torsdag 17. september 2009

Vấn đề của Giáo Hội Việt Nam cũng như của các Giáo Hội khác dưới quyền cai trị của chế độ cộng sản là vấn đề muôn thuở giữa Thiện và Ác, giữa Thiên Chúa với Satan. Nói vậy chắc các vị quốc doanh sẽ phật ý, nhất là vị nào đã xác tín rằng "Ðảng cộng sản Việt Nam luôn luôn nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật......" Như vậy đảng cộng sản Việt Nam khác các đảng cộng sản trên thế giới, vì đảng cộng sản Việt Nam đã đi theo sát gót Ðức Giêsu hơn người công giáo, hơn cả một số vị lãnh đạo tinh thần cao cấp của Giáo Hội công giáo. Vì các vị nầy, bước theo Ðức Giêsu là Ðường, là Sự Thật, nhưng các ngài không "luôn" nhìn vào sự thật được như Ðảng cộng sản Việt Nam, vì các ngài cũng có khi sai lầm nhìn vào sự giả dối.

Tại Việt Nam, vấn đề muôn thuở nầy được thay hình đổi dạng theo nhu cầu sức khỏe của chế độ cộng sản của xã hội chủ nghĩa:

1. Từ sau ngày 30/4/1975 đến nửa thập niên 80, khi chế độ cộng sản mạnh với uy quyền của đế quốc cộng sản quốc tế, thì vấn đề của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề bắt bớ và chống đối. Ở trong nước thì Giáo Hội bị bắt bớ trên cả hai bình diện pháp lý và thực tế. Trên mặt pháp lý thì Giáo Hội không được xem như là một pháp nhân, nghĩa là không còn một quyền lợi xã hội nào hết, vì thế bị tước đoạt hết tài sản, tước đoạt hết mọi cơ cấu sinh hoạt như chủng viện, dòng tu, trường học, bệnh viện.... Tất cả các nhân sự của Giáo Hội như là linh mục đều bị đi cải tạo tại các tù ngục hoặc bị giam lỏng tại gia đình và mất quyền sinh hoạt nghĩa vụ của linh mục. Còn người công giáo thì bị xem như là công dân hạng nhì, mất hết quyền lợi công dân, mà chỉ còn lại nghĩa vụ. Giáo Hội bị tước lột hết mọi quyền bính, bị đoạt quyền pháp nhân. Nói một cách vắn tắt là nhà nước cộng sản xem Giáo Hội công giáo như đã chết trước mặt pháp luật, và người công giáo là kẻ thù của nhân dân, nên phải tìm đủ mọi cách để thanh toán cho hợp pháp, nhất là các vị lãnh đạo tinh thần. Giáo Hội ở trong nước bị đặt trong tình cảnh đá đè trên cỏ, nên Giáo Hội ở hải ngoại đã nổ lực lên tiếng phản đối, tổ chức các hội đoàn, các cơ cấu chính trị để "chống cộng", nghĩa là lên án sự bắt bớ Giáo Hội tại quê nhà.

2. Nhưng vào thập niên 80-90, khi mà cộng sản cảm thấy ý thức hệ cộng sản bị dư luận quốc tế lên án, các anh hùng cộng sản thời đại như Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh bị xuống giá trong đầu óc giới trẻ, thì nhà nước cộng sản Việt Nam thay đổi thái độ đối với Giáo Hội. Các cụ triết gia khoa học xã hội, các cụ quốc doanh, ngồi lại nghiên cứu vấn đề tôn giáo để tuyên bố lại một giáo điều mới: Tôn giáo không còn là thuốc phiện ru ngủ con người, mà là "nhu cầu của một bộ phận nhân dân." Dựa vào khám phá mới của khoa tôn giáo học nầy, nhà nước đưa ra nghị định tôn giáo mới để chuẩn bị cho một đường lối "hòa hợp hòa giải", một sự sống chung hòa bình cho "tốt đời đẹp đạo". Ở hải ngoại thì chiến dịch bài chống cộng được đưa vào các hang cùng ngỏ hẻm, chiến dịch ấy gọi là "Hoa hồng đỏ hải ngoại". Một số linh mục tuyên úy đã tuyên bố: Ðã đến lúc không còn hận thù nữa, mà phải quên quá khứ để xây dựng tương lai. Chống cộng là điều hủ lậu, xưa như trái đất. Thế là các đảng phái chính trị hải ngoại bị xẹp như trái bong bóng đâm thủng, vì các lãnh tụ được mời về hợp tác tại quê nhà. Các hội đồng công giáo bớt nghị lực chống cộng vì các vị tuyên úy phải lấy đức bác ái tha thứ làm đầu trong công tác mục vụ.

3. Qua giai đoạn 3, sau khi bức thành Bá Linh, tượng trưng cho uy quyền và sự bưng bít của đế quốc cộng sản bị sụp đổ, thì trong thế giới cộng sản chỉ còn lại Trung Hoa, Bắc Hàn và Việt Nam. Cuba đúng ra không phải là một nước cộng sản hoàn toàn theo thuyết Mác-Lê. Cộng sản Việt Nam cảm thấy mất đi điểm tựa, lại bị đàn anh Trung Quốc sẵn sàng sửa phạt vì tội phản bội.. Chỉ còn lại một đường sống là "tự túc tự cường". Nhưng tự túc tự cường làm sao đây? Và đỉnh cao trí tuệ đã không khó khăn tìm ra giải pháp. Nếu Ðảng cộng sản Việt Nam sống trên xương máu của nhân dân, thì đảng cộng sản cũng có thể chết vì sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh của nhân dân, khi cộng sản yếu thế, là sức mạnh tinh thần, do các tôn giáo nuôi dưỡng. Như vậy muốn sống còn thì phải dựa vào tôn giáo. Sức mạnh tôn giáo lớn nhất là công giáo. Nếu hòa đồng được với công giáo là cộng sản sẽ sống còn.

Bắt đầu là các linh mục quốc doanh. Họ là con cái đứng ra chống đối cha mẹ, là Giáo Hội Việt Nam nói chung. Nhưng đây chỉ là đoạn mở đầu để tạo nên bỡ ngỡ. Họ là con cờ chống đối chiến thuật, rồi sự chống đối nầy sẽ trở nên sự tiếp tay, như chúng ta sẽ thấy về sau. Tiếp đến các năm sau 1995, không ai trong chúng ta ở hải ngoại mà không thấy "cha mẹ chúng ta" là các giám mục đã tỏ ra một thái độ khó hiểu, mơ hồ, xem ra như gián tiếp bênh vực cho CSVN và trách móc con cái ở hải ngoại: Các Ngài tuyên bố: nếu lên tiếng chống đối thì các ngài sẽ khó làm việc tại quê nhà. Ðó là gián tiếp bịt miệng con cái, gián tiếp còng tay chân con cái không cho hoạt động giúp giải phóng Giáo Hội và quê hương. Và trong khi đó thì tại quê nhà, con cái ngày đêm rình chực nghe đài Vatican, Veritas hoặc B.B.C, V.O.A hay R.I.F để mong có tin hoạt động gì của anh em bên ngoài, hầu giúp giải thoát được quê hương và Giáo Hội.

Nếu chính sách mềm dẻo nầy, cuối cùng có thể giải thoát được Giáo Hội, thì tại sao Ðức Giáo Hoàng của chúng ta đã loại bỏ ? Và nếu Ngài đã loại bỏ và nhờ đó làm sụp đổ được bức tường Bá Linh, thì tại sao chúng ta lại còn tiếp tục chạy theo, để đưa vào áp dụng cho Việt Nam, chúng ta không muốn cứu Giáo Hội Việt Nam khỏi ách cộng sản ư ?Chính sách của cha mẹ chúng ta hiện nay có phải là chính sách của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không ?
Chỉ còn một cách duy nhất là chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ lại thật chu đáo biến cố và tìm hiểu ý nghĩa của nó. Rồi hãy cùng nhau lui lại sự thật lịch sử của ngày 20/7/1954 và ngày 30/4/1975.

Trích lời Ð.Ô Hoài

mandag 14. september 2009

Những Câu Nói Bất Hủ

Những Câu Nói Bất Hủ.

Tổng thống Nguyễn văn Thiệu cũng để lại cho dân miền Nam một câu nói bất hủ, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm!” Câu nói để đời này gói trọn những kinh nghiệm xương máu về cộng sản của vị tổng thống thứ hai của nền cộng hòa miền Nam non trẻ. Thế mà có mấy ai để ý đến câu nói bất hủ của ông. Sự thật về câu nói của ông chỉ được phơi bày trần truồng sau năm 1975 và mãi đến bây giờ vẫn còn giá trị khi chủ nghĩa cộng sản còn trơ trẽn rơi rớt lại trên mảnh đất Việt khốn khổ. Ngày nào CSVN còn áp đặt một thứ quyền hành quái đản lên đồng bào, câu nói của ông vẫn là một minh chứng hùng hồn cho sự tàn bạo vô luân của một bạo quyền thối nát không bút nào tả nổi. Cho dù sau này chế độ cộng sản có chết mất xác đâu đó trong nền văn minh thăng hoa của nhân loại, câu nói bất hủ của cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn giúp những nhà sử học viết thay cho dòng kết khi viết lại những trang sử bi thương của dân tộc Việt sống dưới ách cộng sản từ năm 1930.

Tổng thống Hoa kỳ Ronald Reagan khi đứng trước bức tường ô nhục Bá linh vào ngày 12 tháng 6, 1987 đã thách thức Tổng Bí thư Liên sô Gorbachev bằng câu nói bất hủ, “Hỡi ông Gorbachev, hãy đập đổ bức tường này!” Hơn hai năm sau, ngày 9 tháng 11, 1989 cộng sản Đông Đức cho phép dân chúng thăm viếng Đông Bá linh và Tây Đức. Dân chúng đã dùng búa đập nát bức tường ô nhục, đánh dấu bước sụp đổ đầu tiên của chế độ cộng sản tại Âu châu.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng thốt lên một câu nói bất hủ khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nga sô Brezhnev lăm le định đưa Hồng quân sang Ba lan để dẹp tan Công đoàn Đoàn kết, “Nếu Liên sô tiến quân sang Ba lan, tôi sẽ cởi áo giáo hoàng và trở về Ba lan để chiến đấu bảo vệ quê hương tôi.” Nhờ câu nói đanh thép của vị Giáo hoàng dũng cảm, Brezhnev đã từ bỏ ý định xâm lăng.

Giáo phận Vinh (bao gồm Nghệ an, Hà tĩnh, và Quảng bình) được Đức cha Phaolô Maria Cao đình Thuyên cai quản từ năm 2000. Xảy ra vụ chiếm đất bất hợp pháp CSVN tại Thái Hà vào tháng 9 năm 2008, toàn thể Hội đồng Giám mục Việt nam lên tiếng hiệp thông, bênh vực cho Đức Tổng Giám mục Hà Nội Ngô quang Kiệt và phản đối CSVN đã dùng luật rừng để chiếm đoạt tài sản của giáo hội. Các giám mục ở các giáo phận trên toàn lãnh thổ cũng lên tiếng hiệp thông và phản đối bằng cách gửi văn thơ đến Nhà Chung Hà nội và cả cài gọi là Ủy ban Tôn giáo. Có những giám mục khác tích cực hơn, thân chinh đến nơi để hiệp thông cầu nguyện với giáo dân Thái Hà. Trong số các giám mục này có sự hiện diện của Đức cha Cao đình Thuyên, ngày đã 81 tuổi, không ngại đường xa đã cùng với linh mục đoàn của giáo phận Vinh đến hiệp dâng thánh lễ. Lực lượng bao vây Thái Hà là những dãy hàng rào chắn của lực lượng cảnh sát cơ động vũ trang với nét mặt lạnh lùng, Đức cha Thuyên đã tuyên bố một câu bất hủ, “Việc của Thái Hà là việc của Vinh.” Có lẽ không một câu nói nào tỏ tình hiệp thông vững mạnh như thế. Ðức cha Thuyên đã thốt một câu hùng hồn đến thế trong một hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng thì quả thật tuyệt vời. Câu nói bất hủ của ngài thể hiện được tinh thần huynh đệ, nói lên mầu nhiệm chi thể của Đức Kitô, chia sẻ nỗi đau của giáo dân Thái Hà đang bị áp bức quá bất công. Mọi giáo dân dù bất cứ ở đâu đều là một phần của Hội thánh trong nhiệm thể của Đức Giêsu và chân lý đã thể hiện qua câu nói bất hủ của Đức cha Cao đình Thuyên.

Một lần nữa, CSVN lại đàn áp giáo dân Quảng Bình cũng chỉ vì miếng đất nhà thờ Tam Tòa tại thành phố Đồng Hới. Một bên không có nơi thờ phượng đã bao nhiêu năm nên phải tạm dựng một chiếc lán nhỏ trên nền đất của ngôi nhà thờ này. Một bên dùng quyền hành chiếm đoạt mảnh đất của giáo dân Tam Tòa bằng cách ngang nhiên trưng dụng để làm chứng tích tội ác của đế quốc Mỹ. Lý do Tỉnh ủy Quảng bình đưa ra không hợp lý vì tại sao không trưng dụng ngay từ sau ngày 30 tháng 4, 1975; mà phải đợi mãi đến năm 1997 sau khi thị xã Đồng hới được nâng lên cấp thành phố mới có quyết định như trên. Lý do nữa không hợp hiến vì bất cứ chỗ nào trên đất Bắc muốn biến thành chứng tích tội ác đều phải có quyết định từ trung ương; đằng này Tỉnh Quảng Bình đơn phương ra quyết định.

CSVN nói đến chứng tích tội ác của đế quốc Mỹ để CSNV tự cho: “có công” đánh đuổi Mỹ nhưng không bao lâu lại trải thảm đỏ mời họ vào. Đuổi cửa sau nhưng lại mời vào cửa trước. CSVN nói đến chứng tích tội ác của đế quốc Mỹ vì những tờ đôla xanh vẫn nằm đầy trong tủ sắt của đám cán bộ nắm quyền sinh sát trong tay, đặc biệt đám cán bộ và công an tỉnh Quảng bình. Mà nếu thật sự muốn biến mảnh đất Tam Tòa thành chứng tích tội ác của đế quốc Mỹ thì một tấm bia cũng đủ nhắc nhở những thế hệ sau này, cần gì phải chiếm trọn mảnh đất chỉ còn trơ lại bức tường rêu phong lỗ chỗ dấu đạn bom. Những nơi khác trên khắp đất Bắc hứng chịu bom Mỹ cũng có những tấm bia như thế để tưởng niệm, để nhắc nhở. Thế thì lý do gì mà Tỉnh Quảng bình nhất định phải chiếm cho bằng được toàn bộ khu đất của nhà thờ Tam Tòa ?

Lý do duy nhất mà ai cũng biết là vì khu đất nhà thờ Tam Tòa đột nhiên có giá trị kinh tế nhảy vọt. Từ ngày thị trấn Đồng Hới được nâng lên cấp thành phố, dân cư đổ về làm ăn buôn bán sầm uất, đường sá được nới rộng, và mảnh đất nhà thờ Tam Tòa nằm ngay trung tâm thành phố, nhìn ra sông Nhật Lệ trông thật thơ mộng bỗng trở nên rất có giá. Với giá nhà đất tăng vùn vụt đến độ chóng mặt ở những nơi thị tứ vì nhu cầu làm ăn buôn bán, miếng đất này phải tính đến hàng ngàn cây vàng, vài triệu đô la là chuyện thường. Giống như miếng đất Tòa Khâm sứ cũng nằm ngay trung tâm thành phố Hà nội, giá cả mảnh đất là miếng mồi ngon mà đám cán bộ CSVN không thể nào bỏ qua. Vì thế họ mới dùng mọi thủ đoạn đê tiện để cướp đoạt trắng trợn.

Một trong những thủ đoạn đê tiện là dùng đám công an ở các nơi khác được bí mật điều về mặc thường phục để chận đánh giáo dân. Bọn cầm quyền tỉnh Quảng Bình gọi đám người này là “nhân dân tự phát”. Không những giáo dân chân yếu tay mềm bị đánh, đám “nhân dân tự phát” này còn dám đánh trọng thương luôn cả hai vị linh mục với những lời lẽ hạ cấp. Đang thăm hỏi giáo dân Vinh ở Hoa kỳ, Đức cha Cao Ðình Thuyên đành phải bỏ dở chuyến đi và trở về với đàn chiên đang bị bầy sói vây hãm. Thật chưa bao giờ con dân Vinh lại nức lòng mừng đón vị cha già trở về như vậy. Cuối lễ, trong phần nhắn nhủ hơn 200 nghìn con chiên, Đức cha Thuyên có nhắc lại một câu nói bất hủ của một linh mục Vinh khi ngài ở hải ngoại gọi về để thăm hỏi, “Đức cha cứ an tâm tiếp tục thăm hỏi giáo dân ở nước ngoài, bên này chúng con không phải có một Đức cha Thuyên nhưng có đến 500 nghìn Đức cha Thuyên.” Khi vị linh mục nói đến 500 nghìn Đức cha Thuyên, ngài muốn nói đến sự đoàn kết, đồng lòng nhất trí của toàn thể giáo dân Vinh về vụ Tam Tòa. Tuy nghe vậy nhưng Đức cha Thuyên vẫn thấy sự có mặt của ngài tại quê nhà trong giây phút đau thương này là cần thiết. Và ngài đã lập lại câu nói bất hủ của vị linh mục như một khẳng định về lập trường của ngài và 500 nghìn giáo dân Vinh qua sự hiệp thông cầu nguyện, đối thoại, tha thứ, và tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa Thánh Linh.

Rồi từ đây, với lời cầu nguyện của 500 nghìn Đức cha Thuyên ở giáo phận Vinh sẽ như hương thơm tỏa lan trước nhan thánh Chúa. Cũng từ đây, với ánh sáng tình yêu của 500 nghìn Đức cha Thuyên sẽ đẩy lui được bóng đêm hận thù. Và cuối cùng, với 500 nghìn Đức cha Thuyên một lòng một ý sẽ tranh đấu công lý cho một Tam Tòa đang trên đà hồi sinh.

VietCatholic

Màn Bí Mật Tại ViệT Nam

Màn Bí Mật Tại ViệT Nam:
Quặng Bauxite hay Quặng Phóng Xạ ?

Hiện nay, chúng ta có thể nói một cách chính xác và không sợ phản biện, bởi những tên lính Tàu Cộng dưới dạng công nhân trá hình đang hiện diện đầy rẫy trên quê hương Việt Nam của chúng ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, giống như mọi quốc gia trên thế giới như Tây Tạng, Tân Cương, Phi Châu…những nơi có dấu chân của Trung Cộng khai thác các công trình quặng mỏ hay những công ty sản xuất khác tại những nơi nầy.

Cộng sản Việt Nam cũng như Trung Cộng, không thể nào chối cải được nhận định trên. Tại Việt Nam, Trung Cộng dù dưới dạng công nhân hay chuyên viên, mỗi khi vào một công ty nào đó đều sinh hoạt hoàn toàn riêng rẽ, nói chuyện với nhau bằng tiếng Hán mà thôi. Họ xây dựng lều trại làm nơi ăn chốn ở, giải trí và có cuộc sống hoàn toàn cách biệt với các cộng sự viên người Việt. Thậm chí, mỗi khi có tranh cãi, họ ăn hiếp, đánh đập công nhân Việt. Thật không có gì nhục nhã cho bằng hiện tượng nầy xảy ra ngay chính trên mãnh đất quê hương của mình mà những tên cán bộ hay công an cố tình làm ngơ trước những nghịch cảnh trên.

Những khu biệt lập nầy do Trung Cộng hoàn toàn quản lý mọi sinh hoạt, không có người "lạ" nào cả mấy tên cán bộ, công an Việt Nam không thể bén mãn đến được, mặc dù những công ty họ làm việc, đa số đều do người Việt quản lý.

Cho đến hôm nay, những tệ trạng trên tiếp tục diễn ra ở khắp mọi nơi, tạo nên một luồn sóng phẩn uất trong lòng người Việt, và thiết nghĩ những người công nhân lương thiện nầy sẽ có ngày đứng lên dành lại quyền công nhân thực sự và sẽ không để công nhân Trung Cộng hiếp đáp mãi mãi được.

Những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra ở những quốc gia có người Hán xâm nhập, đôi khi đi đến đổ máu như ở Tân Cương, Tây Tạng, qua những nguyên nhân hết sức cá nhân, nhưng từ đó xảy ra những cuộc đụng độ có tích cách chủng tộc vì sự hống hách, ức hiếp của người Hán trên mãnh đất quê hương của người bản xứ.

Trở lại Việt Nam, riêng tại hai vùng hiện đang là điểm nóng ở Việt Nam; đó là Tân Rai ở Lâm Đồng và Nhân Cơ ở Đắk Nông. Hai nơi nầy hiện đang bị Trung Cộng phát động kế hoạch khai thác quặng mỏ bauxite từ hơn một năm nay do sự tiếp tay của đảng CSVN. Sau khi không thể bưng bít được, CSVN đã phải bạch hoá công bố hai công trình trên mặc dù đã ký kết với Trung Cộng từ năm 2001 giữa Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào, qua quá nhiều áp lực của đông đảo từng lớp dân chúng ở quốc nội cũng như ở hải ngoại cảnh báo về hiễm hoạ từ môi trường, kinh tế, chính trị, và quân sự nếu để cho Trung Cộng khai thác hai vùng nầy.

Nhưng trầm trọng hơn cả là qua việc cho Trung Cộng khai thác, CSVN để lộ ra tinh thần cái gọi là quốc tế vô sản (?) (mà bây giờ đã biến thành tinh thần quốc tế hữu sản chăng ?). Và đây cũng có thể được xem như là một tiến trình then chốt của việc tiến chiếm Việt Nam không tiếng súng của Trung Cộng và sự khiếp nhược của CSVN.

Vào 8/2009, ghi nhận đã có sự hiện diện trên 700 tên công nhân trá hình của Trung Cộng ở Tân Rai và trên 500 tên ở Nhân Cơ. Đây là những con số do Ủy Ban Nhân Nhân CSVN ở hai tỉnh trên công bố. Thiết nghĩ, con số thực sự chắc phải cao hơn nhiều và theo như dự kiến của hai công trình khai thác trên, con số công nhân trá hình của Trung Cộng sẽ đến 7.000 người cho mỗi nơi.

Có nhiều câu hỏi được đặt ra cho tình trạng nhân sự Trung Cộng ở hai địa điểm trên: Tại sao Trung Cộng có mặt hơn một năm qua mà vẫn chưa hoàn tất việc chuẩn bị mặt bằng cho cơ xưởng, giải quyết các vụ đuổi nhà, chiếm cứ các vườn trồng cây công nghiệp của dân như trà, cà phê, cao su v.v… mà chỉ lo xây dựng láng trại và nhà ở cho công nhân và chuyên viên cùng những dịch vụ sinh hoạt khác như giải trí riêng biệt và cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài bằng hàng rào được thiết lập chung quanh ? Đây là một việc cho thấy công trình rất chậm so với số lượng nhân công trá hình hiện có và thời gian thi công. Và điều nầy đang làm ngạc nhiên cho những nhà quan sát có kinh nghiệm về hoạt động công trường.

Hay là họ có những dự tính thâm độc nào khác của Trung Cộng về việc khai thác quặng mỏ bauxite chỉ là Diện để chứng minh sự có mặt của họ, và trọng tâm chính của họ là Điểm, là khai thác một công trình bí mật nào khác ?

Để trả lời và khơi mở một số nghi vấn trên, nhiều giả thuyết qua các thông tin có được để từ đó chứng minh sự hiện diện và hành động của Trung Cộng trên mãnh đất quê hương Việt Nam của chúng ta.

Cao nguyên Trung phần Việt Nam là một phần của cao nguyên Bolloven. Nơi sau nầy là một vùng đất bazan, chuyển hoá từ phún xuất thạch của núi lửa hàng triệu năm qua. Do đó, hàm lượng phóng xạ của vùng đất nầy rất cao so với các vùng đất tự nhiên khác. Và sác xuất có quặng mỏ Uranium cũng rất cao.

Để có khái niệm về việc khai thác quặng mỏ Uranium, sau đây là quy trình sơ lược dựa theo các nguyên tắc căn bản đang được sử dụng trên thế giới. Thông thường quặng Uranium có được là do sự phối hợp của hai chất đồng vị (isotope) Uranium: Uranium 235 và Uranium 238. U 238 được xem như là đồng vị nặng vì có 3 electron nhiều hơn U 235 . Chính U 235 mới đích thực là tác nhân tạo ra nguồn năng lượng cho nhân loại và thông thường có trữ lượng trong hỗn hợp quặng mỏ là 0,7% mà thôi.

Việc khai thác gồm:

• Quặng Uranium trong thiên nhiên cần phải được tách rời hai đồng vị 238 và 235;
• Sau đó Uranium 235 sẽ được tinh luyện hay làm giàu (enrich) để đạt được nồng độ Uranium cần thiết để ứng dụng trong nhiều mục tiêu khác nhau.

Việc tinh luyện Uranium gồm 3 phương pháp: ly tâm, khuếch tán vật lý, và dùng tia laser. Các quốc gia như Pakistan, Ấn Độ, Bắc Hàn hay Iran vẫn còn đang áp dụng phương pháp cổ điển là ly tâm. Trong lúc đó, ở các quốc gia phát triển khác như Hoa Kỳ và Tây Âu, hai phương pháp sau được dùng đến vì có hiệu quả và năng suất cao hơn. Muốn chế tạo ra bom nguyên tử, ít nhứt, nồng độ của Uranium cần phải đạt được là 80%. Đối với các nồng độ thấp hơn, tùy thuộc vào những ứng dụng khác nhau trong việc dùng trong các nhà máy phát điện nguyên tử hay các hệ thống an toàn trong một số dịch vụ thật chính xác trong quy trình sản xuất mà con người không đủ khả năng để điều chỉnh bằng tay hay mắt được.

Đây là một trung tâm nghiên cứu về nguyên tử và phóng xạ được người Pháp xây dựng từ giữa thập niên 50 ở thế kỷ trước. Hiện nay, Trung Tâm vẫn còn hoạt động, CSVN dùng Trung tâm nầy để sản xuất các dụng cụ, hệ thống sensor để kiểm soát hay vận hành những khu vực hiểm yếu trong các công nghệ mhư khai thác mỏ than, hay các thiết bị kiểm soát trên tàu bè, cũng như trong các lãnh vực kiểm soát các hệ thống an toàn về áp suất hay nhiệt độ, hoặc điều chỉnh một cách chính xác việc thay đổi điều kiện trong các quy trình sản xuất. Quan trọng hơn cả là việc ứng dụng vào các hệ thống an toàn khi có vấn đề cấp bách trong vận hành để hạn chế hay tránh tai nạn.

Hiện tại, Việt Nam đang nhập cảng nguyên liệu phóng xạ từ nước ngoài.

Câu hỏi được đặt ra nơi đây: Tại sao người Pháp cho lấp đặt Trung Tâm nầy tại Đà Lạt vào thời điểm trên, trong khi quốc lộ 20 nối liền Sài Gòn và Đà Lạt chỉ là một con lộ thô sơ, chưa được tráng nhựa đẩy đủ ?

Để trả lời hai câu hỏi trên, phải chăng là họ muốn xây dựng Trung Tâm gần nơi vùng có phóng xạ để nghiên cứu, thăm dò, và khai thác nguồn nguyên liệu phóng xạ tại chỗ ?

Ngược dòng lịch sử, trong giai đoạn chiếm đóng ngắn ngũi của Nhật Bổn vào thế chiến thứ hai, họ cũng đã gởi nhiều phái đoàn địa chất để thăm dò vùng nầy. Và trong thời gian chiến tranh, nhiều phái đoàn nghiên cứu của Hoa Kỳ cũng đi lại thường xuyên trên vùng nầy. Thêm một nguồn tin khác, vào cuối năm 1944, một chiếc tàu Nhật trên đường từ Việt Nam trở về Nhật bị quân đội Đồng minh đánh chìm vì bị nghi có chở một số mẫu quặng mõ Uranium lầy từ Cao nguyên Trung phần.

Nhưng tất cả đều được giữ bí mật. Không có một báo cáo khoa học nào công bố về vấn đề trên hay cho biết vùng đất nghiên cứu có chứa nguồn nguyên liệu phóng xạ Uranium hay không ?

Ngày 21 tháng 4 năm 2009, Công ty NWT Uranium Corp ở Toronto, Canada, Ông Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã công bố bản tin sau khi đồng ý trên nguyên tắc về việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam. Quả thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết có nguồn nguyên liệu phóng xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là có thật. Chính nhờ đó mới có những giao kết thăm dò và khai thác giữa Việt Nam với các đối tác khác. Và Trung Cộng đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên liệu nầy, vì vậy cho nên mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ bauxite với sự tuân phục của CSVN, để đánh lạc hướng thế giới thêm một lần nữa.

Theo ước tính sơ khởi của công ty NWT thì cao nguyên có trữ lượng là 210 ngàn tấn quặng oxid uranium (U3O8) với nồng độ trung bình là 0,06%. Và ở một tài liệu khác cho biết hàm lượng quặng mỏ oxid uranium ở mỏ than Nông Sơn, Quảng Ngãi là 8.000 tấn quặng và có cùng một nồng độ trung bình với oxid uranium ở Cao nguyên.

Qua hai thông tin trên, một lần nữa có thể cho chúng ta có một kết luận một cách xác tín là với mức độ quan trọng về nguồn nguyên liệu nầy khiến cho nhiều quốc gia như Pháp, Nhật, và Hoa Kỳ đã biết trước nhưng không công bố mà thôi vì điều kiện an ninh của Việt Nam trong thời chiến lúc bấy giờ không cho phép.

Ngày hôm nay, Trung Cộng đã biết và thay vì đến Việt Nam để khai thác nguồn nguyên liệu quý giá về phương diện quốc phòng nầy, họ đã đánh lận con đen để nói tráo qua việc khai thác quặng mỏ Bauxite.

Với hàm lượng oxid uranium kể trên, có thể khai thác được hàng trăm ký Uranium có nồng độc cao có thể ứng dụng vào trong kỹ nghệ quốc phòng và quân sự.

Thêm nữa có hai chi tiết sau đây để củng cố giả thuyết về việc Trung Cộng đang bí mật chuẩn bị việc khai thác quặng mỏ Uranium:

• Mỏ than Nông Sơn đã được VNCH khai thác từ năm 1961, và vẫn được vận hành từ đó đến nay, và hoàn toàn không có tai nạn nào xảy ra. Trung Cộng với tư cách nào và với lý do gì đã đem trên gần 500 chuyên viên vào nơi đây từ 6 tháng qua ?
• Một phần cao nguyên nằm trên địa phận Lào đã được Trung Cộng thuê mướn trong vòng 50năm ?

Hai chỉ dấu sau nầy chính là cái chìa khóa để mở toang cánh cửa bí mật giữa CSVN và Trung Cộng trong việc khai thác quặng mỏ Bauxite ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam.

Một điều không thể chối cải được là tiến trình Hán hóa Việt Nam của Trung Cộng đã thể hiện rất rõ ràng. Đây là một tiến trình tiệm tiến giống như trường hợp của Tân Cương và Tây Tạng.

Hẳn chúng ta còn nhớ, vào những tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, hai món hàng dầu hỏa và quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên đã được chính quyền thời bấy giờ mặc cả với nhiều quốc gia đối trọng khác nhau ngõ hầu cứu vãn miền Nam, nhưng bị thất bại. Và ngày hôm nay, nguy cơ nguồn nguyên liệu quốc phòng nầy sẽ lọt vào tay Trung Cộng rất cao.

Chính vì thế, một trong những việc làm cấp bách hôm nay là phải cảnh báo cho thế giới biết rõ âm mưu của Trung Cộng về việc khai thác quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên và Nông Sơn, để từ đó mượn áp lực chính trị và kinh tế của thế giới để đình chỉ việc khai thác trên.

Nếu không, Trung Cộng, một khi làm chủ được nguồn nguyên liệu nầy sẽ mọc "thêm râu thêm cánh" và ngang nhiên tung hoành như đi vào chỗ không người. Tinh thần Hán tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng của Trung Cộng càng được đẩy mạnh thêm lên qua quyển Tân Biên Sử mới của Trung Cộng mà biên giới gồm thâu cả vùng Đông Nam Á, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Nam Bắc Hàn v.v…

Bằng bất cứ giá nào, người Việt khắp nơi sẽ không để nguồn nguyên liệu nầy lọt vào tay Trung Cộng. Nếu không, Việt Nam sẽ biến thành một vùng tranh chấp quốc tế và thảm họa sẽ khó lường trong tương lai, thêm nữa dân tộc Việt phải lâm vào cảnh nô lệ bọn bắc phương Tàu Cộng.

MTT

mandag 7. september 2009

Nỗi Ðau Thương Của Ðất Nước

Nỗi Ðau Thương Của Ðất Nước.

Sự mất mát của Ngài Huyền Quang, không chỉ là sự mất mát to lớn cho tất cả Phật tử Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam, mà còn là sự mất mát cho nhân loại, sự mất mát của một tiếng nói dõng mãnh, kiên cường, đấu tranh từ ngục tù, từ quản thúc, cho cả khối người hoàn toàn bị bịt miệng không được nói, và lắm khi, không được sống.

Nhưng chúng ta - tất cả con dân Việt Nam - phải làm tốt hơn là chỉ biết than khóc. Than khóc có mấy thì những giọt lệ này tới lúc rồi cũng ... khô cạn. Nếu thật sự đau buồn và thương tiếc Ngài, như chúng ta dễ dàng đau buồn và vô cùng thương tiếc bất cứ vị anh hùng dân tộc nào đã hy sinh, chúng ta phải làm hơn là chỉ dành cho Ngài những giọt lệ mang đầy cảm tính. Cảm tính thường có tánh chất đoản kỳ và thiếu hẵn sự cương quyết để noi gương Ngài, nối gót Ngài, trên con đường đấu tranh cho quê hương xứ sở.

Noi gương Ngài, nối gót Ngài không có nghĩa chúng ta phải theo đạo Phật, hay xuất gia làm tăng sĩ như Ngài. Noi gương Ngài, nối gót Ngài là phải đấu tranh như Ngài đã đấu tranh dù chúng ta đang theo Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Phật Giáo Hoà Hảo, hay Cao Đài. Tín đồ của mọi tôn giáo phải nhớ cho rằng chúng ta trước hết là con dân Việt Nam. Nếu chúng ta không làm tròn bổn phận con dân Việt Nam của chúng ta trước, chắc chắn chúng ta không thể làm tròn bổn phận của tín đồ đối với tôn giáo mà chúng ta đang theo.

Quan trọng hơn, tất cả tín đồ của mọi tôn giáo phải ý thức được rằng chúng ta không thể khoán trắng công việc đấu tranh tự do tôn giáo của tôn giáo mình cho bất cứ tôn giáo nào khác. Nhà chúng ta đang cháy, chúng ta từ chối chữa cháy nhưng chúng ta lạy lục hàng xóm chữa cháy cho mình, rồi chúng ta khoanh tay đứng ngó là hành động vô trách nhiệm. Chẳng những vậy, đó là hành động tàn nhẫn của những người sẵn sàng bỏ rơi dân tộc, bỏ rơi những vị lãnh đạo tinh thần của chính họ đã, và đang bị giết hại để bảo vệ tôn giáo của chính họ. Tín đồ như vậy là những tín đồ chỉ theo đạo để tô son điểm phấn vào những sinh hoạt thường nhật, hay vì tính a dua, ai sao tôi vậy, ông bà cha mẹ tôi theo, cho nên tới đời tôi thì tôi cũng theo. Những tín đồ như vậy không thể là những tín đồ biết dấn thân, biết hy sinh, và biết bảo vệ tôn giáo của họ, nói chi tới đất nước của họ.

Trong nỗi đau thương của đất nước, đã 34 năm, nếu chúng ta còn đứng riêng rẽ, còn tị hiềm vì lằn ranh của tôn giáo, giai cấp, chúng ta sẽ là những tội đồ của dân tộc. Trong nỗi đoạ đày của dân tộc, đã 34 năm, nếu chúng ta còn tiếp tục tự bịt mắt, bịt miệng để không thấy được rằng chúng ta cần phải đấu tranh, chúng ta cần phải nói lên một tiếng nói, chúng ta sẽ là những tội đồ của quê cha đất tổ.

Chưa có gì buồn cười hơn khi chúng ta bắt con em của chúng ta học tiếng Việt, học sử Việt, và bắt chúng kiêu hãnh vì dòng giống bất khuất của dân Việt, trong khi lại đóng vai đê hèn, hoàn toàn từ chối bổn phận đấu tranh. Trong sự thống khổ của kiếp lưu đày, nếu còn công kích vì khác biệt tôn giáo, ganh ghét cá nhân, chụp mũ nhau dưới bất cứ hình thức nào và nhân danh bất cứ ai, nhất là cứ miệt mài công kích, chụp mũ suốt 34 năm, đến độ không bị chụp mũ không phải là người Việt, chúng ta đang tiếp tay đắc lực cho bạo quyền để tiêu diệt khí thế đoàn kết của chính chúng ta.

Chúng ta hãy chấm dứt ngay tệ nạn khoán trắng công việc đấu tranh cho những người khác, và chúng ta đành đoạn đứng bên lề để .. ngó. Suốt 34 năm qua chúng ta ngó chưa đủ sao, nếu chưa, thì phải ngó tới bao giờ mới đủ?

Chỉ có những dân tộc của các nước muôn đời là nhược tiểu, gánh hoài trên vai tinh thần nô lệ, mới khoán trắng công việc đấu tranh của họ cho ngoại bang, hay cho người đồng hương không may đứng ... bên cạnh.

Dân Ba Lan chỉ có những anh thợ điện như anh Lech Walesa, và không chừng họ chỉ có những anh thợ điện như vậy mà họ làm nên lịch sử trong những thập niên 80s. Chúng ta suốt 34 năm bận bịu so tài coi ai bị làm thằng, ai được làm ông, cho nên chúng ta cứ phải dật dờ trên xứ lạ, ca bài hoài quốc muôn năm.

Báo chí, sách vở, ai cũng bàn luận về NQ-36, đến độ con số 36 này được nhắc, nhớ nhiều hơn số tuổi của chính họ. Vậy mà họ cứ tưởng NQ-36 chỉ có ở mặt văn hoá, hoàn toàn quên rằng NQ-36 bao gồm luôn cả mặt trận tôn giáo. Thậm chí có nhiều đảng phái, đoàn thể, cơ quan truyền thông chống Cộng mãnh liệt đã thề nhất định không đụng tới tôn giáo, dù biết rằng tôn giáo đó đang bị CS lũng đoạn, giật giây, điều khiển suốt từ những thập niên 1980 tới nay.

Bởi vậy, những tu sĩ quốc doanh mà Đảng lượm lặt từ phường chợ búa, hay kết nạp từ những cơ quan tình báo, công an, mang NQ-36 tới chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, v.v… có thể công khai lên mặt “dạy dỗ” chúng ta; rồi cả bọn “TIẾM DANH” nữa, nay cũng một khuynh hướng với chúng luôn, mong đặt GHPGVNTN chính thống lãnh đạo bởi Đức Cố Tăng Thống THÍCH HUYỀN QUANG và Đại Lão Hòa Thượng THÍCH QUẢNG ĐỘ vào tay Tuệ Sỹ, rồi sau đó đem cúng cho QUỐC DOANH CỘNG SẢN: Thế là GHPGVNTN truyền thống thực sự không còn trên trái đất này, mà tất cả đều chỉ là QUỐC DOANH CỘNG SẢN, dưới kiểu này hay kiểu khác. Bọn sư QUỐC DOANH và TIẾM DANH, chúng phán, dưới một số đông Phật tử ngây thơ hoặc ăn bả CS phủ phục quỳ, lắng tai nghe. Buồn cười hơn là nghe xong có người trong họ liền chạy ra coi Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng còn hay không để biểu tình, chống đối tiếp.

Trên thực tế thì tôn giáo nào ít nhiều gì cũng đã bị lũng đoạn bởi bọn VC. Đừng viện cớ chúng ta còn chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, còn kinh điển, còn các vị lãnh đạo tinh thần là tôn giáo chúng ta chưa bị ô uế bởi tập đoàn vô thần của CS. Không lẽ chúng ta đợi giấy chứng nhận từ Bộ Công An của bọn CS gởi qua chúng ta mới chấp nhận hay sao?

Phật giáo thì đã có rất nhiều tăng ni ở hải ngoại bị mua chuộc để trở thành “MA TĂNG ”, đầy dẫy trong hàng ngũ đang bắt tay với VC, chủ trương VỀ NGUỒN. Phật tử nhẹ dạ phủ phục dưới chân để chúng nhục mạ Phật tổ, bổn sư, đạo pháp của mình ngay trong chánh điện, trong ngôi chùa mà mình đã góp công xây dừng. Buồn thay, vô số Phật tử đã và đang cuồng tín đến độ họ cứ cho rằng sư nào cũng là sư, nếu họ cứ quỳ, cứ lạy, cứ phục vụ miệt mài thì có ngày họ cũng được phước báo dù rằng vị sư đó đang thực thi NQ-36. Số Phật tử này - theo tinh thần kể trên - còn tiếp tay để chống đối những vị cao tăng, chống đối Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - một tổ chức tôn giáo do dân lập - theo đuổi truyền thống từ ngàn xưa bằng cách nhập thế để bảo vệ quê hương, hòng làm vui lòng MA TĂNG của họ. Qua những công việc hộ tự đầy tính chất gia nô này, họ còn hy vọng thầy của họ nói giúp cho họ một tiếng với chư Phật để gia đình họ được hưởng phước báo kiếp này. Quen biết dù sao cũng lợi, thêm nữa, chờ hưởng phước báo ở kiếp sau coi bộ ... không chắc! Để lâu sợ thầy mình hay Phật … quên. Khôi hài đến mức đó là cùng!

Bên Thiên Chúa giáo thì cũng có rất nhiều “giáo gian”, đặc biệt trong Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, nói khác đi là Công Giáo Quốc Doanh. Hết Linh mục, Giám Mục tới Hồng Y lên tiếng bài bác Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền - người đã bị CS giết hại; Linh mục Nguyễn Văn Lý - người đã và đang bị CS bỏ tù. Những giáo gian có quyền cao chức trọng này thay vì phải đề cao tinh thần bất khuất của đồng đạo thì lại vu cáo họ tham gia chính trị, trong khi họ chỉ gióng lên tiếng nói để đòi hỏi quyền tự do và độc lập của tôn giáo họ, và cho dân tộc của họ. Tệ hơn, những Lm, Gm và mới đây vị Hồng Y thay phiên nhau xuất ngoại chỉ để xin tiền rồi sẵn dịp, nhục mạ lá cờ vàng, lá cờ mà giáo dân của họ đã và đang tôn kính. Có nhiều vị ngon cơm hơn, nhục mạ cờ, dựa hơi vào quyền hạn của bậc chủ chiên họ xâm phạm đến danh dự những con chiên của họ một cách công khai và hỗn xược. Buồn thay, một số lớn giáo dân cuồng tín đến độ họ cứ cho rằng nếu cứ tiếp tục tuân lời, tiếp tục ủng hộ tài chánh cho những vị giáo gian này, như một hình thức hối lộ, thì một ngày nào đó họ cũng được lên thiên đàng. Quen biết để cầu cạnh được lên thiên đàng, cũng giống như ở trần gian hối lộ cho bọn VC vậy đó, để được phúc lợi!. Có giáo dân sau khi cho tiền vị chủ chăn đã nhục mạ lá cờ vàng của mình.

Chúng ta phải mạnh dạn phân định đâu là "chánh", đâu là "tà" ngay cả trong hàng ngũ tu hành. Tu hành đúng, chúng ta sẵn sàng phủ phục, tu hành sai, hay trá hình để thực thi NQ-36 hay nhất định chỉ tu-không-thôi nhưng bịt mắt, bịt tai trước thảm cảnh của quê hương hòng tiêu diệt khí thế đấu tranh của dân tộc thì chúng ta phải dứt khoát chống, sẵn sàng chống, như chúng ta đã dứt khoát và sẵn sàng chống.

Chúng ta một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn, chúng ta phải đem lá cờ ấy về lại quê hương ta, cắm trên Sài Gòn thủ đô của ta đã đành, chúng ta phải cắm luôn ở Huế, Hà Nội, đảo Trường Sa, Hoàng Sa của chúng ta, bằng mọi giá. Muốn thế, chúng ta phải hoạt động và hành động để quang phục quê hương, chứ không chỉ lo miếng cơm manh áo hoặc ăn chơi, hưởng thụ. Nhất là bằng mọi cách phải triệt tiêu bọn QUỐC DOANH phá Đạo hại Đời, và bọn TIẾM DANH VÔ LIÊM SỈ, chúng chỉ là những CON CHÓ ĐÁNG KHINH BỈ!

Tóm lại, gương sáng của Ngài HUYỀN QUANG - hay của bất cứ vị anh hùng nào khác của dân tộc từ ngàn xưa đến hiện tại - không nhằm để chúng ta khóc thương, dù đó là chuyện đương nhiên, mà là để chúng ta noi gương.

Dân Nhật - dòng giống con trời - không nổi tiếng hào hùng chỉ vì chiếc áo Kimono và rượu saké của họ!

Dân Việt - dòng giống Lạc Hồng - không nổi tiếng chỉ vì chiếc áo dài và tinh thần yên phận, chấp nhận bọn Cộng Sản để mà SỐNG NHỤC!

Dòng họ của bất cứ giống dân nhược tiểu có tinh thần nô lệ nào cũng đều giống nhau ở chỗ … họ cam tâm khuất phục. Dòng họ của bất cứ dân tộc anh hùng có tinh thần bất khuất nào cũng đều giống nhau ở chỗ … họ vùng lên để tranh đấu. Thắng cũng tranh đấu, thua cũng tranh đấu. Còn thở là còn tranh đấu, không thể không tranh đấu. Ngài Huyền Quang ngay trong lòng địch, trong lao tù, trong sự quản thúc, đã tranh đấu tới hơi thở cuối cùng, hoàn toàn không chao đảo, chúng ta sống đầy đủ trên những bến bờ tự do ở hải ngoại, chẳng lẽ không ?

Nguyễn Khắc Anh Tâm

torsdag 3. september 2009

“Một điều Gì Ðó”... Nên Làm

“Một điều Gì Ðó”... Nên Làm.

Là quân nhân, đứng trong hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nơi hải ngoại nầy hôm nay, có đúng là hết thảy chúng ta phải làm sao đoàn kết keo sơn, tiếp tục giữ vững tinh thần chiến đấu của một tập thể hào hùng đầy khí phách năm xưa; cùng siết chặt tay nhau, góp chung những khối óc và sức lực còn lại của phần đời cuối của mình, tích cực trong mọi công cuộc vận động, hỗ trợ tinh thần cũng như vật chất cho khối đồng bào trong nước sớm kết tụ đủ sức mạnh để đồng loạt vùng lên quật ngã chế độ bạo tàn Cộng Sản hiện hành, mở ra một vận hội mới, một chân trời mới tươi sáng cho tổ quốc Việt Nam tương lai...?

Nếu đúng như vậy, thì mọi việc hãy vẫn còn chưa muộn. Mặc dù hầu hết chiến hữu của mọi Quân Binh chủng thuộc QLVNCH cho đến thời điểm hiện tại, ít nhất cũng ngấp nghé tuổi sáu mươi rồi. Ðôi khi, tuổi đời và “lực” có thể bất tòng tâm. Nhưng, với tinh thần “cố gắng” hằng có, tôi rất tin, tất cả chiến hữu chúng ta, mỗi một người, bằng ý chí và khả năng riêng của mình, vẫn có thể đóng góp được một điều gì đó cho đại cuộc quang phục quê hương ngày mai, ngày mốt tới đây.

Với kinh nghiệm tuổi đời, với thời gian sống tạm gọi là đủ trên xứ người đến bây giờ, qua theo dõi tin tức trong và ngoài nước, qua thu thập được những dữ kiện về đời sống sinh hoạt cũng như nhu cầu cùng nguyện vọng thiết tha của đồng bào trong nước, tôi nghĩ rằng tập thể chiến hữu chúng ta, không trừ ai, tự mỗi người đều có thể dễ dàng nhận ra ngay “một điều gì đó” mình nên và phải thực hiện hay tiến hành ngay lúc nầy.

Có một điều, nếu nói ra ngay ở đây, nó có vẻ như bi quan, bất cập; có vẻ như mình thiếu tinh thần chủ động, tự quyết. Nhưng nếu không nói ra, thì có nghĩa là mình “không biết người mà chỉ biết mình”. Như vậy, theo kinh nghiệm binh pháp của người xưa, mình có động thủ thì cũng chỉ nửa thắng, nửa bại mà thôi! Huống hồ, kinh nghiệm “mất nước” ngày trước, có ai trong chúng ta lại không biết rằng hoàn toàn do bàn tay lông lá của các thế lực chính trị quốc tế sắp xếp, định đoạt, an bài. Việc đã rành rành nên cũng chẳng sợ có ai phản bác, tranh cãi gì chuyện nầy nếu phải nói thẳng ra.

Như nền đệ nhất rồi đệ nhị Cộng Hòa của miền Nam VN, nếu có yếu kém về mặt nầy, thì công bình mà nói, cũng phải có mặt mạnh ở phía khác. Còn Quân Lực VNCH. chúng ta, qua hai thời kỳ chánh quyền đệ nhất và đệ nhị vừa nêu, với hai mươi năm đối đầu với giặc Cộng trên cùng khắp mặt trận, có lúc nào chúng ta nao núng lùi bước quân hành, chịu thế trận dưới chân nếu không muốn nói là ngược lại. Chúng ta luôn làm tròn và làm hơn nhiệm vụ, vai trò của những chiến sĩ bảo vệ quê hương. Nhưng tại sao giặc có thể dễ dàng cưỡng chiếm trọn vẹn đất nước. Tại sao chúng ta phải bị tan hang ?

Câu trả lời: là tại những thế lực chính trị của đất nước chúng ta đang dung thân, họ muốn. Người anh cả của chúng ta và cả thế giới tự do nữa, họ quyết định ! Vì mối lợi kinh tế tương giao trên lãnh vực toàn cầu, kể cả sách lược chính trị, đồng minh đã đổi chác chúng ta. Nhưng biết đâu, sự đổi chác nầy còn có thể là cả một ván cờ với nước đi có tính toán tầm cỡ chiến lược ? Và biết đâu, sau thời gian dài hao tiền lại tổn mạng binh sĩ Hoa Kỳ quá nhiều mà vẫn chưa quét sạch được hết CS trên dãy đất miền Nam VN, họ “đành” thực hành theo lời nói của tướng một mắt Do Thái ngày trước: “Muốn thắng CS hãy dành cho chúng thắng trước !”

Nói thẳng ra điều nầy để chúng ta có thể “mường tượng” ra được những gì không thể xảy ra, hoặc có thể sẽ xảy đến trong tương lai, để từ đó chúng ta lo liệu ứng phó.
Phải nói ngay, dù có quyết tâm, dù có mong muốn hay kỳ vọng, dù có thành tâm cầu nguyện các bậc tiền nhân tiên linh hiển phù trợ chúng ta đến đâu, CSVN hiện tại không thể nào tự nó từ bỏ quyền lực hay tự tiêu vong để trả lại giang sơn cho chúng ta.

Không có cái gì khác hơn là: “bứng”cả gốc lẫn rễ CSVN, mang chúng ra nghĩa trang tống táng. Ðó là quyền lực của toàn thể con dân VN trong và ngoài nước.
Ðể CSVN không còn chỗ đứng dưới ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, nếu thiếu sự tác động, sự hỗ trợ, sự tranh đấu, sự lên tiếng... từ phía những người Việt lưu vong tị nạn, là chúng ta đây, thì khó lòng mà tự phát. Như vậy, vận mạng nước nhà chắc sẽ còn đen tối dài lâu, mà qui luật sanh lão bệnh tử, không bảo đảm đa phần chúng ta còn có ngày nhìn thấy một VN xán lạn !

Chính kinh nghiệm mà ai cũng thấy được trong thời gian gần đây về những chuyện xảy ra trong nước đã nói lên điều nầy. Tự sự chống đối của khối Phật Giáo Hòa Hảo thuần thành ở miền Nam với lực lượng đàn áp tôn giáo của Cộng Sản, đến những chuyện nông dân kéo nhau biểu tình đòi đất đòi nhà từ Nam chí Bắc; rồi tiếp đến sự kiện giáo dân Thái Hà biểu tình, ngày đêm cầu nguyện đòi CSVN trả lại Tòa Tổng Giám Mục...
Sự việc lây lan khắp nơi, có lúc tưởng đã trở thành một biến động lớn, có khả năng phá tan được xiềng xích c ủa CSVN bao năm qua ! Nhưng Cộng Sản vốn xảo quyệt quỷ ma. Chúng vừa trấn áp bắt bớ, vừa xoa dịu. Vừa răn đe vừa hứa hẹn. Mặt nầy triệt tiêu thì mặt kia nới rộng... Từ đó, phong trào chống đối hay biểu tình, cầu nguyện dường như chưa t ác đ ộng mạnh như ch úng ta ngh ĩ . Nguyên cớ không gì khác hơn việc phong trào không có sự thống nhất, điều phối chung. Nói trắng ra, bởi không có thành phần cốt cán, chỉ đạo với quyết tâm đun nóng sự sôi sục của phong trào đấu tranh một cách liên tục, từ phía sau hay trong bóng tối. Ðiều đáng tiếc, chính các lực lượng tôn giáo trong nước mới thật sự là lực lượng nòng cốt, dũng mãnh nhất do phát xuất từ niềm tin, dù không tấc sắt, vẫn có thể lôi kéo được toàn thể đồng bào trong nước, kể cả những thành phần phản kháng trong các lực lượng bộ đội hay công nhân viên chức hành chánh của nhà nước CS, nhất tề đứng lên, nổi dậy lật đổ bạo quyền.
Một công đoàn đoàn kết Ba Lan trong thế kỷ trước đã làm được điều thần kỳ đó, tại sao Việt Nam không thể...?

Chúng ta không bi quan nghĩ rằng đồng bào mình trong nước đều có thể trạng “liệt kháng” như nhà văn DTH đã từng cho rằng như vậy. Tuy nhiên, qua những sự kiện đồng bào mất đất kéo nhau đi biểu tình trong vòng trật tự như hình ảnh cho thấy; cũng như tập thể giáo dân Thái Hà cùng thắp nến cầu nguyện trong hòa bình như đã diễn ra, thử hỏi có làm CSVN “nhúc nhích” nhượng bộ chút nào không...?
Người Cộng Sản nói chung, luôn chủ trương dùng bạo lực làm vũ khí, từ việc cướp đoạt chính quyền đến việc trị dân trong thời bình. Do vậy, hơn ai hết, họ cũng chỉ có thể kiêng dè hay chịu khuất phục trước bạo lực đối kháng mà thôi. Nếu chỉ tuần hành biểu tình trong vòng trật tự, hay thắp nến cầu nguyện đêm nầy qua ngày khác trong hòa bình, thì dù với vài ngàn, thậm chí vài chục ngàn giáo dân, CSVN vẫn chả hề nao núng. Họ vốn vô thần, đâu tin gì những điều hiển linh qua chuyện cầu nguyện sẽ có thể xảy ra để thánh thần trừng phạt họ ! Thay vì vậy, nói ví dụ mà nghe, chỉ cần một trăm, thậm chí vài mươi người, bằng cách nào tiếp cận và vào nơi triển lãm cái xác Cáo Già Hồ, kéo lê nó ra quảng trường Ba Ðình mà băm vằm, chắc chắn CSVN sẽ sợ hơn. Vì với thời đại thông tin ngày nay, hình ảnh đó sẽ trong chốc lát được bung ra khắp nước rồi tung lên khắp trang mạng trên hoàn cầu... Thử hỏi sẽ ép-phê biết dường nào, ảnh hưởng của sự vùng dậy sẽ lan nhanh đến chừng nào... Người Việt mình trong nước, nếu có “liệt kháng”, thì cũng chỉ “liệt” với cách thức bạo động như vậy mà thôi. Lại nữa, trong nước, nếu có những thành phần dân chúng nào sẵn sàng xung trận theo kiểu cách trên thì cũng chẳng dễ dàng gì trước những lực lượng chó săn bảo vệ lãnh tụ, dù chỉ là cái thây ma !

Người Mỹ chắc chắn sẽ không chủ trương có một cuộc thay đổi cập rập gây đổ máu nào thêm nữa trên đất nước Việt Nam lúc nầy dù họ có thể. Tuy nhiên, nếu như đồng bào trong nước, nhờ vào sự phù trợ nào đó từ các bậc tiền nhân hiển linh, hay chỉ vì đã đến lúc “tức nước vỡ bờ”, một ngày không xa nào đó, phát xuất từ lòng phẫn nộ, tất cả cùng vùng dậy quật ngã chế độ phi nhân bạo tàn CSVN.
Do vậy, nếu cần phải xác định bổn phận cùng trách nhiệm của từng chiến hữu trong QL.VNCH chúng ta trong lúc nầy, chúng ta mạo muội nhắc nhở cho chúng ta rằng, đó là việc phải làm bất cứ điều gì trong khả năng cá nhân có thể làm được nhằm yểm trợ, tiếp tay cho bất cứ ai đang cùng chúng ta hướng về một mục đích, một sứ mạng tối hậu cao cả: Ðó là giải thể tập đoàn thống trị bạo tàn CSVN cái lũ bán nuớc, buôn dân, ch úng sẳn sàn làm thái thú cho b ọn tàu phù bắc phương Trung Cộng.

Hồ Hoàng Hạ