng nhất tại Việt Nam, và CIA cũng khó mà thực hiện được tinh thần bức điện văn ngày 24 tháng 08 năm 1963". Tổng Thống Kennedy khiển trách ông Phụ Tá Forrestel đã không chịu giữ lại bức điện văn cho tới thứ Hai. Ông Forrestal xin từ chức nhưng Tổng Thống Kennedy muốn giữ ông ta lại. Bộ Quốc Phòng bất đồng với Bộ Ngoại Giao nên muốn có thêm một cơ hội nữa để thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu.


8 giờ sáng, đài VOA lên tiếng chỉ trích cảnh sát của ông Nhu tấn công chùa chiền, và minh xác là quân đội không có nhúng tay. Đài VOA cũng tuyên bố Mỹ cắt viện trợ chính phủ Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge gọi Ngoại Trưởng Rusk phàn nàn về việc đài VOA đi thông báo việc cắt viện trợ, vì 11 giờ sáng này Đại Sứ Lodge sẽ gặp trình Ủy Nhiệm Thư cho Tổng Thống Diệm. Ông Ngoại Trưởng Rush gởi điện văn qua xin lỗi ông Lodge, và đài VOA đính chính không cắt viện trợ. Trong dịp này, Đại Sứ Lodge yêu cầu Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu ra khỏi chức cố vấn, nhưng quá trễ vì lúc này ông Nhu đã trở thành tai, mắt và là bàn tay sắt của Tổng Thống Diệm.

Cũng trong ngày này, ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Trần Thiện Khiêm tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Khiêm khuyên ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Dương Văn Minh tức "Big" Minh. Tướng Minh đang là cố vấn quân sự cho Tổng Thống Diệm, và càng tréo cẳng ngổng nữa là ông ta cũng lại là Chủ Tịch Ủy Ban Đảo Chánh. Trong khi đó thì ông CIA AlSpera bay lên vùng cao nguyên để gặp tướng Nguyễn Khánh. Tướng Khánh không nêu danh tánh các tướng tham dự đảo chánh, nhưng khi nghe nhắc đến tên tướng Khiêm thì tướng Khánh nói "chúng tôi thích vậy".

NDD18.gif
Ông Robert McNamara, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và Đại Tướng Maxwell Taylor, Chủ Tịch Ủy-Ban Tham-Mưu liên quân Hoa Kỳ, đã đến Sài Gòn ngày 24 tháng 9 năm 1963 để hội kiến với ôngHenry Cabot Lodge, Đại sứ Hoa Kỳ bên cạnh chính phủ Việt-Nam Cộng-Hoà. Chuyến công du của hai Ông McNamara (trái) và Tướng Taylor (giữa) sang Việt Nam có mục đích tìm hiểu tình hình tại chỗ liên quan đến những xáo trộn xảy ra trong thời gian qua.
Thứ Ba ngày 27 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy họp các cố vấn cao cấp lại. Có cựu Đại Sứ Nolting tham dự. Ông Nolting không tin tưởng cuộc đảo chánh thành công vì ông cho rằng các tướng đảo chánh không can đảm như anh em ông Diệm-Nhu, họ không thống nhất mà lại chia rẽ, họ không có lãnh đạo thật sự và họ không có thực lực quân đội trong tay. Tổng Thống Kennedy hỏi lại ông Nolting: "Tại sao Tổng Thống Diệm không giữ lời hứa với chúng ta? Tại sao chính quyền Tổng Thống Diệm dùng sức mạnh đàn áp Phật Giáo? Bà Nhu hiện đang nắm chức quyền gì?". Ông Nolting cố bào chữa cho Tổng Thống Diệm và đề nghị chính phủ Mỹ nên cho thêm một cơ hội nữa để đòi Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu và truất quyền bà Nhu. Ông Nolting nói với Tổng Thống Kennedy rằng: "Ông Diệm và ông Nhu cũng giống như cặp song sinh Siamese dính nhau nên không thể tách ra được". Ông Nolting cũng nhắc cho Tổng Thống Kennedy biết về việc 3 năm trước đây, ông Đại Sứ Mỹ Durbrow cũng đòi Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu nhưng thất bại nên đã trở về Mỹ. Tổng Thống Kennedy mỉm cười và nói rằng: "Nếu ông nói đúng, thì chuyến đi của Đại Sứ Lodge kỳ này sẽ là chuyến đi ngắn nhất trong lịch sử". Cuối cùng Tổng Thống Kennedy vẫn giữ lập trường ủng hộ bức điện văn ngày 24 tháng 08.

Tại Sài Gòn tất cả trường học đóng cửa, ra lệnh bắt đối lập, tin tức đảo chánh loan truyền. Các tướng đảo chánh âm thầm di chuyển các đơn vị Dù vào Sài Gòn. Có 2 đơn vị Dù khác có thể tiến vào thủ đô trong vòng 8 tiếng đồng hồ. Chính quyền Diệm-Nhu ra lệnh bố trí chống đảo chánh.

Người tín cẩn nhất của chính quyền Diệm-Nhu là Tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Thủ Đô Sài Gòn. Trong tay có 2,500 lính Dù, 1,500 lính Thủy Quân Lục Chiến, 700 Quân Cảnh... Ngoài ra Tướng Đính có liên hệ với Sư Đoàn 5 Bộ Binh.

Chính quyền Diệm-Nhu có Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy 1,700 lính Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, 900 lính Lực Lượng Đặc Biệt và 700 Cảnh Sát Dã Chiến.

Ngày 08 tháng 08 năm 1963, ông CIA Conein gặp lại các tướng đảo chánh lần thứ nhì, gồm các Tướng: Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim và Đại Tá Nguyễn văn Thiệu. Các tướng muốn Mỹ chính thức ủng hộ cuộc đảo chánh bằng sự lên tiếng của Đại Sứ Lodge.

Ông Trưởng Phòng CIA John Richardson khuyến cáo rằng tình hình không thể thối lui. Sài Gòn bây giờ đã biến thành một trại lính. Đây là trận đánh cuối cùng của gia đình Tổng Thống Diệm. Ông tiên đoán rằng các tướng đảo chánh sẽ thắng, tuy nhiên phải thuyết phục cho được Tướng Tôn Thất Đính và Đại Tá Lê Quang Tung gia nhập đảo chính. Đảo chánh sẽ chết nhiều sinh mạng. Ông Đại Sứ Lodge ủng hộ đảo chánh và nói rằng "nếu trễ sẽ bị thất bại". Trái với ý kiến của ông Trưởng Phòng CIA Richardson và Đại Sứ Lodge, Tướng Paul D. Harkins, Tư Lệnh Quân Đội Mỹ tại Việt Nam nghi ngờ khả năng các tướng đảo chánh. Ông khuyên Mỹ nên đứng ngoài cuộc đảo chánh.

Tại Hoa Thịnh Đốn, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia họp ủng hộ đảo chánh. Cựu Đại Sứ Nolting phản đối nói rằng: "Nếu Mỹ bỏ rơi hai ông Diệm-Nhu tức là Mỹ đã nuốt lời cam kết trong quá khứ". Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman chống lại ý kiến ông Nolting, và chỉ trích ông Nolting đã không phục vụ quyền lợi nước Mỹ trong thời gian ông làm đại sứ tại Việt Nam .. Tổng Thống Kennedy phân vân, nhưng cuối cùng đồng ý ủng hộ cuộc đảo chánh, tuy nhiên ông muốn trao quyền quyết định cho Đại Sứ Lodge. Tổng Thống Kennedy nói với ông Lodge: "Tôi tin là ông sẽ không ngại ngùng khi đưa ra quyết định đình hoãn hay thay đổi kế hoạch đảo chánh nếu ông nghĩ là cần thiết".

NDD19.gif
Các tướng Kim, Đính, Đôn, Vỹ và Xuân tại nhà nghỉ Đà Lạt năm 1964

Bây giờ, Ngoại Trưởng Rusk tự tay gởi điện văn cho Đại Sứ Lodge, chỉ thị mọi cách phải loại bỏ cho được ông bà Nhu ra khỏi chính quyền. Khoan cắt đứt viện trợ mà hãy chờ cho đến khi nào các tướng sẵn sàng đảo chánh. Sợ rằng nếu Tổng Thống Diệm biết được thì Tổng Thống Diệm sẽ kêu gọi Bắc Việt ủng hộ để đánh đuổi Mỹ.


Ngày 29 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy gởi điện văn cho Đại Sứ Lodge: "Tôi chấp thuận tất cả những điều đề cập trong cái điện văn mà những vị khác gởi cho ông (tức bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 8), và tôi ủng hộ các điều đó hết mình. Chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức để có thể giúp ông hoàn thành sứ mạng này một cách mỹ mãn. Cho đến khi các tướng lãnh ra tay, tôi xin được dành cái quyền thay đổi kế hoạch hay đảo ngược chỉ thị vào giờ chót. Tôi hoàn toàn nhận hết trách nhiệm về bất cứ sự thay đổi nào, và tôi cũng chịu hoàn toàn trách nhiệm về kế hoạch này và hậu quả của nó".

Tại Sài Gòn, Chánh Phòng CIA Richardson và ông CIA Conein nhận điện văn của tướng Cố Vấn Quân Sự Tổng Thống Taylor từ Hoa Thịnh Đốn, đòi phải "suy nghĩ lại" việc ủng hộ đảo chánh. Vì 10 giờ sáng phải gặp lại Tướng Minh, do đó ông Chánh Phòng CIA Richardson ra lệnh cho ông CIA Conein không được tuyên bố gì mà chỉ đến nghe và về trình lại ý kiến của Tướng Minh thôi.

Tướng Minh đòi hỏi Mỹ phải chứng tỏ việc ủng hộ các tướng lãnh đảo chánh, bằng cách tuyên bố Mỹ cắt viện trợ kinh tế cho chính phủ Diệm. Đại Sứ Lodge điện về Ngoại Trưởng Rusk nói là quá trễ để mà suy nghĩ lại, ông nói: "Chúng ta đã bước sâu quá rồi nên không thối lui được, hãy dồn mọi nỗ lực ủng hộ các tướng đảo chánh ngay". Đại Sứ Lodge xin phép để Tướng Harkins tiếp xúc với các tướng đảo chánh và cũng yêu cầu Mỹ cắt viện trợ kinh tế chính phủ Diệm để các tướng đảo chánh tin tưởng có Mỹ ủng hộ. Cùng ngày, Tòa Bạch Ốc cho phép Tướng Harkins tiếp xúc các tướng đảo chánh và cho phép Đại Sứ Lodge cắt đứt viện trợ kinh tế chính phủ Diệm. 

Tổng Thống Kennedy gởi thư riêng cho Đại Sứ Lodge nói rằng Tổng Thống Kennedy ủng hộ các kế hoạch đảo chánh của ông Lodge. Tuy nhiên Tổng Thống Kennedy không đồng ý với ông Lodge về việc ông Lodge nói là "không thể thối lui được". Tổng Thống Kennedy nhắc Đại Sứ Lodge về kinh nghiệm đau thương tại Vịnh Con Heo ở Cu Ba. Tổng Thống Kennedy nói: "Kinh nghiệm dạy tôi rằng sự thất bại mang lại cái tệ hại nhiều hơn là việc đi thay đổi quyết định...Khi chúng ta làm, chúng ta phải thắng, nhưng nếu cần phải thay đổi quyết định thì cũng phải nên thay đổi, hơn là để thất bại".

Thứ Sáu, ngày 30 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy lo có cảnh tắm máu tại Sài Gòn. Ông đưa ra kế hoạch dự trù di tản gần 5,000 cư dân Mỹ tại Việt Nam . Một tàu chiến chở trực thăng, tàu tấn công, tàu destroyer nằm sẵn tại ven biển Việt Nam . Tại Okinawa, có 3,000 Thủy Quân Lục Chiến ứng trực 100%. Tại Bộ Ngoại Giao, Phụ tá Ngoại Trưởng Hilsman báo cáo lên Ngoại Trưởng Rusk rằng có thể trận đánh đảo chánh kéo dài quá lâu, và nếu vậy thì quân đội Hoa Kỳ phải nhảy vô vòng chiến để ủng hộ phe đảo chánh cho thành công.

Ngày 31 tháng 08 năm 1963, Tướng Minh thông báo cho Tướng Harkins biết là kế hoạch đảo chánh phải "trì hoãn".. Các tướng đảo chánh sợ sự thân thiết giữa Chánh Phòng CIA Richardson với Tổng Thống Diệm sẽ làm bại lộ kế hoạch đảo chánh. Tướng Harkins mời Tướng Minh đến cơ quan MACV, và hứa là Mỹ ủng hộ các tướng đảo chánh.. Tướng Khiêm thông báo cho Tướng Minh biết ý kiến của Mỹ.

Ngày hôm sau, Tướng Khiêm lại gặp Tướng Harkins. Tướng Minh lo hoạch định kế hoạch đảo chánh. Tướng Khiêm thì cho biết là các tướng không có đủ sức thắng lực lượng trung thành Tổng Thống Diệm. Lực lượng lính Bộ Binh sẽ không tham dự đảo chánh nếu không đánh tới cùng. Tướng Harkins và ông Chánh Phòng CIA Richardson báo cáo thẳng về Hoa Thịnh Đốn nói là kế hoạch đảo chánh bất thành. Đại Sứ Lodge than: "Không có ai, không có tổ chức nào trong đám tướng lãnh này làm nên trò trống gì cả". Tin tức các tướng bỏ cuộc đảo chánh khiến cho Tổng Thống Kennedy và các cố vấn tại Tòa Bạch Ốc hoang mang.

Đầu tháng 9 năm 1963, Tổng Thống Kennedy chỉ định Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara qua Việt Nam . Tháp tùng có một số cố vấn cao cấp trong đó có Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng William Bundy. Tại Việt Nam có 800 học sinh bị bắt nhốt.

Ngày 02 tháng 09 năm 1963, Tổng Thống Kennedy trả lời câu phỏng vấn của Walter Cronkite trên đài CBS rằng Mỹ vẫn tiếp tục ủng hộ miền Nam Việt Nam, nhưng ông nói tiếp: "Tôi không nghĩ là có thể thắng chiến tranh được trừ khi họ được nhân dân ủng hộ. Và theo ý tôi, trong 2 tháng qua chính phủ Diệm đã quá xa rời quần chúng". 

Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman suy diễn lời chỉ trích trực tiếp và công khai này của Tổng Thống Kennedy rằng sẽ có một cuộc đảo chánh, nhưng không biết bao giờ xảy ra. Dù vậy, các tướng đảo chánh vẫn án binh bất động. Cùng ngày, phe ông Nhu viết bài trên báo Times of Viet Nam lên án Mỹ ủng hộ đảo chánh.

Ông Xếp CIA Colby nói: "Ý họ muốn khuyên chúng ta nên đứng ngoài". Bà Nhu viết bài chửi Mỹ. Bà xưng bà là người cứu tinh cho miền Nam Việt Nam, và bà còn tố cáo Mỹ và Cộng Sản giật dây Phật Giáo biểu tình làm loạn. Bà tố cáo Đại Sứ Lodge mưu sát bà. Để trả thù, em bà Nhu là ông Trần Văn Khiêm lập một danh sách ám sát lại người Mỹ. Trong cuộc phỏng vấn với ký giả Úc Denis Warner, ông Khiêm tiết lộ các người Mỹ nằm trong danh sách bị ám sát đó có tên ông Chánh Phòng CIA Sài Gòn Richardson, ông CIA Conein và Phát Ngôn Viên Tòa Đại Sứ John Mecklin. Tình cảm giữa Việt Nam và Hoa Kỳ căng thẳng và tồi tệ trầm trọng.

Trong thời điểm này, Hoa Thịnh Đốn bất mãn việc Pháp đứng làm trung gian giải quyết chiến tranh Việt Nam . Đại Sứ Pháp đến miền Nam Việt Nam thảo luận bí mật với Hồ Chí Minh và Tổng Thống Diệm qua trung gian của người Ba Lan tên Mieczyslaw Maneli, thành viên Polish Member of the International Control Commission, cơ quan này được thiết lập để quan sát Hiệp Định Genève. Trong suốt nhiều tháng, Maneli qua lại Sài Gòn - Hà Nội nhiều lần để tìm giải pháp thương thảo. Vào tháng 07 năm 1963, Bắc Việt đồng ý căn bản là lập chính phủ Liên Hiệp cầm đầu bởi Tổng Thống Diệm để miền Nam trở thành trung lập. Họ muốn Mỹ phải rút quân..

10 giờ 30 sáng ngày 6 tháng 9 năm 1963, tại buổi họp trong Tòa Bạch Ốc, Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, tức bào đệ của Tổng Tống John Kennedy nêu ra các câu hỏi: "Liệu có thắng hai ông Diệm-Nhu? Liệu ông Nhu có bị ông Diệm loại bỏ? Phải xử sự ra sao nếu không thể thắng ông Diệm được?". Cuối cùng ông Robert Kennedy đề nghị phải cứng rắn với Tổng Thống Diệm và cắt đứt viện trợ. Bộ Trưởng Quốc Phòng trả lời là không có cái tin tức nào chính xác cả. Tướng Taylor đề nghị cử Tướng Victor Krulak đi Việt Nam . Bộ Ngoại Giao cử ông Joseph A. Mendenhall tháp tùng.

6 giờ sáng ngày 08 tháng 09 năm 1963, hai viên chức này đến Việt Nam . Tướng Krulak phỏng vấn 80 cố vấn Mỹ luôn cả các viên chức cao cấp. Nhà Ngoại Giao Mendenhall lại dành thì giờ đi Sài Gòn, Huế, Đà Nẳng để thăm viếng một số bạn bè cũ.

Ngày 09 tháng 09 năm 1963, hai vị này trở về Hoa Thịnh Đốn phúc trình lại cho Tổng Thống Kennedy. Tướng Krulak báo cáo là "tinh thần chiến đấu cao và tốt. Việc xáo trộn chính trị không ảnh hưởng gì đến việc đánh giặc. Dân chúng ghét ông Nhu thôi chứ không ghét Tổng Thống Diệm". Trái lại, nhà ngoại giao Mendenhall thì báo cáo là "chính phủ Diệm bị dân chúng chán ghét, chế độ sắp sụp đổ, và không thể chiến thắng Cộng Sản được nếu còn Diệm-Nhu". Nghe xong hai báo cáo, Tổng Thống Kennedy ngơ ngẫn vì hai báo cáo hoàn toàn trái ngược nhau, khiến T.T. Kennedy phải hỏi: "Có phải là hai vị đã đến cùng một quốc gia không vậy?" Tuy vậy, Tổng Thống Kennedy ra lệnh cho các cố vấn nghiên cứu việc cắt viện trợ kinh tế Việt Nam .

Ngày 11 tháng 09 năm 1963, Tổng Thống Kennedy lại nói chưa thể cắt viện trợ chính phủ Diệm. Không được đảo chánh. Tổng Thống Kennedy muốn thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu khỏi chính quyền...

Ngày 17 tháng 09 năm 1963, Hội Đồng An Ninh chỉ thị Đại Sứ Lodge hòa hoãn với Tổng Thống Diệm, nhưng bằng mọi cách thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu. Đại sứ Lodge rất bất mãn vì lệnh này, ông muốn đảo chánh Diệm và cắt đứt viện trợ. Đại Sứ Lodge liên lạc với Tướng Minh bàn việc đảo chánh. Hội Đồng An Ninh muốn tìm một giải pháp khác. Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Taylor qua Việt Nam để nhìn tận mắt tình hình Phật Giáo, và nếu cần thì phải áp lực Tổng Thống Diệm. Tháp tùng trong chuyến đi có ông Xếp CIA Colby, đại diện Tòa Bạch Ốc Forrestal, đại diện Bộ Ngoại Giao William Sullivan và Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng P. Bundy.

Trước khi trở lại Hoa Thịnh Đốn, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, Tướng Taylor và Tướng Harkins ghé thăm Tổng Thống Diệm tại Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm hút thuốc liên miên và chỉ tay vào bản đồ để khoe thành tích tiến triển tốt đẹp. Ông McNamara nhắc Tổng Thống Diệm về các xáo trộn chính trị và tình hình nguy ngập. Tổng Thống Diệm không đồng ý và bào chữa rằng đó là do báo chí xuyên tạc làm người Mỹ hiểu lầm. Tổng Thống Diệm phàn nàn các học sinh nông nổi, thiếu giáo dục và không hiểu trách nhiệm nên gây rối trật tự, do đó không có giải pháp nào hơn là tống giam họ. Tổng Thống Diệm thú nhận đã để xáo trộn là vì ông "quá nhẹ tay và đối xử quá tốt với Phật Giáo".

Tổng Thống Diệm lên án Mỹ ủng hộ đảo chánh. Vì trước khi đi, Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh các nhân viên đừng có ý kiến gì về vấn đề này nên mọi người đều nín thinh. Bộ Trưởng McNamara hỏi tại sao chính phủ không cải chính những lời tuyên bố "ồn ào" của bà Nhu, và nhắc đến việc bà Chiang Kai-shek lạm quyền nên đẩy nước Tàu vào tay Cộng Sản. Tổng Thống Diệm biện minh rằng "bà Nhu là một dân biểu, nên bà có quyền phát biểu theo ý của bà. Người Mỹ phải thông cảm cho bà vì bà bị báo chí truyền thông tấn công và xuyên tạc bà với đầy ác ý". Phái đoàn không lấy làm thỏa mãn về thái độ của Tổng Thống Diệm.

Ngày 02 tháng 10 năm 1963, phái đoàn trở về Hoa Thịnh Đốn báo cáo tình hình với Tổng Thống Kennedy: "Về lãnh vực quân sự tốt, nhưng sự tai tiếng chính trị của hai ông Diệm-Nhu sẽ làm xấu đi". Thảo kế hoạch cắt viện trợ chương trình Commodity Import Program, đó là chương trình viện trợ kinh tế giúp Việt Nam 40% số lượng nhập cảng của quốc gia, và sinh ra một số ngân quỹ lớn cho quân đội. Tổng Thống Kennedy tuyên bố giờ phút này các cố vấn trong chính phủ ông không còn có những ý kiến dị biệt nữa.

Cùng Nhau Ðoàn Kết Ðứng Lên

 
 
Đảng cộng sản Việt Nam là một đảng độc tài chuyên chế cai trị đất nước bằng bạo lực công an trị. Là một bộ phận cuả Quốc Tế Vô Sản, đảng cộng sản Việt Nam chủ trương cướp chính quyền để thống trị nhân dân Việt Nam nhằm  xử dụng xương máu cuả nhân dân và tài lực cuà đất nước Việt Nam để  bành trướng chủ nghiã cộng sản phục vụ quyền lợi cho đế quốc cộng sản Liên Xô. Nhưng hôm nay đế quốc cộng sản Liên Xô đã sụp đổ vì mục tiêu không tưởng và đã chia thành nhiều quốc gia tự trị, vậy đảng cộng sản Việt Nam vẫn hô hào tiến lên chủ nghiã xã hội để làm gì, và để phục vụ cho ai ?
 
Dựa vào những khẩu hiệu và chủ trương sắt máu, đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục cưỡng bức nhân dân Việt Nam phải tuyệt đối trung thành và hy sinh cho đảng cộng sản Việt Nam.  Người dân không được quyền sống cho ra con người có nhân phẩm, có nhân quyền, có tự do, có dân chủ, gây nên cảnh bất công trong xã hội, gây nên cảnh giầu nghèo tương phản giữa nhân dân và đảng viên việt cộng. Nhân dân đau khổ bịnh tật không đủ tiền chữa trị, nhân dân thiếu thốn nghèo đói không đủ cơm ăn, tệ nạn xã hội ma tuý, đĩ điếm lan tràn, cướp cuả hãm hiếp thù hận chém giết nhau, đánh đập nhau, chửi  rủa lẫn nhau thậm tệ xẩy ra hàng ngày, cảnh chèn ép đè đạp lên nhau để tranh giành miếng ăn chả khác gì cầm thú, trong khi đảng viên việt cộng trở thành lũ đại gia, bọn tư bản đỏ sài tiền vung qua cửa sổ. Tất cả mọi tội lỗi này đều do đảng cộng sản Việt Nam gây ra . . .  
 
Nhân dân Việt Nam có muốn mãi mãi sống như thế này hay không? Không nói ra mọi người đều rõ câu trả lời. Đó là không ai lại muốn phải sống mãi mãi như thế này cả. Nhưng không muốn sống như thế thì nhân dân Việt Nam phải vùng lên đấu tranh mới có thể thoát khỏi gông cùm tàn bạo cuả cộng sản được, và có thoát khỏi cái gông cùm xiềng xích đang trói buộc hôm nay thì mới có được đời sống tự do, mới thực sự được sống cho chính mình và gia đình mình, mới thực hiện được những ước mơ mà mình ấp ủ cho tương lai, mới được hưởng những cơ hội để phát huy hết khả năng, hết sáng kiến để thăng tiến cuộc đời, không phải chỉ cho riêng mình mà còn có cả tương lai cuả con cuả cháu, muốn đạt được điều này thì nhân dân Việt Nam phải nhất quyết cùng nhau thực hiện cho bằng được điều kiện tiên quyết là: cùng nhau đứng lên đấu tranh cho  tương lai cuả mình  không còn sợ hãi bạo quyền cộng sản nữa .
 
Cam đảm đứng lên đấu tranh là dấu hiệu cuả những con người không chiụ bị khất phục , không chấp nhận thân phận làm nô lệ dù cho là bất cứ chính thể nào. Cùng nhau đoàn kết đứng lên để xây dựng sức mạnh mới có khả năng giành lại được những gì đã mất, đã bị đảng cộng sản Việt Nam dùng bạo lực trấn lột và cướp đoạt.  Nhân dân Việt Nam có đoàn kết cùng nhau đứng lên ta mới mới có được sức mạnh để đánh thẳng vào mặt bạo quyền hung ác việt cộng làm cho chúng phải buông tha chúng ta ra, cuộc đời cuả chúng ta phải do chúng ta là chủ.  Khi nhân dân Việt Nam đã đoàn kết nhất tề đồng loạt đứng lên thì không một kẻ thù nào có thể chống đỡ nổi. Như vậy nhân dân Việt Nam hãy can đảm cùng dựa lưng nhau đứng lên để chiến đấu và chiến thắng, và cùng đoàn kết  với nhau chúng ta không còn sợ hãi nữa và không khoan nhượng nữa.
                                                    
 Mỗi một xóm, mỗi một làng, mỗi một phường hãy vận động nhau cùng đứng lên giành lại các quyền lợi cuả một người dân phải được hưởng trong một đất nước hoà bình, đó là :
 
-  Quyền được quyền bầy tỏ quan điểm  và phát biểu ý kiến xây dựng đất nước công khai trên báo chí.
 
-  Quyền được phản đối công khai những kẻ áp bức cướp nhà cướp đất làm điều sai trái sằng bậy trên báo chí.
 
- Quyền được truy tố những kẻ cầm quyền đàn áp bắt bớ giết hại người dân qua hệ thống toà án dân sự.
 
- Quyền được đòi hỏi hiến pháp phải có những luật lệ rõ ràng để bảo vệ tính mạng , quyền lợi và tài sản cuả người dân.
 
- Quyền được chọn lựa người đại diện cho chính mình trong các cấp chính quyền mà không phải do Mặt Trận Tổ Quốc chọn lựa dùm.
 
- Quyền được tham gia ứng cử vào các cấp chính quyền để bảo vể quyền lợi cuả dân vì đất nước là tài sản cuả toàn dân.
 
Trong thời kỳ Hán thuộc, đất nước ta bị nước Tầu đô hộ, anh hùng nghiã sĩ nào đứng lên hô hào nhân dân đánh đuổi quân Tầu xong thì người đó xưng vương làm chủ đất nước, vì khi đó đất nước còn trong thời kỳ quân chủ . Nhưng hôm nay đã khác thời đại quân chủ đã chấm dứt, suốt mấy chục năm nay nhân dân Việt Nam đã phải đổ biết bao xương máu để bảo vệ đất nước, vì thế không có lý do gì đảng cộng sản Việt Nam có quyền áp dụng chế độ độc tài đảng trị cộng sản lên trên đất nước Việt Nam như thời quân chủ phong kiến xa xưa để tiếp tục kiểu truyền ngôi cho con cháu như các triều đại quân chủ phong kiến xa xưa. nhân dân Việt Nam nhất quyết không chấp nhận bị đè đầu cưỡi cổ như một bầy nô lệ nữa, bởi vì đất nước Việt Nam là cuả toàn thể nhân dân Việt Nam do ông cha để lại, chứ không phải là tài sản riêng cuả đảng cộng sản Việt  Nam.
 
Toàn dân Việt Nam nhất quyết phải vùng lên đấu tranh để xoá bỏ thân phận nô lệ và dành lại quyền làm người trong một đất nước có tự do và dân chủ. Toàn thể nhân dân Việt Nam hãy cam đảm , hãy cùng nhau đoàn kết cùng nhau đứng lên đấu tranh trong vị thế và khả năng cá biệt cuả mỗi người và tranh đấu với bất cứ mọi loạt khí giới đang sẵn có trong tay. Chắc chắn Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Việt Nam tại Hải Ngoại sẽ hết lòng yểm trợ đồng bào quốc nội với tất cả tấm lòng và khả năng để đất nước Việt Nam sớm giành lại được sự tự do dân chủ và nhân quyền cho nhân dân Việt Nam.  
 
Trần Trọng Hiếu.